NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
**********
ĐINH THỊ VÂN ANH
PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH THĂNG LONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – 2013
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
**********
ĐINH THỊ VÂN ANH
PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH
TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH THĂNG LONG
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 6034.0201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn Khoa học: TS. PHẠM THỊ HOÀNG ANH
HÀ NỘI – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long” là công
trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát từ yêu cầu phát sinh trong công việc
để hình thành hướng nghiên cứu. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng
nguyên tắc và kết quả trình bày trong luận văn được thu thập trong quá trình nghiên
cứu là trung thực chưa từng được ai công bố trước đây.
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
Tác giả luận văn
Đinh Thị Vân Anh
MỤC LỤC
40
44
66
67
70
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn giai đoạn 2010-2012Error: Reference source
not found
Bảng 2.2: Chỉ tiêu hoạt động tín dụng giai đoạn 2009-2012 Error: Reference
source not found
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh Error: Reference source not found
Bảng 2.4. Doanh thu dịch vụ ròng giai đoạn 2010-2012 Error: Reference
source not found
Bảng 2.5: Số lượng khách hàng và số món bảo lãnh Error: Reference source
not found
Bảng 2.6: Doanh số bảo lãnh từ năm 2010-2012 Error: Reference source not
found
Bảng 2.7: Số dư bảo lãnh theo loại hình bảo lãnh Error: Reference source not
found
Bảng 2.8: Dư bảo lãnh theo thời hạn bảo lãnh Error: Reference source not
found
Bảng 2.9: Dư bảo lãnh theo hình thức đảm bảo của bảo lãnh. Error: Reference
source not found
Bảng 2.10: Phí bảo lãnh BIDV Thăng Long và hệ thống BIDV từ 2010-2012
Error: Reference source not found
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Kết quả huy động vốn theo đối tượng khách hàng Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.3: Số món bảo lãnh từ năm 2010-2012 Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu các loại hình bảo lãnh Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.5: Dư bảo lãnh phân theo thời hạn Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.6: Dư bảo lãnh theo đối tượng khách hàng bảo lãnh Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.7: Dư bảo lãnh theo ngành kinh tế Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.8: Doanh thu phí bảo lãnh Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
40
44
66
67
70
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trước đây, hoạt động truyền thống của các ngân hàng là huy động vốn và
cho vay. Nhưng trước những đòi hỏi của nền kinh tế, ngân hàng buộc phải chuyển
hướng phát triển theo mô hình đa năng, hiện đại nếu muốn tồn tại và khẳng định vị
thế của mình trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh các sản
phẩm truyền thống, ngân hàng không ngừng sáng tạo, vận dụng và phát triển những
sản phẩm mới nhằm đa dạng hoá danh mục sản phẩm dịch vụ, tăng thị phần, phân
tán rủi ro và mang lại lợi nhuận cao nhất, bảo lãnh ngân hàng là một trong những
sản phẩm như vậy.
Bảo lãnh là dịch vụ ngân hàng hiện đại, ra đời vào những năm 70 của thế kỷ
XX và ngày càng phát triển trên thế giới. Ở Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng được áp
dụng từ năm 1994 và đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của các NHTM, nhân
tố quan trọng trong việc thực hiện thành công các giao dịch kinh tế, đặc biệt là trong
lĩnh vực thương mại quốc tế. Chính vì vậy, không ngừng nâng cao nghiệp vụ bảo
lãnh là yêu cầu cấp thiết đối với hệ thống NHTM Việt Nam nói chung cũng như
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói riêng.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long
(BIDV Thăng Long) là một trong 117 chi nhánh trực thuộc BIDV, được thành lập rất
sớm và có quy mô khá lớn. Trong những năm gần đây, hoạt động bảo lãnh tại BIDV
Thăng Long đã phát triển khá tốt, đạt những kết quả đáng ghi nhận. Bảo lãnh trở
thành dịch vụ mang lại nguồn thu phí quan trọng cho chi nhánh, góp phần thúc đẩy
các sản phẩm khác cùng phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì
hoạt động bảo lãnh vẫn còn nhiều hạn chế như: quy mô còn hạn chế, cơ cấu chưa hợp
lý, chính sách phí thiếu cạnh tranh, trình độ cán bộ còn hạn chế….Ngoài ra, thực
trạng xảy ra các rủi ro trong hoạt động bảo lãnh của các NHTM thời gian qua đã đưa
ra những bài học kinh nghiệm to lớn cho hệ thống ngân hàng cũng như BIDV Thăng
Long trong việc quản lý hoạt động bảo lãnh. Từ đó tất yếu đòi hỏi phải có những giải
pháp kịp thời để hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh an toàn hiệu quả, xứng
với tiềm năng của Chi nhánh nằm trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Trên cơ sở nhận
1
thức tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại BIDV nói chung và tại Chi
nhánh Thăng Long nói riêng, tôi quyết định chọn đề tài: “Phát triển nghiệp vụ bảo
lãnh tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng
Long” làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về nghiệp vụ bảo lãnh
của ngân hàng thương mại;
- Phân tích và đánh giá thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long;
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng
thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long trong 03 năm gần nhất
(2010, 2011, 2012).
4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp thống kê,
phân tích tổng hợp, đánh giá so sánh, xử lý số liệu;
- Kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh và phát triển nghiệp vụ bảo
lãnh của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
Chương 3: Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH VÀ PHÁT TRIỂN
NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức kinh tế kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ, với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và thực
hiện vai trò trung gian thanh toán. Trong đó, cho vay là hoạt động quan trọng, là sản
phẩm sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
NHTM có vị trí đặc biệt quan trọng trong các trung gian tài chính và có ảnh
hưởng lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc gia. NHTM có những vai trò cơ bản sau:
Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm huy động từ các thành phần
trong nền kinh tế để đầu tư vào mục đích sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. NHTM
góp phần giảm giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, là nơi
gặp gỡ giữa những người thừa vốn và người có nhu cầu sử dụng vốn.
Vai trò thanh toán: Thay mặt cho khách hàng thực hiện thanh toán cho nhà
cung cấp hàng hoá và dịch vụ (bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ, phân phối tiền giấy…).
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ thay khi khách hàng mất khả năng
thanh toán (phát hành thư tín dụng, đại lý).
Vai trò đại lý: Thay mặt cho khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành và chuộc lại chứng khoán (thường được thực hiện tại phòng uỷ thác).
Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách quản lý kinh tế, đặc
biệt là chính sách quản lý nghiệp vụ thị trường mở và một số chính sách khác của
Chính phủ, góp phần điều tiết tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
Để thực hiện vai trò của mình, nghiệp vụ của các NHTM ngày càng đa dạng
và phong phú gắn với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhằm đáp ứng những nhu
cầu mới phát sinh của nền kinh tế, trong đó phải kể đến nghiệp vụ bảo lãnh.
3
Theo Điều 361, Bộ luật dân sự Việt Nam, khái niệm bảo lãnh được định nghĩa
như sau: “Bảo lãnh là việc bên thứ ba (sau đây gọi là “Bên bảo lãnh”) cam kết với
bên có quyền (sau đây gọi là “Bên nhận bảo lãnh”) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là “Bên được bảo lãnh”), nếu khi đến thời hạn mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên
cũng có thể thỏa thuận việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”.
Theo Luật các TCTD Việt Nam năm 2010 quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về
việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách
hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”.
Theo Khoản 1, Điều 3, quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Thông
tư 28/2012/TT-NHNN ngày 03/10/2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì
định nghĩa: “Bảo lãnh ngân hàng (sau đây gọi là bảo lãnh) là hình thức cấp tín
dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh;
bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận”.
1.1.2. Đặc điểm của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
1.1.2.1. Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động đa phương
Trong hợp đồng bảo lãnh có ít nhất ba chủ thể tham gia ký kết bao gồm: ngân
hàng phát hành bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh (người thụ
hưởng bảo lãnh) với ba mối quan hệ sau:
Mối quan hệ hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Đây
là mối quan hệ gốc làm cơ sở phát sinh nhu cầu bảo lãnh. Nó được thể hiện bằng
hợp đồng gốc ràng buộc hai bên như hợp đồng mua bán, thi công, đấu thầu….
Mối quan hệ giữa ngân hàng và người được bảo lãnh thông qua hợp đồng bảo
lãnh. Trên cơ sở hợp đồng gốc thì khách hàng gửi đơn yêu cầu bảo lãnh đến ngân
4
hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết hoàn trả cho ngân hàng khi ngân hàng
đứng ra trả thay cho họ.
Mối quan hệ giữa ngân hàng với người nhận bảo lãnh thông qua cam kết bảo
lãnh. Khi người có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng gốc thì ngân hàng đứng ra thực hiện
trả thay cho khách hàng của mình (người được bảo lãnh).
Như vậy, ba mối quan hệ trên có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng ràng buộc lẫn
nhau và tác động trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.
1.1.2.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập
Tính độc lập với hợp đồng gốc là một đặc trưng nổi bật của bảo lãnh. Mục
đích của bảo lãnh là bồi hoàn cho người thụ hưởng những tổn thất từ việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng của người được bảo lãnh trong quan
hệ hợp đồng, nhưng việc thanh toán bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều kiện và điều
khoản quy định trong hợp đồng bảo lãnh. Mọi tranh chấp giữa người được bảo lãnh
và người nhận bảo lãnh không liên quan đến ngân hàng bảo lãnh. Do đó về bản chất
thì bảo lãnh ngân hàng là giao dịch phái sinh, nó tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay
các điều kiện ban đầu mà bảo lãnh lấy làm căn cứ và bên bảo lãnh không hề quan
tâm hay bị ràng buộc gì bởi hợp đồng và các điều kiện ban đầu đó, dù có tham chiếu
đến chúng trong bảo lãnh.
Tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào chính các điều kiện và điều khoản
của bảo lãnh. Một khi các điều kiện này được đáp ứng về mặt pháp lý, thì người
nhận bảo lãnh được quyền yêu cầu thanh toán mà không bắt buộc phải chứng minh
được sự vị phạm của đối tác, là người được ngân hàng bảo lãnh. Họ chỉ cần lập và
xuất trình bộ chứng từ phù hợp với bảo lãnh thì ngân hàng có trách nhiệm thanh
toán vô điều kiện và không được trì hoãn cho người nhận bảo lãnh. Trách nhiệm
này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng và người được bảo lãnh.
Ngân hàng không được viện bất kì lí do nào để từ chối thanh toán cho người nhận
bảo lãnh.
1.1.2.3. Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp
5
Khi ký hợp đồng bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chưa phải cấp vốn ngay
như khi ngân hàng ký hợp đồng tín dụng. Người được bảo lãnh có trách nhiệm trực
tiếp thực hiện nghĩa vụ đã ký kết trong hợp đồng gốc với người thụ hưởng bảo lãnh.
Khi nghĩa vụ của mỗi bên được hoàn thành đầy đủ thì ngân hàng không phải thực
hiện trả thay. Chỉ khi nào người được bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ đối
với bên thụ hưởng thì ngân hàng mới thực hiện trả thay. Khi đó, ngân hàng mới
chính thức cấp vốn cho khách hàng, và người được bảo lãnh phải cam kết nhận nợ
cũng như hoàn trả số tiền đó cho ngân hàng.
Như vậy, ngân hàng muốn thực hiện được vài trò là người bảo lãnh thì trước
hết phải có uy tín để tạo cơ sở niềm tin cho khách hàng và phải có một năng lực tài
chính đủ mạnh để thực hiện vai trò là người trả thay cho người được bảo lãnh.
1.1.2.4. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro
Mục đích của bảo lãnh là tạo điều kiện tốt nhất cho người được bảo lãnh có
thể tiếp cận được nguồn tài trợ nhằm thỏa mãn về nhu cầu vốn và đồng thời đảm
bảo quyền lợi, hạn chế rủi ro cho người nhận bảo lãnh. Nó mang tính độc lập cao,
ngân hàng không liên quan đến các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng cơ sở cũng
như các tranh chấp, tố tụng phát sinh từ hợp đồng của hai bên. Nhưng nó lại có thể
làm tăng tính rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng và đối tác của họ không trung
thực hay vi phạm cam kết với nhau trong kinh doanh. Điều này sẽ được làm rõ hơn
trong phần rủi ro của hoạt động bảo lãnh.
1.1.2.5. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
Bảo lãnh ngân hàng là một cam kết có điều kiện của ngân hàng và người được
bảo lãnh, ngân hàng bị ràng buộc với trách nhiệm thanh toán cho người nhận bảo
lãnh. Do vậy, ngân hàng sẽ theo dõi khoản bảo lãnh này ở ngoại bảng và không làm
thay đổi bảng cân đối tài sản của ngân hàng.
Khi phát sinh trách nhiệm trả thay cho người được bảo lãnh, ngân hàng sẽ phải
theo dõi số tiền đó như một khoản nợ của người được bảo lãnh. Nó trở thành một bộ
phận cấu thành bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Như vậy, bảo lãnh còn mang
tính chuyển đổi.
1.1.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
6
1.1.3.1. Bảo lãnh ngân hàng là công cụ bảo đảm
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bằng việc cam kết chi trả bồi
thường khi xảy ra các vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát
hành bảo lãnh đã tạo ra sự bảo đảm chắc chắn về tài chính cho người nhận bảo lãnh.
Người nhận bảo lãnh hoàn toàn không mong đợi bên được bảo lãnh vi phạm
hợp đồng để nhận bồi hoàn từ bên bảo lãnh. Họ chỉ coi đó là một công cụ có tính
chất bảo đảm an toàn cho mình khi có vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh.
Hơn nữa, bảo lãnh được dùng trong hợp đồng thi công, bảo lãnh sản phẩm, dự thầu
công trình… là những thỏa thuận không mang tính mua bán hay thanh toán. Trong
thực tế, tỷ trọng các bảo lãnh được yêu cầu thanh toán không cao, thông thường chỉ
khoảng dưới 5% (tại Mỹ là khoảng 1%) trong tổng số các bảo lãnh ngân hàng phát
hành. Do vậy, bảo lãnh là công cụ bảo đảm chứ không phải là công cụ thanh toán.
1.1.3.2. Bảo lãnh là một công cụ tài trợ
Khi tham gia vào các hoạt động kinh tế, vốn luôn là vấn đề quan trọng. Đặc
biệt là với những hợp đồng có giá trị lớn và thời gian kéo dài, trong điều kiện
khó tiếp cận với nguồn vốn vay từ các TCTD, thì vấn đề vốn lại càng trở nên bức
thiết. Và bảo lãnh ngân hàng ra đời trở thành dịch vụ có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, nhằm giảm bớt sự căng thẳng về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Chẳng hạn, trong hợp đồng xây dựng, nhà thầu chỉ có thể nhận được toàn bộ
giá trị hợp đồng từ chủ thầu khi hoàn thành và bàn giao công trình. Nhưng nhà thầu
lại cần một khoản tiền để thanh toán cho các chi phí phát sinh trong quá trình thi
công nên họ phải thương lượng với chủ thầu ứng trước cho mình một khoản tiền.
Lúc đó, ngân hàng của nhà thầu sẽ phát hành một bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
như là một công cụ tài trợ giúp nhà thầu có thể nhận được khoản tiền cần thiết đó để
giải quyết khó khăn về vốn.
Như vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn nhưng với việc phát hành bảo lãnh,
ngân hàng đã giúp cho khách hàng của họ được hưởng những thuận lợi về mặt ngân
7
quỹ như khi được cho vay. Bảo lãnh ngân hàng thực sự trở thành một công cụ tài
trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người được bảo lãnh trong quá trình kinh doanh.
1.1.3.3. Bảo lãnh được sử dụng như một công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng
Bảo lãnh ngân hàng ra đời trở thành chất xúc tác giúp cho các hợp đồng và
giao dịch diễn ra một cách thuận lợi nhất. Khi ngân hàng phát hành bảo lãnh cho
khách hàng là đã bị rằng buộc phải thực hiện nghĩa vụ cho người được bảo lãnh, khi
người này vi phạm cam kết với người nhận bảo lãnh. Ngân hàng sẽ thường xuyên
theo dõi, giám sát, kiểm tra, tạo ra áp lực buộc người được bảo lãnh phải luôn nỗ
lực hết sức để hoàn thành đúng tiến độ theo hợp đồng, giảm thiểu vi phạm xảy ra.
Người được bảo lãnh thì luôn mong muốn hoàn thành nghĩa vụ với đối tác.
Nếu vi phạm hợp đồng và ngân hàng trả thay thì đó là khoản nợ xấu mà họ có trách
nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng. Khi đó uy tín của người được bảo lãnh sẽ bị ảnh
hưởng, tác động xấu tới quá trình kinh doanh sau này. Do vậy, để tránh tổn thất có
thể xảy ra, họ sẽ luôn cố gắng hoàn thành tốt nhất nghĩa vụ đã cam kết với đối tác.
Như vậy, bảo lãnh ngân hàng chính là một công cụ hữu hiệu không những
giúp các chủ thể kinh tế thuận lợi hơn mà còn là công cụ giúp đôn đốc các bên hoàn
thành nghĩa vụ đã ký kết.
1.1.3.4. Bảo lãnh là công cụ đánh giá
Trước khi nhận bảo lãnh cho một khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện đánh giá
toàn diện các mặt của bên được bảo lãnh như: năng lực pháp lý, năng lực tài chính,
uy tín trong kinh doanh, khả năng thực hiện hợp đồng… từ đó quyết định có nên
phát hành bảo lãnh hay không. Với những khách hàng có uy tín, ngân hàng sẽ đồng
ý phát hành bảo lãnh, đồng thời có biện pháp để tăng cường mối quan hệ lâu dài với
khách hàng đó. Còn những khách hàng không hội tụ đủ điều kiện đề ra thì ngân
hàng từ chối cấp bảo lãnh nhằm đảm bảo an toàn cho mình.
1.1.4. Phân loại bảo lãnh của ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm phát
8
hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh (không qua trung
gian), trong đó cam kết sẽ thanh toán không hủy ngang với người thụ hưởng.
Sau khi ngân hàng thực hiện bồi thường cho người thụ hưởng, ngân hàng thực
hiện truy đòi bồi hoàn trực tiếp từ người được bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp thông
thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hành, người được bảo lãnh, người thụ
hưởng bảo lãnh. Trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài, thì xuất
hiện thêm một ngân hàng ở cùng quốc gia với người đó đóng vai trò là ngân hàng
thông báo.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ quy trình thực hiện bảo lãnh trực tiếp
(1): Hợp đồng chính được ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ
hưởng bảo lãnh.
(2): Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết bồi thường.
(3a): Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển đổi trực tiếp cho người thụ hưởng.
(3b): Ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể chuyển bằng văn bản bảo lãnh cho
người thụ hưởng qua ngân hàng thông báo.
Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu
ngân hàng thứ nhất (gọi là ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ hai (gọi là ngân
hàng phát hành) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng.
Trong loại bảo lãnh này người được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho
ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng chỉ thị sẽ chịu trách nhiệm bồi
Ngân hàng
phát hành
Ngân hàng
thông báo
Người được
bảo lãnh
Người thụ hưởng
bảo lãnh
(3b)
(2)
(3a)
(1)
(3b)
9
hoàn cho ngân hàng phát hành thông qua một cam kết gọi là bảo lãnh đối ứng. Sau
khi đã bồi hoàn cho ngân hàng phát hành chính thì đến lượt mình, ngân hàng chỉ thị
sẽ truy đòi từ người được bảo lãnh.
Như vậy, chỉ có ngân hàng thứ hai phát hành thư bảo lãnh, trong khi đó ngân
hàng thứ nhất hành động như ngân hàng chỉ dẫn và không có bất cứ quan hệ hợp
đồng nào với người thụ hưởng. Trong một số trường hợp có thể xuất hiện thêm sự
tham gia của một ngân hàng thông báo.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ quy trình thực hiện bảo lãnh gián tiếp
(1): Hợp đồng gốc ký giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh
(2): Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng
phát hành bảo lãnh.
(3): Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh,
đồng thời cam kết bồi hoàn trên cơ sở bảo lãnh đối ứng.
(4a): Ngân hàng phát hành bảo lãnh chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng.
(4b): Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển cho người thụ hưởng bảo lãnh
qua ngân hàng thông báo.
1.1.4.2. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh
Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh, về việc sẽ trả
nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy
đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh.
10
Ngân hàng
phát hành
Ngân hàng
chỉ thị
Người được
bảo lãnh
Ngân hàng
thông báo
Người thụ hưởng
bảo lãnh
(1)
(4b)
(4b)
(3)
(2)
(4a)
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Là cam kết của ngân hàng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực
hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên
nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường
cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì ngân
hàng sẽ thực hiện thay.
Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng được ghi trong thư bảo lãnh, khớp
đúng với đề nghị của bên được bảo lãnh, phù hợp với hợp đồng nhưng không trái
với quy định chung. Cụ thể:
- Tùy hợp đồng mà giá trị bảo lãnh giao động từ 10-15% giá trị hợp đồng gốc
hoặc lớn hơn. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng.
- Thời hạn bảo lãnh phụ thuộc thời hạn hợp đồng và kéo dài đến khi hoàn
thành hợp đồng. Chính vì vậy mà loại bảo lãnh này được sử dụng rất phổ biến.
Bảo lãnh thanh toán (bảo lãnh trả chậm)
Bảo lãnh thanh toán là cam kết của ngân hàng với bên thụ hưởng về việc thanh
toán tiền theo đúng hợp đồng cơ sở của người được bảo lãnh. Quan hệ giữa người
bán và người mua thực chất là quan hệ tín dụng thương mại, người mua chấp nhận
trả tiền hàng cho người bán theo kỳ hạn nợ cụ thể. Bảo lãnh thanh toán nhằm mục
đích tránh tổn thất cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh
không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền theo đúng hợp đồng. Số tiền và
thời hạn bảo lãnh phù hợp với số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở.
Do vậy, loại bảo lãnh này thường được dùng trong các hợp đồng thương mại, hợp
đồng thuê mua tài chính, hợp đồng xây dựng…
Bảo lãnh hoàn thanh toán (Bảo lãnh tạm ứng)
Trong các hợp đồng thương mại hay dịch vụ, người mua hàng hay người
hưởng dịch vụ đã ứng trước cho người bán hay cung cấp dịch vụ một số tiền để tạo
điều kiện cho người bán có thể sản xuất thuận lợi, nhanh chóng giao hàng cho
người mua. Đây là bằng chứng thực hiện nghĩa vụ mua hàng đã thỏa thuận. Số tiền
đặt cọc tương ứng với 10 - 50% giá trị hợp đồng tùy theo thỏa thuận của các
11
bên.Thông thường để tránh rủi ro lạm dụng của người thụ hưởng, văn bản bảo lãnh
loại này quy định bảo lãnh chỉ có hiệu lực khi điều kiện tiền đề đã được thỏa mãn.
Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với Chủ đầu tư (Bên mời thầu) sẽ
trả tiền thay trong phạm vi thời hạn và số tiền bảo lãnh nếu bên dự thầu có vi phạm
mà không nộp hoặc không nộp đủ số tiền phạt cho bên mời thầu.
Mục đích của bảo lãnh dự thầu nhằm bù đắp thỏa đáng những thiệt hại về thời
gian và chi phí cho Bên mời thầu thầu do những vi phạm của bên tham gia dự thầu,
đảm bảo chắc chắn rằng người dự thầu không rút lui, thay đổi hồ sơ dự thầu trước
khi chủ thầu thông báo kết quả đấu thầu, và bên dự thầu sẽ chấp nhận ký kết hợp
đồng nếu được thông báo trúng thầu.
Các loại bảo lãnh tài chính khác
Ngày nay, do các giao dịch thương mại diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp
hơn nên có rất nhiều loại bảo lãnh tài chính khác ra đời, để đảm bảo nghĩa vụ tài
chính của khách hàng nhằm đối phó với các loại rủi ro đặc thù. Các loại bảo lãnh
như: bảo lãnh vận đơn, bảo lãnh bảo hành sản phẩm, bảo lãnh thuế quan…
- Bảo lãnh vận đơn
Mục đích của bảo lãnh vận đơn là nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người nhập khẩu/người xuất khẩu trước sự lợi dụng vận đơn. Số tiền bảo lãnh từ
100% - 150% trị giá hàng hóa.
Nếu người xuất khẩu là người đề nghị phát hành: ngân hàng cam kết với người
nhập khẩu bồi thường mọi thiệt hại có thể phát sinh đối với họ, nếu vận đơn gốc
không được xuất trình hoặc được xuất trình không kịp thời.
Nếu người nhập khẩu là người đề nghị phát hành: ngân hàng cam kết với chủ
hãng vận tải sẽ bồi thường mọi thiệt hại nếu hàng hóa được giao cho một người
không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc đến chậm hơn tàu hoặc chủ hàng
vận tải được ủy nhiệm nhận hàng không có chứng từ để sử dụng.
- Bảo lãnh thuế quan
Mục đích của bảo lãnh thuế quan là đảm bảo cho người có trách nhiệm nộp
12
thuế trước những đòi hỏi của cơ quan thuế do chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của
mình. Giá trị bảo lãnh do cơ quan thuế quan ấn định tùy thuộc vào từng trường hợp
cụ thể. Thời gian bảo lãnh sẽ kết thúc khi hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế.
- Bảo lãnh bảo hành (Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm)
Đây là loại bảo lãnh thường được phát hành sau bảo lãnh thực hiện hợp đồng,
sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa, xây dựng được bàn giao, nghiệm thu. Là cam
kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các
thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo
lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi
thường thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay.
1.1.4.3. Căn cứ vào điều kiện thanh toán
Bảo lãnh theo yêu cầu
Bảo lãnh theo yêu cầu là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là
người thụ hưởng bảo lãnh chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho ngân hàng
phát hành, không cần có xác nhận của người được bảo lãnh hoặc của bất kỳ bên
thứ ba nào khác.
Loại bảo lãnh này thể hiện tính độc lập rất cao, ngân hàng không được viện
bất cứ lý do nào liên quan đến hợp đồng để trì hoãn việc thanh toán. Do vậy, người
thụ hưởng hoàn toàn chủ động trong việc yêu cầu thanh toán và luôn được đảm bảo
quyền lợi một cách chắc chắn và kịp thời. Bảo lãnh theo yêu cầu có số lượng chứng
từ đơn giản. Văn bản yêu cầu thanh toán bảo lãnh là do bên thụ hưởng đơn phương
lập ra, do đó nếu có gian lận, lừa đảo thì sẽ gây bất lợi cho cả ngân hàng và người
được bảo lãnh.
Bảo lãnh kèm chứng từ
Bảo lãnh kèm chứng từ là loại bảo lãnh mà ngân hàng chỉ thanh toán cho
người thụ hưởng khi có chứng từ xác nhận của bên thứ ba (thường là bên độc lập có
đủ tư cách, chuyên môn để xác định). Chứng từ có thể được xuất trình theo hai cách
sau đây:
- Người thụ hưởng xuất trình chứng từ cho bên thứ ba phát hành, chứng minh
13
hành vi vi phạm nghĩa vụ của người được bảo lãnh.
- Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán, không cần thêm loại chứng
từ nào khác nữa.
Nhược điểm của loại bảo lãnh này là gây ra chậm trễ trong thanh toán đền bù
cho người thụ hưởng. Đối với ngân hàng thì họ đòi phải có trách nhiệm và năng lực
ở mức độ cao hơn để tránh rủi ro.
Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc tòa án
Đây là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là ngân hàng yêu cầu người thụ
hưởng phải cung cấp được phán quyết của trọng tài hoặc tòa án, chứng minh sự vi
phạm nghĩa vụ của người được bảo lãnh và trách nhiệm bồi hoàn đối với người thụ
hưởng. Do tính phức tạp, không phù hợp với thông lệ quốc tế cho nên bảo lãnh kèm
phán quyết của trọng tài hoặc tòa án thông thường ít sử dụng trong thực tế.
1.1.4.4. Căn cứ vào vai trò của Ngân hàng bảo lãnh
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ
Đặc trưng của loại bảo lãnh này là nghĩa vụ của ngân hàng phát hành bị chi
phối bởi quy tắc đồng phạm vi, tức là ngân hàng và người được bảo lãnh được xem
là cùng nghĩa vụ: nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, còn nghĩa vụ của
ngân hàng là bổ sung. Nghĩa vụ bổ sung được thực hiện khi và chỉ khi có các chứng
cớ xác nhận là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Loại bảo lãnh này chủ yếu được sử
dụng trong phạm vi nội địa mà ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế.
Bảo lãnh độc lập
Bảo lãnh độc lập hoạt động trên hai nguyên tắc cơ bản: độc lập và hoàn
toàn phù hợp. Theo đó, nghĩa vụ của ngân hàng tách rời với nghĩa vụ của người
được bảo lãnh. Việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào điều kiện, điều khoản
quy định trong văn bản bảo lãnh được thỏa mãn. Bảo lãnh độc lập có nhiều ưu
điểm, mang lại nhiều thuận lợi cho người nhận bảo lãnh và ngân hàng phát hành
bảo lãnh. Trong thương mại quốc tế sử dụng rất phổ biến loại bảo lãnh này.
1.1.4.5. Căn cứ vào mô hình nghiệp vụ bảo lãnh
Mô hình một ngân hàng
Trong mô hình này chỉ có một ngân hàng tham gia thực hiện nghĩa vụ bảo
14
lãnh cho khách hàng của mình. Ngân hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc trả
thay cho khách hàng khi khách hàng vi phạm hợp đồng.
Mô hình nhiều ngân hàng tham gia bảo lãnh
- Mô hình đồng bảo lãnh
Đồng bảo lãnh là việc nhiều ngân hàng cùng tham gia bảo lãnh cho cùng một
nghĩa vụ của khách hàng, thông qua một ngân hàng đứng đầu gọi là ngân hàng đầu
mối phát hành bảo lãnh, các ngân hàng khác là ngân hàng đồng bảo lãnh.
Trong đồng bảo lãnh, các ngân hàng tham gia liên đới chịu trách nhiệm trong
việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Khi khách hàng không hoàn thành nghĩa vụ, ngân
hàng đầu mối phải thực hiện trả thay thì các ngân hàng thành viên có trách nhiệm
hoàn lại cho ngân hàng đầu mối số tiền tương ứng theo tỷ lệ đã thỏa thuận.
Sơ đồ 1.3: Mô hình đồng bảo lãnh
zz
(1) : Bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở
(2) : Các ngân hàng bảo lãnh cho bên được bảo lãnh
(3) : Bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng
(4) : Bên thụ hưởng bảo lãnh yêu cầu các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ trả thay
(5) : Các ngân hàng thực hiện nghĩa vụ của mình
- Mô hình tái bảo lãnh
Tái bảo lãnh là việc ngân hàng phát hành bảo lãnh chuyển giao một phần hoặc
toàn bộ giá trị hợp đồng cấp bảo lãnh cho một ngân hàng khác, đồng thời chia sẻ số
phí bảo lãnh thu được cho ngân hàng tái bảo lãnh. Tái bảo lãnh được sử dụng trong
15
NHBL A
NHBL B
NHBL C
Bên được bảo
lãnh
Bên thụ hưởng
bảo lãnh
(2)
(1) (3)
(4)
(5)
trường hợp người yêu cầu không hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng bảo lãnh ban
đầu hoặc do ngân hàng này muốn san sẻ rủi ro trong quá trình bảo lãnh.
Sơ đồ 1.4: Mô hình tái bảo lãnh
(1): Bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh ký kết hợp đồng cơ sở
(2): Ngân hàng bảo lãnh chính phát hành thư bảo lãnh
(3): Người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng với người thụ hưởng bảo lãnh
(4): Ngân hàng bảo lãnh chính không trực tiếp thanh toán
(5): Ngân hàng tái bảo lãnh thanh toán cho người thụ hưởng
(6): Ngân hàng tái bảo lãnh đòi tiền ngân hàng bảo lãnh chính.
1.1.5. Quy trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
1.1.5.1. Chủ thể tham gia
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, thường có ít nhất ba thành phần tham gia bao gồm:
Người bảo lãnh (The Guarantor): là người phát hành bảo lãnh theo yêu cầu
của khách hàng, dùng uy tín của mình đứng ra cam kết chịu trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng khi người được bảo lãnh không hoàn thành
đúng hợp đồng.
Người được bảo lãnh (The Principal): là khách hàng, là người yêu cầu ngân
hàng phát hành bảo lãnh để trả thay cho đối tác của họ khi họ vi phạm hợp đồng.
Người thụ hưởng bảo lãnh (The Beneficiary): là người nhận cam kết bảo lãnh,
được ngân hàng bồi thường khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng.
16
Ngân hàng bảo
lãnh chính
Người được bảo
lãnh
Ngân hàng tái
bảo lãnh
Người thụ hưởng bảo
lãnh
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
Ngân hàng bảo lãnh
Người được
bảo lãnh
Người thụ
hưởng bảo lãnh
(2) (3)
(1)
Sơ đồ 1.5: Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia trong nghiệp vụ bảo lãnh
(1): Mối quan hệ giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Đây
là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh.
(2): Mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh. Người được
bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Hay nói
cách khác đó là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng và người hưởng tín dụng.
(3): Mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh.
Khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng gốc thì ngân hàng bồi thường cho
người thụ hưởng.
1.1.5.2. Quy trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
Đối với ngân hàng, rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh cũng tương tự như trong
nghiệp vụ cho vay. Khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, khoản tiền các ngân hàng
bỏ ra trả thay được xử lý như một khoản nợ quá hạn. Vì vậy, trình tự và thủ tục
trong một nghiệp vụ bảo lãnh cũng có nhiều điểm tương tự như trong nghiệp vụ cho
vay. Thông thường quy trình bảo lãnh thường trải qua năm bước như sau:
17