Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.86 KB, 34 trang )

Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta điều biết, thâm hụt ngân sách là một vấn đề mà mọi quốc gia
trên thế giới đều gặp phải. Ngay cả một cường quốc kinh tế như Mỹ cũng phải đau
đầu và vật lộn với vấn đề này, và tất nhiên Việt Nam cũng không ngoại lệ. Việc xử
lý thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ
tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có những biến động lớn như:
giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều
nước trên thế giới…, việc tìm ra giải pháp để điều chỉnh thâm hụt ngân sách ở các
quốc gia trên thế giới nói chung và ở tại Việt Nam nói riêng là hết sức cấp bách và
cần thiết. Ở nước ta, mức độ thâm hụt ngân sách ngày càng gia tăng và ngày càng tác
động tiêu cực tới đời sống nhân dân cũng như tới toàn bộ nền kinh tế. Đây chính là
một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gia tăng lạm phát gây khó
khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ.
Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách diễn ra ở
Việt Nam trong các năm qua như thế nào? Giải pháp nào để xử lý thâm hụt NSNN,
ổn định vĩ mô nền kinh tế, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển
kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? Bài tiểu luận này
với đề tài “Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp” là quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra đáp án cho những câu hỏi trên.
Bài tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương I: KHÁI NIỆM THÂM HỤT NGÂN SÁCH
Chương II: THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM
Chương III: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở
VIỆT NAM
Tuy nhiên, thâm hụt NSNN là một vấn đề mang tính vĩ mô, với trình độ hiểu
biết cũng như trình độ lý luận có hạn nên bài viết của em không thể tránh khỏi
những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô để bài
viết được hoàn thiện hơn.
Chương I


Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 1
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
KHÁI NIỆM VỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH
I – KHÁI NIỆM NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC & THÂM HỤT NGÂN SÁCH:
1. Ngân sách nhà nước:
Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam
thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng
và nhiệm vụ của nhà nước.
Hàm ngân sách có dạng đơn giản sau:
Trong đó: B là cán cân ngân sách
G là chi tiêu ngân sách
Y là thu ngân sách
Xét về hình thức: NSNN là một bản dự toán thu chi do Chính phủ lập
ra, đệ trình Quốc hội phê chuẩn và giao cho chính phủ tổ chức thực hiện.
Xét về thực thể: NSNN bao gồm những nguồn thu cụ thể, những khoản
chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền
tệ - quỹ NSNN – và các khoản chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy.
Xét về các quan hệ kinh tế chứa đựng trong NSNN các khoản thu –
luồng thu nhập quỹ NSNN, các khoản chi – xuất quỹ NSNN đều phản ánh
những quan hệ kinh tế nhất định giữa Nhà nước và người nộp, giữa Nhà nước
với cơ quan, đơn vị thụ hưởng quỹ.
Từ đây có thể rút ra nhận xét: NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát
sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia
nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
2. Thâm hụt ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước) là
tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước lớn hơn các khoản thu,

Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 2
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các
khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ
lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
VD: Thâm hụt NSNN năm 2009 là 155 900 tỷ đồng, tỉ lệ thâm hụt so với GDP
là 6.9 % (theo cách tính của Việt Nam).
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về NSNN hằng năm như sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Thu Chi
A. Thu thường xuyên (thuế,
phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản
nhà nước).
C. Bù đắp thâm hụt.
– Viện trợ.
– Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới – trả
nợ gốc).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới – thu nợ gốc).
Trong đó: A + B +C = D + E + F. Công thức tính thâm hụt NSNN của một
năm sẽ như sau:
Thâm hụt NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng, NSNN không cần thiết phải
cân bằng theo tháng, theo năm. Vấn đề là phải quản lý các nguồn thu và chi
sao cho ngân sách không bi thâm hụt qua lớn và kéo dài. Tuy vậy, trong nhiều

nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, các Chính phủ vẫn theo đuổi một
chính sách tài khóa thận trọng, trong đó chi ngân sách phải nằm trong khuôn
khổ các nguồn thu ngân sách để tránh tình trạng thâm hụt.
3. Phân loại thâm hụt NSNN:
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại:
thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 3
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
• Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những
chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp
bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
• Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của
chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và
thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp
tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi
ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như
sau:
• Thâm hụt ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt
tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý
hoặc một năm).
• Thâm hụt ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của
chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm
năng.
• Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là thâm hụt ngân sách bị động do sự
vận động theo chu kỳ của nền kinh tế thị trường. Thâm hụt ngân
sách chu kỳ được tính bằng hiệu số giữa ngân sách thực có và ngân
sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự
khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính

sách ổn định tự động.Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng
quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi
thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm
hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh
chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
II – NGUYÊN NHÂN GÂY THÂM HỤT NGÂN SÁCH:
Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra thâm hụt NSNN:
- Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh.
Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 4
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội.
Điều đó làm cho mức thâm hụt NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế
phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng
tương ứng. Điều đó làm giảm mức thâm hụt NSNN. Mức thâm hụt do
tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là thâm hụt chu kỳ.
- Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu
thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh
đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức thâm hụt NSNN. Ngược
lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì
mức thâm hụt NSNN sẽ giảm bớt. Mức thâm hụt do tác động của chính
sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là thâm hụt cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai
lớn,…), tổng hợp của thâm hụt chu kỳ và thâm hụt cơ cấu sẽ là thâm hụt NSNN.
III – TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ:
1. Thâm hụt ngân sách và vấn đế thoái lui đầu tư:
Theo “Thuyết tương đương” của Ricardo khi có tình trạng thâm hụt
ngân sách thì tiết kiệm của dân chúng tăng lên bằng mức thâm hụt. Vì thế sẽ
không ảnh hưởng đến lãi suất, không gây cản trở đầu tư.
Tuy nhiên, qua thực tế ở nhiều nước khi ngân sách nhà nước thâm hụt,

chi tăng, thu giảm, GNP sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền tăng theo.
Với mức cung tiền cho trước, lãi suất sẽ tăng lên, bóp nghẹt một số đầu tư.
Kết quả là một phần GNP tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao, kéo theo
thoái lui đầu tư với quy mô nhỏ nếu trong ngắn hạn và quy mô lớn nếu trong
dài hạn. Từ đó làm giảm sự tăng trưởng kinh tế.
2. Thâm hụt NSNN – một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát:
“Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.”
Khi ngân sách thâm hụt lớn, chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải,
lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi giá cả
đã tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng
tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Mà tác hại của lạm phát là rất lớn như
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 5
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên, gây biến dạng về cơ
cấu sản xuất và làm việc trong nền kinh tế... Như vậy, nghĩa là thâm hụt
NSNN gián tiếp gây ra các tác động trên làm tổn hại đến nền kinh tế.
Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động ngược đến thâm hụt ngân sách
nhà nước. Với tác động phân phối lại của cải một cách ngẫu nhiên thì lạm
phát cũng làm dễ dàng hơn cho chính phủ trong một chừng mực nhất định:
Thứ nhất, Chính phủ có thêm một nguồn thu nhập đó là thuế lạm phát.
Thứ hai, Chính phủ có thể được lợi nếu lạm phát làm cho lãi suất danh
nghĩa tăng ít hơn bản thân của lạm phát.
Và như vậy bản thân mức thâm hụt NSNN có thể giảm.
3. Tác động của thâm hụt ngân sách tới cán cân thương mại
Hiệu số giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong khoản giao dịch còn gọi là
cán cân thương mại. Các hoạt động xuất và nhập hàng hóa không chỉ được
đánh giá thông qua số lượng mà còn được đánh giá thông qua tỷ lệ trao đổi.
Tỷ lệ trao đổi ở đây là tỉ số giữa giá hàng xuất khẩu của một nước và giá hàng
nhập khẩu của bản thân nước đó. Như vậy, nếu như giá xuất khẩu tăng lên
một cách tương đối so với hàng nhập khẩu thi cán cân thương mại sẽ được

tăng cường theo hướng tích cực và ngược lại (nếu như khối lượng hàng không
thay đổi).
Như ta đã phân tích ở trên, tình trạng thâm hụt ngân sách sẽ làm cho lãi
suất thị trường tăng. Lãi suất tăng làm cho giá trị đồng nội tệ tăng giá, giá
hàng hóa trong nước theo đó cũng tăng theo đó cũng tăng làm giảm lượng
hàng xuất khẩu. Trong khi tương ứng, hàng hóa của đất nước khác sẽ rẻ tương
đối so với nước đó, dẫn tới việc tăng lượng hàng nhập khẩu. Vì vậy, thâm hụt
ngân sách sẽ gây ra tình trạng nhập siêu: Nhập vào lớn hơn xuất ra, việc sử
dụng hàng hóa sản xuất trong nước bị hạn chế, sản xuất gặp nhiều khó khăn,
tác động không ít tới sự tăng trưởng kinh tế.
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 6
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
Chương II
THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH VIỆT NAM
I – THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH Ở NƯỚC TA TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2000 – 2010):
Bảng thông kê tình hình thâm hụt ngân sách qua các năm (2000 – 2010)
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 7
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
Chỉ tiêu



Năm
Tổng thu
cân đối
NSNN
Tổng chi cân đối
ngân sách nhà

nước
Thâm hụt ngân
sách nhà nước
Tỷ lệ bội chi
NSNN so với
GDP
2000 90,749 108,961 22,000 4.7 %
2002 123,860 148,208 25,597 4.5 %
2003 177,409 197,573 29,936 4.9 %
2004 224,776 248,615 34,703 4.85 %
2005 283,847 313,479 40,746 4.86 %
2006 272,877 321,377 48,500 5 %
2007 311,840 368,340 56,500 5 %
2008 408,080 474,280 66,200 4,95%
2009 442,340 584,695 115,900 6.9 %
2010
(ƯTH lần 1)
528,100 588,210 113,110 5.8 %
(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài chính)
Qua thống kê cho thấy, trong những năm trở lại đây, tỉ lệ thâm hụt (bội
chi) ngân sách ở Việt Nam luôn nằm ở ngưỡng 5% GDP và có xu hướng tăng
lên. Đây là một tỉ lệ rất cao. Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình
thường, thâm hụt ngân sách ở mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại, còn ở
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 8
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
mức 5% GDP thì bị coi là đáng báo động. Riêng năm 2009 tỉ lệ thâm hụt ngân
sách đã lên tới 6.9% GDP. Tốc độ tăng thâm hụt ngân sách cũng là khá cao từ
17 – 18%. Cụ thể năm 2006 mức thâm hụt là vào khoảng 48,5 nghìn tỷ đồng
thì năm 2007 đã tăng lên tới 56,5 nghìn tỷ đồng. Và theo kết quả công bố Dự
toán NSNN năm 2010 và 2011 thì tỉ lệ thâm hụt ngân sách lần lượt sẽ là 6.2%

GDP và 5,3% GDP, có giảm so với năm 2009 nhưng vẫn còn ở mức cao.
Ngoài ra, những khoản chi ngoài ngân sách trong mấy năm gần đây lên tới 20
– 25 % tổng ngân sách. Một tỉ quá cao.
Tuy nhiên, theo một số chuyên gia và tổ chức kinh tế trên thế giới thì
những con số trên còn lớn hơn nhiều. Cụ thể, theo chuyên gia tư vấn quốc tế
Jitendra Modi thì tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam năm 2007 phải là 6.9%
GDP thay vì con số xấp xỉ 5% GDP như báo cáo của Chính phủ đã trước Quốc
hội. Trong cuộc họp Hội nghị Nhóm tư vấn cho Việt Nam được tổ chức tại
Kiên Giang, thì đại diện của Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF cho biết mức thâm hụt
năm 2009 đã lên tới 9% GDP, theo cách tính của IMF. Tỷ lệ này cao hơn
nhiều so với mức Việt Nam công bố chỉ là 6,9% GDP. Đối với IMF, rõ ràng
đó là một mức thâm hụt "lớn" và "không bền vững". Mức chênh lệch giữa 2
cách tính gần 2% GDP nếu quy đổi ra con số tuyệt đối sẽ lên đến hàng nghìn
tỷ đồng – một con số quá lớn trong điều kiện phải kiểm soát và thắt chặt chi
tiêu như hiện nay. Tình hình thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đang
diễn ra hết sức phức tạp.
Dưới đây là biểu đồ so sánh thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một
số nước trong khu vực (2001 - 2007)
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam và một số nước (2001 - 2007)
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 9
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
Nguồn: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
Biểu đồ cho thấy tình trạng thâm hụt ở nước ta có xu hướng ngày càng
gia tăng và cao hơn các nước trong khu vực.
II – BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ MỐI LIÊN HỆ ĐẾN LẠM PHÁT VÀ MẤT
CÂN ĐỐI VĨ MÔ:
Thâm hụt ngân sách và lạm phát cùng mất cân đối vĩ mô có mối quan
hệ mật thiết với nhau.Nguyên nhân của lạm phát cao về cơ bản có một phần
quan trọng là do chính sách tài khóa quá lỏng lẻo mà thể hiện cụ thể qua mức
thâm hụt NSNN tăng liên tục qua các năm.

Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng
yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi
tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai
đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta.
Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị
trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính
sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ
chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn
phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 10
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên
lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng
nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì
không có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 – 1990, khi
mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm
không đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn
bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là
điều khó tránh khỏi.
Đồ thị 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi NSNN
(1985 – 1990)
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong thời gian 5 năm 1986 – 1990, mức thâm hụt này một phần được
hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền cụ thể qua bảng sau:
Mức phát hành tiền để bù đắp thâm hụt NSNN (1984 – 1990)
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm

Mức phát hành tiền
để bù đắp thâm
hụt NSNN
1984 0.4
1985 9.3
1986 22.9
1987 89.2
1988 450
1989 1655
1990 1200
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 11
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài và một số
nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước.
Tỉ lệ % các khoản vay nợ và viện trợ nước ngoài so với thâm hụt (1984 – 1990)
Đơn vị: %
Năm
Tỉ lệ % các khoản vay
nợ và viện trợ so với
thâm hụt
1984 71.3
1985 40.8
1986 38.4
1987 32.1
1988 32.6
1989 24.9
1990 46.7
Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng
thiếu hụt NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988,

một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể
một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những
phân tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai
đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự
phát hành tiền như ở đồ thị 1.
Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình
trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được
đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần thay đổi
theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình
trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt.
Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh
tế – xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt NSNN đã giảm
dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong
giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ thâm hụt NSNN so với GDP chỉ ở mức
1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm
1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy thâm hụt NSNN trong những năm 1991-
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 12
Tiểu luận Lý thuyết tài chính GVHD: Thầy Võ Văn Hiển
1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong
thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát.
Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều
chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu
tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai
đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước
Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới
tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ thâm hụt
NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996:
3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000:

4,95%). Tỷ lệ thâm hụt bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình
quân năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức thâm hụt cao nhất là 4,95%
GDP và năm 1998 có mức thâm hụt thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy
thoái và thiểu phát, nên mức thâm hụt NSNN như trên không tác động gây ra
lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể.
Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi bình quân
hằng năm đạt 18,5%. Thâm hụt NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân
đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so
với GDP, cũng thấy thâm hụt NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn các
năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai đoạn năm
1991-1995, mức thâm hụt NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn
từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP.
Thực tế trong các năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng thâm hụt
NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng
trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002:
1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%;
năm 2007: 7,8%).
Đồ thị 2: Bội chi NSNN so với GDP
Nguyễn Bảo Ân K48C – A7 13

×