Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNHHĐH ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.45 KB, 32 trang )

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
PHẦN MỞ ĐẦU
1 / Lí do chọn đề tài :
Trong xu thế toàn cầu hoá, với nền kinh tế tri thức và sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, chuyển giao từ nền văn minh công nghiệp sang văn minh trí
tuệ, tất cả các nước trên thế giới đang thực hiện cuộc chạy đua để đạt đến cái
đích đó. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ( CNH-HĐH ) đất nước
đang diễn ra rầm rộ ở các quốc gia và tiếp cận ngày càng sâu văn minh trí
tuệ - một sự đầu tư vô cùng lớn cho tương lai. Và trong sự nghiệp phát triển
đó, yếu tố về con người là yếu tố quan trọng bậc nhất chi phối các yếu tố
khác và cả quá trình đổi mới. Con người là trung tâm và động lực của vận
hội đất nước, giai cấp công nhân (GCCN) lại là trung tâm của trung tâm đó.
Đất nướcViệt Nam chúng ta cũng đang trên con đường hội nhập cùng bạn
bè quốc tế, tiếp tục xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam trong thời kì
hiện nay là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, nhà nước, của cả hệ
thông chính trị, của mỗi công dân và của toàn xã hội. Nước ta đã chính thức
là thành viên của WTO, sức ép cạnh tranh và chuyển dịch lao động diễn ra
rất phức tạp và quyết liệt. Đến năm 2020 ta cơ bản hoàn thành CNH-HĐH
để có một đất nước “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh “. Vì thế yêu cầu đặt ra là phải có một GCCN đủ mạnh cả về số lượng
lẫn chất lượng, có trình độ tay nghề cao, có kỉ luật và tác phong công nghiệp.
GCCN chiếm giữ một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 1 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
đổi mới của đất nước, là trung tâm của xã hội. GCCN Việt Nam có mặt trong
tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề đồng thời là lực lượng sản xuất
cơ bản nắm giữ cơ sở vật chất quan trọng, quyết định phương hướng phát
triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Là lực lượng nòng cốt của liên minh
công – nông – trí thức, là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó,
GCCN cần có những thay đổi tích cực nhằm thích ứng với những thay đổi
của xã hội hiện đại cũng như không để mình bị tụt hậu và thực hiện tốt vai


trò lãnh đạo của mình.
Thực trạng của GCCN Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải có những thay đổi,
chuyển biến cụ thể, thiết thực. Nếu không họ vẫn mãi là những con người
nghèo khổ không chỉ về vật chất mà còn nghèo cả về tư duy, kiến thức. Như
thế họ sẽ dần mất đi vai trò tiên phong của Đảng cộng sản Việt Nam, không
còn là lực lượng nòng cốt của Đảng, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vấn đề về phương hướng nâng cao chất lượng của GCCN Việt Nam trong
thời kì CNH-HĐH đất nước là một vấn đề quan trọng mang tính chất thời
đại cần được quan tâm sâu sắc và nếu giải quyết tốt thì nước ta sẽ nhanh
chóng thành công trên con đường sự nghiệp trong tương lai. Với tất cả
những lí do trên, tôi chọn vấn đề này để làm đề tài cho bài nghiên cứu của
mình.
2 / Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .
2.1) Mục đích.
Tìm ra những phương hướng nhằm nâng cao chất lượng của GCCN Việt
nam hiện nay.
Giúp GCCN Việt Nam ngày càng khẳng định tốt vai trò là lực lượng nòng
cốt , tiên phong của Đảng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
theo định hướng XHCN.
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 2 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
2.2) Nhiệm vụ.
Nêu lên những vấn đề lí luận chung về GCCN.
Làm rõ thực trạng của GCCN Việt Nam hiện nay.
Đưa ra những phương hướng nhằm nâng cao chất lượng của GCCN Việt
Nam trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước.
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1) Đối tượng nghiên cứu.
Giai cấp công nhân Việt Nam.
3.2) Phạm vi nghiên cứu.

Vấn đề về GCCN Việt Nam hiện nay là một vấn đề nóng cần được quan
tâm, nghiên cứu về vấn đề này là một việc làm mang tính xã hội cao. Tuy
nhiên do trình độ kiến thức có hạn và thời gian không cho phép nên phạm vi
nghiên cứu còn hạn chế. Ở đây chúng ta chủ yếu chú trọng vào tình hình
GCCN Việt Nam từ những năm đổi mới (1986) đến nay và chủ trương phát
triển GCCN hiện nay của Đảng và nhà nước ta.
4) Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1) Cơ sở lí luận :
Lập trường macxit của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về GCCN.
Nghị quyết hội nghị lần 6 (khoá X) của Đảng cộng sản Việt Nam về
GCCN.
4.2) Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử nhằm nghiên cứu hệ thống lí luận về GCCN của chủ
nghĩa Mác- Lênin, vận dụng nó để đề ra phương hướng nhằm nâng cao chất
lượng của GCCN Việt Nam trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước.
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 3 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
Đọc và phân tích những tài liệu liên qua đến GCCN thế giới nói chung và
GCCN Việt Nam nói riêng
Sử dụng các qui tắc diễn dịch, qui nạp nhằm trình bày nội dung bài tiểu
luận.
5) Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
5.1) Ý nghĩa khoa học.
Nghiên cứu lí luận về GCCN trong điều kiện CNH-HĐH đất nước theo
định hướng XHCN để thấy được vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của
GCCN trong giai đoạn hiện nay.
5.2) Ý nghĩa thực tiễn.
Nêu lên thực trạng của GCCN trong giai đoạn hiện nay đồng thời đưa ra

một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng của GCCN Việt Nam, giúp
thích nghi với sự thay đổi của xã hội vượt qua những khó khăn đưa đất nước
đi lên.
6) Kết cấu tiểu luận .
Ngoài phần mở đầu, kết luận , mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
tiểu luận gồm 2 chương và 5 tiết.
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 4 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
PHẦN NỘI DUNG .
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN.
1.1) QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ GCCN.
1.1.1) Quan điểm của Mác – Ănghen về GCCN.
Trong hai tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” của CacMác (1848)
và “CácMác”của Ănghen (1877) , hai ông đã nêu ra được những nét tổng
quát, chỉ rõ sự khác nhau về địa vị , đặc điểm, sứ mệnh của từng giai cấp
trong lịch sử. Trên cơ sở đó, hai ông đã có những nhận định về GCCN.
Thứ nhất : Về phương thức lao động của GCCN:
Hai ông cho rằng ,họ là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng
hiện đại và có trình độ xã hội hóa cao. Đặc trưng này phân biệt người công
nhân hiện đại với người thợ thủ công. “Trong công trường thủ công và trong
nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn
trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc”.
Trong xã hội tư bản thì “ tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn GCVS lại là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp”.
Từ đặc trưng này mà Mác và Ănghen gọi GCCN là GCCN hiện đại hay
GCCN đại công nghiệp.

Thứ hai: Về địa vị của GCCN trong hệ thống quan hệ sản xuất TBCN:
Về mặt này, hai ông đã thấy được người công nhân không có tư liệu sản
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 5 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
xuất buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống, khiến họ trở
thành giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản (GCTS) và là lực lượng
đối kháng của GCTS. Từ đặc trưng thứ hai này mà Mác và hen gọi GCCN là
GCVS.
Trong tác phẩm “Những nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản” , Ăghen có
định nghĩa : “GCVS là giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc
bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ
tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn
bộ sự sống của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình
diễn biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của
cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, GCVS hay những người
vô sản là giai cấp lao động trong thế kỉ XIX”.
1.1.2) Quan điểm của Lênin về GCCN.
Kế thừa và phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác, trong tác phẩm
sáng kiến vĩ đại” của mình, Lênin nhận định : “Người ta gọi là giai cấp,
những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về
phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.Giai cấp là những tập
đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác,
do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một thể chế kinh tế xã hội
nhất định”. Từ đó Lênin đã hoàn thiện thêm khái niệm về GCCN. Theo ông
trong các nước đi theo con đường XHCN về cơ bản GCCN cùng với nhân
dân lao động đã trở thành những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội. Địa vị kinh tế và chính trị của họ đã có những thay đổi căn

GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 6 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
bản”.
Như vậy trên con đường hoàn thiện chủ nghĩa Mác, Lênin đã hé mở ra con
đường giải phóng cho GCCN và nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, đó
là giành quyền làm chủ cho chính mình.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa maxit cũng đã bàn về sứ mệnh lịch sử
(SMLS) của GCCN, các ông cho rằng GCCN là giai cấp có SMLS lãnh đạo
nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ mọi chế độ áp
bức bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Đẻ thực hiện được nhiệm vụ đó thì GCCN phải là giai cấp thống trị về chính
trị, là động lực và lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm thủ tiêu mọi sự
áp bức, bóc lột và sự tha hóa của con người, sáng tạo xã hội mới, là lực
lượng lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu toàn bộ giai cấp.
Quá trình hoàn thành sứ mệnh đó phải trải qua hai giai đoạn là “ GCVS
chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết trở thành
của nhà nước” tiếp đó GCVS cũng tự thủ tiêu với tư cách là GCVS ,chính vì
thế mà nó cũng xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp”.
Có như vậy GCCN mới xóa bỏ được xã hội có giai cấp, xóa bỏ chế độ áp
bức bóc lột và hoàn thành SMLS của mình.
1.1.3) Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về GCCN.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã làm rất nhiều công
việc của người công nhân để kiếm sống và Người đã rút ra được kết luận :”Ở
đâu CNTB cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu GCCN và nhân dân lao động
cũng bị áp bức boác lột dã man, ở dâu người dân mất nước cũng khổ nhục
như nhau “.Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì tư tưởng về GCCN
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là một quan điểm nhất quán, đánh giá
đúng bản chất cách mạng và năng lực lãnh đạo của GCCN. Trong cuốn
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 7 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC

“Đường cách mệnh “ và các văn kiện được thông qua tại hội nghị thành lập
Đảng, các quan điểm về GCCN được Người khẳng định : “GCCN là gốc
cách mạng, là lực lượng, là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đandr
cộng sản Việt Nam là Đảng của GCCN Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
làm nền tảng và kim chỉ nam cho các hoạt động của Đảng, GCCN cần phải
đoàn kết với giai cấp nông dân và các thành phần dân tộc khác để đấu tranh
giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ và đi tới xã hội cộng sản, GCCN Việt
Nam có mối liên hệ mật thiết với GCCN quốc tế”. Người nhận rõ: “GCCN
các nước kể cả thuộc địa và chính quốc phải đoàn kết để chống kẻ thù chung
là CNTB, để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do GCCN lãnh
đạo ,vì nó là giai cấp tiền tiến nhất ,giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỉ luật
nhất và có tổ chức chặt chẽ nhất”.
Mở đầu nghị quyết 6 (khóa 10), Trung ương Đảng đã đưa ra khẳng định :
“GCCN là một lực lượng xã hội to lớn đang phát triển, bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Bác Hồ và Đảng ta đã có những nhận định đúng đắn về GCCN quốc tế
nói chung và GCCN việt Nam nói riêng.Người cũng đã đề ra những đường
lối, chủ trương phát triển GCCN nước nhà . Trong thời đại CNH-HĐH,
Đảng ta cũng đã và đang lãnh đạo tiếp tục xây dựng và phát triển GCCN
theo chủ trương của Bác.
Dựa trên quan điểm của các nhà triết học và tình hình của GCCN trong
sự phát triển khoa học công nghệ rút ra được định nghĩa : “GCCN là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển
của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 8 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
có tính xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật

chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử
quá độ từ CNTB lên CNXH. Ở các nước TBCN, GCCN là những người
không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho GCTS
và bị GCTS bóc lột giá trị thặng dư. Ở các nước XHCN, họ là những người
đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng
nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích
chính đáng của chính bản thân họ”.
1.2) VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ GCCN VIỆT NAM.
1.2.1) Nguồn gốc ra đời.
GCCN Việt Nam ra đời từ rất sớm, là sản phẩm trực tiếp của cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897). Thời kì này giai cấp
nông dân chiếm trên 90% số dân, bị đế quốc phong kiến bóc lột nặng nề
bằng các thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch, tước đoạt
ruộng đất…Họ bị bần cùng hóa và phá sản trên qui mô lớn. Trong lúc đó,
thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, chúng tước đoạt , phá hoại mọi thứ,
thành lập các xưởng công nghiệp, xí nghiệp,đồn điền, hầm mỏ…và người
nông dân phá sản phải vào làm việc ở đó rồi trở thành GCCN. GCCN Việt
Nam phát triển khá nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng trong cuộc khai thác
lần hai (1924-2929) của thực dân Pháp ở Việt Nam. Họ thật sự trở thành
GCCN Việt Nam và là một bộ phận của GCCN thế giới.
1.2.2) Đặc điểm.
Áp dụng chính sách khai thác thuộc địa trên toàn thế giới vào Việt Nam,
thực dân Pháp khai thác nước ta một cách triệt để và bóc lột dân ta một cách
thậm tệ. Bọn đế quốc thực dân sử dụng những cách thức bóc lột giống nhau
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 9 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
trên toàn cầu nên GCCN trên toàn thế giới đều chịu tác động của những môi
trường giống nhau do đó họ hình thành những đặc điểm chung giống nhau.
GCCN Việt Nam cũng mang những đặc điểm chung của GCCN quốc tế như
là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của xã hội, có điều kiện lao

động và sinh sống tập trung…Nhưng bên cạnh đó do ảnh hưởng của những
điều kiện lịch sử của đất nước, những bản chất và truyền thống của dân tộc
nên GCCN Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng của mình. Đó là :
Bị ba tầng áp bức bóc lột : Lúc bấy giờ, nước ta là một nước thực dân nửa
phong kiến nên tồn tại nhiều tầng lớp trong xã hội, những tầng lớp thống trị
đua nhau áp bức GCCN để làm giàu cho mình,đó là bọn thực dân xâm lược,
bọn địa chủ phong kiến và cả bọn tay sai bán nước. Nhân dân Việt Nam lúc
bấy giờ nằm trong tình trạng “một cổ ba tròng”.
Có quan hệ gắn bó tự nhiên mật thiết với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác : Người dân Việt Nam phần lớn là những người nông dân
chất phác đi ra từ gốc ruộng, GCCN hầu hết xuất phát từ những người nông
dân, họ cùng có chung một nguồn gốc với nhau lại cùng chịu cảnh cực khổ
và sự bóc lột của giai cấp thống trị nên họ có sự gắn bó mật thiết với nhau.
Đây là nguồn gốc để hình thành liên minh công nông vững mạnh và và khối
đại đoàn kết dân tộc trong đó GCCN là lực lượng đi đầu lãnh đạo trong công
cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng xã hội.
Kế thừa truyền thống yêu nước anh hùng ,bất khuất của dân tộc : Sinh ra
trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại
xâm, có truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc và dần lớn lên trong
không khí sục sôi của các phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa chống
thực dân, GCCN chịu sự ảnh hưởng và tiếp thu những nét tinh hoa đó tạo
thành bản chất quí báu luôn được nung nấu trong mình.
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 10 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
Tất cả những đặc điểm đó tạo thành nét đặc trung cho GCCN Việt Nam,
góp phần thúc đẩy lực lượng phát triển và thực hiện nhiệm vụ cách mạng
của mình.
Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, GCCN Việt Nam luôn phát huy bản
chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu
và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng

và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Hiện nay, quá trình trí thức hóa GCCN diễn ra mạnh mẽ, từng bước hình
thành GCCN trí thức Việt Nam.
1.2.3) Vai trò lãnh đạo – sứ mệnh lịch sử.
Nói về SMLS của GCCN toàn thế giới, Ănghen đã khẳng định : “Thực
hiện sự nghiệp giải phóng ấy đó là SMLS của GCVS hiện đại”. SMLS của
GCCN do những điều kiện lịch sử quyết định :
Địa vị kinh tế - xã hội của GCCN là yếu tố quyết định đầu tiên : trong
nền sản xuất đại công nghiệp, GCCN vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là
sản phẩm căn bản nhất của nền sản xuất đó. Họ đại diện cho lực lượng sản
xuất có trình độ công nghiệp hóa ngày càng cao và tiêu biểu cho phương
thức sản xuất mới tiến bộ hơn phương thức sản xuất TBCN, tiêu biểu cho xu
thế phát triển của xã hội loài người. Hơn nữa GCCN có những lợi ích cơ bản
thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân lao động là xóa bỏ
chế độ tư hữu TBCN, giành lấy chính quyền, tổ chức xây dựng xã hội mới
không còn tình trạng áp bức bóc lột. Trong xã hội TBCN, GCCN là những
người vô sản , không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, họ phải đi làm thuê
cho nhà tư bản và bị bóc lột nặng nề, lâm vào tình trạng không còn gì để
mất. Từ đó GCCN quyết đấu tranh và có khả năng tập hợp, đoàn kết các lực
lượng quần chúng lao động để giải phóng mình và toàn xã hội.
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 11 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
Về mặt chính trị, GCCN là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần
cách mạng triệt để nhất ,là giai cấp có ý thức tổ chức kỉ luật cao và có bản
chất quốc tế. Do đó GCCN mang trong mình sứ mệnh cao cả lãnh đạo nhân
dân lao động xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột và xây
dựng xã hội mới – xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Đối với GCCN Việt
Nam, về mảng lãnh đạo nhân dân xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng xã
hội mới XHCN, họ đã thực hiện hết sức thành công. Mở đầu là cuộc đấu
tranh của công nhân viên chức các sở công thương của tư nhân ở Bắc Kì

năm 1922, tiếp đó là cuộc bãi công của thợ nhuộm ở Chợ Lớn (11/1922).
Sang năm 1924 có nhiều cuộc bãi công của công nhân ở các nhà máy dệt,
rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương…quan trọng hơn là cuộc bãi
công của thợ máy xưởng Ba Son. Tháng 2/1930 ,nổ ra cuộc bãi công của
công nhân đồn điền Phú Riềng ,tiếp là công nhân nhà máy sợi Nam Định,
nhà máy diêm và cưa Bến Thủy, xi măng Hải Phòng , hãng dầu Nhà Bè, đồn
điền Dầu Tiếng…đến đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh và nhiều
phong trào khác. Sau khi giành độc lập, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi
mới quá độ lên CNXH và thực hiện CNH-HĐH đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần 6 (khóa 10) khẳng định
“GCCN nước ta có SMLS to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH,
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng nòng cốt trong
liên minh GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng”. Trước mắt trong những năm tới thực hiện thắng lợi mục tiêu
“nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 12 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực cho CNH-HĐH đất nước, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính
trị sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Trước yêu cầu và thách thức lớn của thời đại, GCCN Việt Nam mang trên
mình trọng trách nặng nề và để thực hiện được nhiệm vụ đó, GCCN nước ta
cần phải được hoàn thiện và phát triển về mọi mặt .
1.3) TÌNH HÌNH GCCN VIỆT NAM SAU 20 NĂM ĐỔI MỚI.

Qua 20 năm đổi mới, GCCN Việt Nam đã có những chuyển biến quan
trọng . Tính đến đầu năm 2007, tổng số công nhân nước ta khoảng 9,5 triệu
người ,chiếm 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội. Trong đó có
1,94 triệu công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước, 3,37 triệu công nhân
trong các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế nhà nước, 1,45 triệu công
nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tửtực tiếp nước ngoài và khoảng
2,27 triệu công nhân trong các loại hình sản xuất, kinh doanh khác. GCCN
nước ta đang tăng nhanh về số lượng và có mặt trong tất cả các thành phần
kinh tế. So với cuối năm 2003, đầu năm 2007 số công nhân trong các doanh
nghiệp tăng 30,5%, trong đó doanh nghiệp tư nhân và tập thể tăng 63%,
công nhân doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 68%, công nhân
doanh nghiệp giảm 15%.
Đội ngũ công nhân nước ta ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trình
độ học vấn, chuyên môn, kĩ thuật được nâng lên đáng kể. Đội ngũ công nhân
tăng nhanh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn : điện lực, dầu khí, điện tử,
tin học, viễn thông…đồng thời cũng phát triển ở một số ngành sản xuất, chế
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 13 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
biến hàng xuất khẩu : dệt may, giày da, chế biến thủy sản…Đã hình thành
ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên làm công tác quản lí sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và quản lí khoa
học kĩ thuật gắn với sản xuất kinh doanh hoặc trực tiếp sản xuất. Hàng chục
vạn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lí doanh nghiệp, công nhân bậc
cao và thợ giỏi năng động , sáng tạo, có nhiều sáng kiến có giá trị cao được
áp dụng. GCCN nước ta thích nghi tương đối nhanh với cơ chế thị trường , ý
thức được giá trị của bản thân trong lao động, một bộ phận công nhân có cổ
phần trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Một bộ phận công nhân có
bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp vững vàng. Đại đa số có ý thức dân tộc
, tinh thần yêu nước, cần cù lao động, tinh thần đoàn kết tương thân tương
ái. Cùng với các giai cấp ,tầng lớp khác trong xã hội , GCCN là cơ sở chính

trị - xã hội vững chắc của Đảng và nhà nước.
Trong liên minh GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng, họ đã phối hợp với nhau chặt chẽ và đồng bộ hơn. Đã có
một số mô hình liên kết trực tiếp công nhân với nông dân và nghiên cứu
khoa học; công nhân, nông dân và trí thức trong sản xuất kinh doanh như mô
hình công ty mía đường Lam Sơn; hình thức liên kết bốn nhà : nhà nông,
nhà doanh nghiệp,nhà khoa học, nhà nước; các hình thức liên kết trong thực
hiện xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng\ ha\ năm và hộ nông dân thu nhập 50
triệu đồng \ năm.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu GCCN nước ta cũng còn một số hạn
chế : Sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội về số
lượng, cơ cấu, trình độ học vấn, chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp , thiếu
nghiêm trọng các chuyên gia kĩ thuật, cán bộ quản lí giỏi, công nhân lành
nghề , tác phong công nghiệp và kỉ luật lao động còn nhiều hạn chế, chưa
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 14 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
được đào tạo có hệ thống , chậm thích nghi với cơ chế thị trường của thời
đại CNH-HĐH. Địa vị chính trị của GCCN chưa được thể hiện đầy đủ , còn
nhiều hạn chế trong phát huy vai trò nòng cốt của liên minh công nhân-nông
dân-trí thức, giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị không đồng đều, hiểu
biết pháp luật còn thấp. Tỉ lệ Đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công
nhân rất ít. Việc làm và đời sống vật chấtđược cải thiện nhưng chưa công
nhân được hưởng tương ứng với công sức của mình, đời sống vật chất và
tinh thần còn nhiều khó khăn và thách thức.
* Nguyên nhân của thực trạng trên:
Đảng đã có những đường lối đổi mới , phát triển kinh tế- xã hội nhưng
chưa được thực hiện triệt để , còn nhiều hạn chế yếu kém.
Đảng có chú trọng xây dựng GCCN nhưng chưa đầy đủ, chưa ngang tầm
với vị trí, vai trò của GCCN trong thời đại mới .
Nhà nước ban hành nhiều chính sách pháp luật xây dựng GCCN nhưng

còn nhiều hạn chế, bất cập .
Tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị khác có đóng góp tích cực vào
việc xây dựng GCCN nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều yếu kém công
đoàn phát huy chưa hết vai trò là một tổ chức của GCCN.
Bản thân GCCN có nổ lực vươn lên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu.
Các doanh nghiệp và người sử dụng lao động có đóng góp tích cực cho
việc làm và thu nhập của công nhân nhưng còn nhiều trường hợp vi phạm
pháp luật đối với người lao động.
Trong tình hình đó, GCCN Việt Nam phải phấn đấu hoàn thiện và phát
triển mình hơn nữa mới có thể đảm đương SMLS dân tộc . Đảng, nhà nước
và nhân dân ta cũng đã và đang tiếp tục xây dựng , phát triển GCCN Việt
Nam trong thời kì CNH-HĐH để phục vụ đất nước.
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 15 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
CHƯƠNG 2 : NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GCCN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC.
2.1) THỰC TRẠNG GCCN VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1.1)Vài nhận xét về GCCN Việt Nam hiện nay.
Sau hơn 20 năm đổi mới, GCCN nước ta có những thành tựu và hạn chế
nhất định.Trước công cuộc đổi mới của đất nước, công nhân Việt Nam cũng
có những vận động và biến đổi không ngừng, về cơ bản có thể nhìn nhận
GCCN Việt Nam hiện nay một cách tổng quát như sau :
Về cơ cấu trình độ học vấn và chuyên môn : Trình độ văn hóa, tay
nghề ,kĩ thuật của công nhân còn thấp, một bộ phận công nhân mới là những
học sinh mới rời trường phổ thông. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại
học ở Việt Nam khoảng 150 nghìn người , chiếm 3,3 % so với đội ngũ công
nhân nói chung ở Việt Nam . Theo số liệu điều tra thì hiện nay 3% số người
lao động chưa biết chữ , 12% chưa tốt nghiệp tiểu học , 73% chưa qua đào
tạo nghề một cách chuyên nghiệp .GCCN bao gồm những người lao động có

tính công nghiệp (chân tay, thủ công) tại các công trường xây dựng; các
doanh nghiệp, nông, lâm trường và các hộ tiểu chủ sản xuất; nhóm công
nhân công nghiệp cơ khí, nhất là các ngành công nghiệp nặng; nhóm công
nhân tự động hóa hay lao động công nghệ cao, lao động trí thức tại các khu
công nghệ cao. Trong các ngành nghề của công nhân, tỉ lệ công nhân cơ khí
và công nghiệp nặng còn rất thấp khoảng 20% tổng số công nhân cả nước.
Trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ và chế biến thực
phẩm lại chiếm tỉ lệ cao khoảng 40%.
Về cơ cấu thành phần kinh tế : GCCN gồm có số công nhân làm việc trong
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (doanh nghiệp nhà nước,
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 16 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
doanh nghiệp của tư nhân và tập thể, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài); số công nhân làm việc tại cáchộ sản xuất kinh doanh cá thể (trong
lĩnh vực công nghiệp hoặc mang tính công nghiệp);số lao động Việt Nam
đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài( chủ yếu làm việc trong các
doanh nghiệp);số lao động chân tay trong các cơ quan Đảng, nhà nước, đoàn
thể. Trong thời kì đổi mới, số lượng công nhân ngoài quốc doanh tăng mạnh,
số công nhân trong khu vực quốc doanh lại giảm.
Về tư tưởng, ý thức giai cấp : Sự hiểu biết của một bbộ phận công nhân về
chủ nghĩa Mác-Lênin đã được nâng lên một bước nhờ vào sự nổ lực của
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam cả nước có 6 triệu công nhân được học
5 bài giáo dục chính trị cơ bản. Ý thức chính trị của công nhân được bồi
dưỡng và nâng lên một bước. Theo thống kê ở Hà Nội có 23,1% công nhân
tự nhận là hiểu rõ về chủ nghĩa Mác-Lênin; 71,3% hiểu khái quát và 5,6%
chưa hiểu rõ.Mức độ hiểu tư tưởng Hồ Chí minh cũng khá cao, tại các doanh
nghiệp ở Hà Nội số công nhân tự nhận hiểu rõ là 35,4% ; chỉ hiểu khái quát
là 59,5% ; chưa hiểu rõ là 5,1% . Tuy nhiên một số ít GCCN Việt Nam ở Hà
Nội và một số nơi khác có ý thức không cao, họ ít tự hào về công việc của
mình. Tỉ lệ công nhân có ý định cho con theo nghề nghiệp của mình trên cả

nước là 45,1% đồng ý, không có là 54,9%.
Quan tâm mong muốn hàng đầu của công nhân là có việc làm ổn định và
thu nhập công bằng , bảo đảm đời sống, doanh nghiệp sản xuất thuận lợi,
được đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng về vật chất và tinh
thần, quyền được tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, quyền được đối
xử công bằng, được chăm sóc sức khỏe, học tập, nâng cao trình độ học
vấn,chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp.
Trong quá trình CNH-HĐH gắn với đô thị hóa đã thúc đẩy quá trình tập
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 17 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
trung công nhân tại các khu công nghiệp và đô thị. Nó sẽ góp phần thúc đẩy
nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuật và tạo điều kiện để nâng cao ý thức
chính trị, ý thức giai cấp.
Trong những năm gần đây, việc công nhân khởi xướng, tổ chức các cuộc
đình công diễn ra, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ. Đây là dấu hiệu cơ bản
phát triển ý thức chính trị, ý thức giai cấp của những người lao động công
nghiệp.
2.1.2)Đời sống của GCCN Việt Nam hiện nay.
Tuy đã được cải thiện phần nào nhưng đời sống của công nhân Việt Nam
hiện nay vẫn còn đang rất khốn khổ, họ phải chịu đựng những nổi đau cả về
vật chất lẫn tinh thần. Đó cũng là một trong những vấn đề cần được xã hội
quan tâm hơn nữa.
Đời sống vật chất : Một số bộ phận các công nhân , nhất là công nhân ở
các khu công nghiệp, khu chế xuất không được đảm bảo về điều kiện làm
việc, thường xuyên phải tiếp xúc với chất thải độc hại, nóng, bụi quá mức
cho phép. Tiền lương thấpkhông đủ đảm bảo đời sống vật chất và tái sản
xuất sức lao động, gần nửa số công nhân chưa được hưởng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế. Nhiều công nhân còn phải lo toan về chỗ ở, họ phải sống tạm
bợ trong các phòng trọ chật chội, không đảm bảo các tiện nghi tối thiểu,
không có các đảm bảo về chăm sóc ytế, giáo dục cho con cái…Về vấn đề ăn

uống thì còn rất kém, các hiện tương ngộ độc thức ăn tập thể vẫn diễn ra
thường xuyên do bữa ăn không chất lượng và kém vệ sinh. Thế nhưng họ
phải làm việc cả ngày như những cổ máy, vi phạm luật lao động về số giờ
làm việc \ ngày \ tháng , thậm chí làm 10-12 giờ \ ngày.
Đời sống tinh thần: Trước áp lực công việc và mưu toan cuộc sống như
vậy, đời sống văn hóa tinh thần của công nhân chưa cao, một biện pháp đáng
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 18 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
kể có tâm lí quá coi trọng vật chất,tiền bạc, coi nhẹ các giá trị khác. Thậm
chí có tư tưởng sùng bái CNTB, tâm lí làm thuê, coi trọng tiền bạc hơn
quyền làm chủ…Thêm vào đó,những vụ hành hung trong các mối quan hệ
ngoài xã hội và các vụ hành hạ thân xác của giới chủ đặc biệt là những tên
chủ nước ngoài làm cho GCCN bị những cuộc khủng hoảng cả về thể xác
lẫn tinh thần. Trong tình trạng như vậy công nhân không thể giác ngộ được lí
tưởng cách mạng và SMLS bản thân. Cuộc sống của họ diễn ra tuần hoàn
như một chu trình từ sáng đến tối làm họ chán ngắt nên có thể xảy ra một số
vấn đề không hay và có thể lâm vào tệ nạn xã hội. Từ những bất công trong
lao động , công nhân lại bãi công, đình công gây nên những tiêu cực về dư
luận xã hội và gây rối trật tự trị an nói chung. Lại thêm việc công nhân kéo
về quê vào dịp lễ tết gây nên sự xáo trộn trong xã hội và họ phải mất cả một
số tiền lớn cho những chuyến xe đắt đỏ.
Tóm lại GCCN hiện nay đang bị bóc lột về mọi mặt, đời sống vật chất và
tinh thần của họ thật sự thậm tệ và đó là vấn đề cần được quan tâm và giải
quyết
2.2) CÔNG CUỘC XÂY DỰNG GCCG VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ
CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC.
2.2.1) Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong xây dựng
GCCN Việt Nam.
Xây dựng CNXH và CNH-HĐH đất nước là một quá trình lâu dài và đầy
thách thức. Trước tình hình của đất nước và tình hình GCCN Việt Nam hiện

nay, trong Nghị quyết Hội nghị lần 6 BCH TW khóa X ,Đảng ta đã có những
quan điểm chỉ đạo trong công cuộc xây dựng và phát triển GCCN để làm cơ
sở cho xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cũng như trong công tác
thực hiện
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 19 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
Trước hết dựa trên những đặc điểm và vai trò SMLS của GCCN , Đảng ta
xây dựng quan điểm: “Kiên định quan điểm GCCN là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong CNH-HĐH đất nước; lực lượng nòng
cốt trong liên minh GCCN và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của GCCN là một điều kiện tiên quyết đảm
bảo thành công của công cuộc đổi mới , CNH-HĐH đất nước”.
Điều 5 Hiến pháp 1992 nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
ghi: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam”, vấn đề đoàn kết
dân tộc vừa có ý nghĩa thiết thực vừa thiêng liêng cao quí. Trong công cuộc
xây dựng GCCN Đảng ta chỉ đạo “Xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết
hữu cơ với xây dựng phát huy sức mạnh của liên minh GCCN với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai
cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết dân tộc - động lực chủ yếu
của phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác
quốc tế với GCCN trên toàn thế giới".Hợp tác, đoàn kết quốc tế cũng là một
cơ hội để đất nước ta dễ dàng hội nhập cùng bạn bè quốc tế trên con đường
phát triển.
Mục tiêu của công cộc xây dựng và phát triển GCCN nước ta là để góp
phần đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH đất nước và để GCCN lớn mạnh thì
phải có những phát triển kinh tế xã hội làm cơ sở và nền tảng nên " Chiến
lược xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội, CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lí đúng đắn
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 20 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
hội, chăm lo xây dựng GCCN; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa công nhân,
người sử dụng lao động ,nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm , giải quyết kịp thời những
vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN."
Để đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại, Đảng ta cũng đã chú ý
chỉ đạo " Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân,
không ngừng trí thức hoá GCCN là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan
tâm xây dựng tế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kĩ năng nghề
nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh
chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của GCCN".
Và để thực hiện những nhiệm vụ đó, Đảng ta cũng đã chỉ rõ vai trò trách
nhiệm của từng cá nhân và cơ quan đoàn thể." Xây dựng GCCN lớn mạnh là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nổ lực vươn lên
của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người
sử dụng lao động ; trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lí của nhà nước
có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò trực tiếp trong chăm lo xây dựng
GCCN. Xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức công
đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã
hội khác vững mạnh".
2.2.2) Mục tiêu xây dựng GCCN.
Để đạt đến mục tiêu năm 2020 Việt Nam là một nước công nghiệp toàn
diện, trên nền những quan điểm chỉ đạo xây dựng GCCN lớn mạnh, ngang
tầm với sự nghiệp CNH-HĐH, chủ động vững bước vào quá trình hội nhập
quốc tế, Nghị quyết Hội nghị 6 khoá X của Đảng ta cũng đã xác định mục
tiêu cần tiến tới và đạt được trong xây dựng GCCN một cách cụ thể.

GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 21 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
"Xây dựng GCCN lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu CNXH, tiêu biểu cho tinh hoa
văn hoá dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần
đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế, thực hiện SMLS của giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
Nói chung, trong các doanh nghiệp đều có tổ chức Cộng sản Đảng, công
đoàn, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp thanh niên
Việt Nam".
Một mục tiêu vô cùng quan trọng cần phả đạt được nữa là :"Xây dựng
GCCN lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ
cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hoá : có
trình độ học vấn, chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp
cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát
triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế; có giác ngộ cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác
phong công nghiệp và kỉ luật lao động cao".
Đó là những yêu cầu tất yếu mà GCCN phải đạt được trong công cuộc
CNH-HĐH đất nước, là cơ sở để GCCN thực hiện SMLS của mình, để thực
sự là giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp tiến bộ của xã hội.
2.2.3) Nhiệm vụ và giải pháp.
Để thực thi quá trình xây dựng và phát triển GCCN một cách nhanh chóng
và có hiệu quả, Đảng ta đã vạch ra con đường đi đến cái đích ấy bằng năm
nhiệm vụ tương ứng với năm giải pháp thiết thực, cụ thể.
Thứ nhất :
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 22 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
Nhiệm vụ: " Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lí luận về

GCCN trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế".
Giải pháp : Trong điều kiện phát triển ngày càng cao của xã hội, cần phải
đổi mới công tác nghiên cứu, tăng cường đầu tư để hiệu quả hoá công tác
tổng kết thực tiễn và trên những điều sát thực đi đến phát triển, hoàn thiện lí
luận về GCCN. Trong đó, những vấn đề cần phải quan tâm và được giải đáp
là vai trò lãnh đạo, vai trò làm chủ của GCCN trong thời kì mới , về vấn đề
trí thức hoá và xu hướng phát triển của GCCN. Mối quan hệ giữa GCCN với
các tầng lớp khác trong xã hội mà trọng điểm là mối quan hệ trong khối liên
minh công nhân- nông dân- trí thức, sự phân hoá và mối quan hệ trong nội
bộ GCCN, mối quan hệ đoàn kết giữa công nhân Việt Nam với công nhân
quốc tế trong thời đại hội nhập, những âm mưu thủ đoạn "diễn biến hoà
bình", và tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch đối với GCCN
Tiếp đó là từ những cơ sở lí luận đưa ra những chủ trương, đường lối, giải
pháp xây dựng GCCN phát triển trên mọi mặt để đáp ứng yêu cầu của thời
đại mới. Và những lí luận đó cũng trở thành tài liệu giảng dạy trong các bậc
đại học,cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các buổi giáo dục chính trị cho
công nhân để mọi người nhận thức được tầm quan trọng, vai trò lãnh đạo
xã hội, phát triển đất nước của GCCN. Qua đó mà toàn xã hội có ý thức tự
xây dựng và phát triển GCCN,đoàn kết sức mạnh toàn xã hội ủng hộ đắc lực
công cuộc phát triển của đất nước.
Thứ hai :
Nhiệm vụ: “Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, bồi dưỡng ý
thức chính trị, ý thức pháp luật, từng bước trí thứchoá GCCN”. Đây là một
nhiệm vụ cực kì quan trọng trong xây dựng GCCN để đáp ứng nhu cầu
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 23 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
CNH-HĐH đất nước.
Giải pháp: Công tác này quán triệt cần phải đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại
và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, kĩ năng nghề nghiệp cho công nhân

đặc biệt là những công nhân trẻ,công nhân nữ và công nhân xuất thân từ
nông dân để có một đội ngũ công nhân phát triển cân đối, làm việc nhanh
nhẹn, có hiệu quả cao. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ, nhà quản lí, kinh
doanh giỏi, có trình độ cao, có đức có tài, có khả năng tiếp cận nhanh với
công nghệ mới và phương thức kinh doah hiện đại vì họ là những con chim
đầu đàn, những người đi tiên phong, sự sáng tạo và tích cực của họ góp phần
rất lớn cho sự phát triển chung.
Về mặt tư tưởng, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị,
ý thức giai cấpvà bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gán
bó sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc với chế độ XHCN, ý chí
vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tinh thần xây dựng bảo vệ Tổ quốc,
tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại, tinh thần đấu tranh xây
dựng và quyết thắng, tác phong công nghiệp và kỉ luật lao động, lương tâm
nghề nghiệp cho công nhân trong thời đại CNH-HĐH. Đó là cơ sở để gắn lợi
ích của mỗi công nhân với lợi ích của Tổ quốc, khơi dậy tình yêu quê hương
đất nước và mơ ước cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Từ đó họ ý thức được địa vị
và vai trò trách nhiệm của mình mà phấn đấu xây dựng đất nước phát triển.
Để đi đến thực hiện những điều đó thì nhà nước ta đã và đang xây dựng
và thực hiện hệ thống chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thông để giúp
thanh niên, học sinh có định hướng và quyết định đúng đắn trong lựa chọn
việc làm và gia nhập đội ngũ công nhân. Nhà nước cũng xây dựng chiến
lược dạy nghề đồng bộ và đổi mới hệ thống dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao
động trong nước và quốc tế. Ban hành những chính sách khuyến khích đầu
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 24 - SVTH : Trần Thị Lan Hương
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GCCN VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ CNH-HĐH ĐẤT NƯỚC
tư ngân sách phù hợp cho dạy nghề đồng thời thực hiện việc kiểm định, đánh
giá chất lượng dạy nghề. Gắn dạy nghề với giáo dục nâng cao nhận thức về
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho GCCN với rèn luyện phẩm
chất đạo đức, tác phong công nghiệp, kỉ luật lao động, học tập pháp luật lao
động, luật công đoàn, luật doanh nghiệp…Chú trọng đào tạo nâng cao chất

lượng giáo viên dạy nghề, qui hoạch và phát triển mọi hình thức và thành
phần kinh tế.
Thứ ba :
Nhiệm vụ : “Thực hiện tốt chính sách pháp luật, đảm bảo tốt quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của công nhân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho công nhân gắn với tăng năng suất lao động”.
Giải pháp: Để GCCN tiếp tục phát triển thì phải tạo được một nền tảng
về cơ sở vật chất và tinh thần cho họ từ đó mà họ có khả năng phát triển tốt
tư duy và thể chất để phục vụ lao động tốt hơn, đem lại năng suất lao động
cao hơn.
Thực hiện được nhiệm vụ này thì Đảng ta chỉ đạo phải hoàn thành các
mục tiêu như: “Nghiên cứu, bổ sung và sử đổi chính sách pháp luật về lao
động và đời sống công nhân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo
hài hoà lợi ích của GCCN với các cá nhân tổ chức có liên quan. Tập trung
giải quyết các vấn đề bức xúc của công nhân là chế độ tiền lương, việc làm,
điều kiện lao động, vấn đề nhà ở, sức khoẻ, đảm bảo và phát huy quyền làm
chủ của công nhân…Nâng cao ý thức tự giác của công nhân, tăng cường vai
trò của nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội và tổ chức công đoàn.
Hiện nay, Đảng ta đã và đang cùng nhân dân thực hiện một số chính sách
lớn : Bổ sung, sửa đổi để đảm bảo thực hiện nghiêm các qui định về kí hợp
đồng lao động; Nâng cao tính khả thi của các chính sách pháp luật để cải
GVHD: Hoàng Thị Kim Liên - 25 - SVTH : Trần Thị Lan Hương

×