HỌCVIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
LÊ TRƯỜNG SƠN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CÁC CƠ SỞ
GIÁO DỤC MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẮC GIANG GIAI ĐOẠN 2015 - 2020
ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1
HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2015
HỌCVIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
ĐỀ ÁN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM ĐỊNH CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC MẦM NON
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
GIAI ĐOẠN 2015 - 2020
Người thực hiện: Lê Trường Sơn
Lớp : B16 – 14
Chức vụ : Chuyên viên
Đơn vị công tác : Sở Giáo dục và Đào tạo - tỉnh Bắc Giang
Người hướng dẫn khoa học: ThS. Bùi Thị Thanh Hà
2
HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 1
1. Lý do xây dựng đề án 1
2. Mục tiêu của đề án 4
2.1. Mục tiêu chung 4
2.2. Mục tiêu cụ thể 4
3. Giới hạn của đề án……………………………………………………….4
B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN…………………………………………… 5
1. Cở sở xây dựng đề án………………………………………………… 5
1.1. Cơ sở khoa học ……………………….………………………………3
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý………………………… ……………………
9
1.3. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………… 13
2. Nội dung thực hiện của đề án………………………………………… 16
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án…………………………………………… 16
2.2. Nội dung cụ thể đề án cần giải quyết……………………………… 28
2.3. Các giải pháp thực hiện đề án………….…… …………………… 29
3. Tổ chức thực hiện……………….…………………………….………38
3.1. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án……….…………….………… 38
3.2. Tiến độ thực hiện đề án…………………………….………….……… 39
3.3. Kinh phí thực hiện đề án……………………………………… ……….40
4. Dự kiến hiệu quả của đề án…………………………………….……… 41
4.1. Ý nghĩa thực tiễn của đề án 41
4.2. Đối tượng hưởng lợi của đề án 41
4.3. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án 42
C. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 44
3
1. Kiến nghị 44
1.1. Kiến nghị với Bộ GD&ĐT 44
1.2. Kiến nghị với UBND tỉnh, huyện, thành phố và các cơ quan chức
năng 44
1.3. Kiến nghị với Sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT ……………………… 45
1.4. Kiến nghị với trường mầm non …………………………… ….……45
2. Kết luận ………………………………… ………………………… 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
PHỤ LỤC ………………………………… ………………………………
4
A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do xây dựng đề án
Giáo dục mầm non là bậc học quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc
dân của bất cứ một quốc gia nào, đồng thời là bậc học chuẩn bị tiền đề quan
trọng cho trẻ em từ 0 đến 5 tuổi bước vào tiểu học. Tại nhiều quốc gia trên
thế giới, việc kiện toàn và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non (GDMN)
là một nhiệm vụ hàng đầu của toàn xã hội. Tổ chức văn hóa, khoa học và
giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) khẳng định “GDMN tiềm tàng
trong bản thân nó sức phát triển của loài người và là một nhân tố quan trọng
trong chiến lược giáo dục cho mọi người”.
Như vậy, công tác nâng cao chất lượng GDMN là một vấn đề hàng đầu
cho mọi quốc gia. Chất lượng giáo dục (CLGD) là một vấn đề luôn được xã
hội quan tâm vì tầm quan trọng hàng đầu của nó đối với sự nghiệp phát triển
đất nước nói chung, sự nghiệp phát triển giáo dục nói riêng. Mọi hoạt động
giáo dục được thực hiện đều hướng tới mục đích góp phần đảm bảo, nâng cao
CLGD; phấn đấu để trở thành một nền giáo dục chất lượng cao. Mặc dù vậy,
do tính chất phức tạp, đa dạng, nhiều chiều của vấn đề, hiểu đầy đủ về CLGD
cũng như xác định quy trình, phương pháp, kĩ thuật đánh giá CLGD một cách
khoa học, phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội, của giáo dục trong một
hoàn cảnh cụ thể không phải là điều đơn giản. Các mô hình quản lý chất
lượng, xếp theo cấp độ tiến bộ là kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và
quản lý chất lượng tổng thể đã và đang được sử dụng trong giáo dục ở nhiều
nước trên thế giới và từng bước được triển khai áp dụng ở Việt Nam. Hơn 10
năm qua, thực tế giáo dục trong nước đã chứng minh rằng: đảm bảo chất
5
lượng là mô hình thích hợp để quản lý CLGD. Trong đó, kiểm định chất
lượng giáo dục (KĐCLGD) là một trong những hoạt động đảm bảo CLGD.
KĐCLGD không những mang lại cho cộng đồng bằng chứng về chất
lượng đào tạo mà còn mang lại cơ hội và động cơ để nâng cao chất lượng cho
các trường đã qua kiểm định. Chính điều này là một trong những đặc điểm
làm nên sự khác biệt giữa KĐCLGD với các mô hình quản lý CLGD khác
(thanh tra giáo dục…). Tính chất, nhiệm vụ chủ yếu của đánh giá ngoài
(ĐGN) là đánh giá đồng cấp, đánh giá kết quả tự đánh giá (TĐG), giúp cơ sở
giáo dục (CSGD) nhận thấy rõ hơn các điểm mạnh, điểm yếu và đưa ra kế
hoạch cải tiến chất lượng của mình hợp lý, thiết thực hơn. Đây là một đặc
điểm hết sức quan trọng khiến cho KĐCLGD nhanh chóng hoà nhập được
vào các hoạt động của CSGD trong một không khí làm việc thân thiện, cởi
mở. Hiện nay, hệ thống kiểm định CLGD đối với GDMN ở nước ta đã bước
đầu được hình thành. Mạng lưới CSGD phân bố rộng khắp trong cả nước, đa
dạng hoá về loại hình trường. Nhờ có thông tin kiểm định CLGD chân thực,
khách quan được cung cấp minh bạch mà học sinh, gia đình học sinh, các cơ
quan, tổ chức xã hội biết được năng lực đảm bảo chất lượng của một CSGD
để đặt lòng tin lựa chọn vào học tập ở CSGD chất lượng tốt, sẵn sàng trả tiền
học phí tương ứng với CLGD được cung cấp.
Cho đến nay, Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật về KĐCLGD; trong đó có: Chỉ thị số 46/2008/CT-BGDĐT ngày 05
tháng 8 năm 2008 về việc tăng cường công tác đánh giá và KĐCLGD, Thông
tư số 07/2011/TT-BGDĐT ngày 17/02/2011 về việc ban hành Quy định về
tiêu chuẩn đánh giá CLGD trường mầm non, Thông tư số 45/2011/TT-
BGDĐT ngày 11/10/2011 về việc ban hành Quy định về quy trình và chu kỳ
KĐCLGD trường mầm non, Thông tư số 25/2014/TT-BGDĐT ngày
07/8/2014 ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá CLGD, quy trình và chu
6
kỳ KĐCLGD trường mầm non, Các bộ tiêu chuẩn chất lượng do Bộ
GD&ĐT ban hành là chuẩn quốc gia, mặc dù không ghi cụm từ “quốc gia”
trong các bộ tiêu chuẩn chất lượng.
Bằng nhận thức và ý thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa của công tác
KĐCLGD, bằng việc triển khai công tác KĐCLGD một cách tích cực, khách
quan, trung thực, toàn bộ các CSGD dần dần sẽ tạo ra được những chuyển
biến mới, hình thành "văn hóa chất lượng" trong mỗi CSGD, mỗi cán bộ quản
lý giáo dục, người dạy, người học để từ đó, CLGD được đảm bảo và không
ngừng được cải tiến, nâng cao. Trong quản lý CLGD, KÐCLGD được coi là
giải pháp, công cụ, phương tiện xây dựng "văn hóa chất lượng" của các
CSGD, mục tiêu cuối cùng là phải làm cho mỗi CSGD đều hiểu rằng chất
lượng là vấn đề sống còn của chính mình. Đặc biệt đối với các CSGD đang
trên con đường đổi mới, phát triển, việc triển khai và tham gia tích cực vào
quy trình KĐCLGD là một việc làm hết sức cần thiết để tự chứng minh khả
năng, năng lực của mình một cách toàn diện.
Sau gần 3 năm triển khai tại Bắc Giang, công tác KĐCLGD trường
mầm non đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, công tác
KĐCLGD trường mầm non còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế. Một bộ
phận cán bộ quản lý giáo dục các cấp và giáo viên trường mầm non chưa nhận
thức đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của KĐCLGD; chất lượng
báo cáo TĐG của nhiều trường chưa đạt yêu cầu, chưa phản ánh được chất
lượng và thực tiễn của CSGD; một số địa phương chỉ đạo thiếu kiên quyết,
không thực hiện triển khai đúng tiến độ, chưa quan tâm đúng mức đến công
tác TĐG; việc xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ĐGN chưa tương xứng
và hiệu quả chưa cao; số trường mầm non được ĐGN còn thấp.
7
Với lý do trên tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả công tác kiểm định
chất lượng giáo dục các cơ sở giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang giai đoạn 2015 - 2020”.
8
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm định chất lượng giáo dục các cơ sở
giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 – 2020 nhằm
góp phần kiểm soát, quản lý, nâng cao CLGD mầm non, góp phần nâng cao
chất lượng của ngành giáo dục tỉnh, hoàn thành nhiệm vụ của ngành.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Các trường mầm non trên địa bàn tỉnh hoàn thành báo cáo tự đánh
giá, Sở GD&ĐT tiến hành đánh giá ngoài đối với các trường mầm non.
- Đào tạo nâng cao và bồi dưỡng cấp chứng chỉ kiểm định viên cho cán
bộ phòng GD&ĐT, các thành viên trong hội đồng tự đánh giá của các trường.
- Kiểm tra, giám sát công tác cải tiến, nâng cao chất lượng sau đánh giá
ngoài. Tiến hành đánh giá lại một số trường để nâng cao cấp độ.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KĐCLGD đối
với cơ sở GDMN.
- Không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (gồm 1 thành phố và 9
huyện).
- Thời gian: Đề án áp dụng trong thời gian 5 năm từ năm học 2015 –
2016 đến hết năm học 2019 – 2020.
9
B - NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
*Chất lượng
Chất lượng là một phạm trù phức tạp thường gặp trong các lĩnh vực hoạt
động, nhất là trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, kỹ thuật, xã hội ngay trong
từng lĩnh vực của đời sống con người. Chất lượng là một khái niệm quá quen
thuộc với loài người ngay từ những thời cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là
một khái niệm gây nhiều tranh cãi.
Theo tiêu chuẩn ISO, định nghĩa chất lượng là ‘‘ Chất lượng là khả
năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để
đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”.
* Chất lượng giáo dục
Theo bàn luận ở trên, chất lượng được chú ý trên phạm vi toàn thế giới.
và cũng là vấn đề được bàn luận nhiều nhất trong xã hội khi nói về giáo dục.
Theo Nguyễn Đức Chính (2002), hội thảo về kiểm định CLGD đại học thế
giới năm 2002 tại Paris đã đưa ra 6 quan điểm về CLGD như: (1) Chất lượng
được đánh giá bằng đầu vào; (2) Chất lượng được đánh giá bằng đầu ra; (3)
Chất lượng được đánh giá bằng giá trị gia tăng; (4) Chất lượng được đánh giá
bằng giá trị học thuật; (5) Chất lượng được đánh giá bằng văn hóa riêng; (6)
Chất lượng được đánh giá bằng kiểm toán [6].
Theo Lê Đức Ngọc (2010), CLGD được đánh giá qua mức độ đạt được
mục tiêu giáo dục đã đề ra đối với một chương trình giáo dục [18]. Trong
lĩnh vực giáo dục, chất lượng với đặc trưng là ‘‘con người” có thể hiểu là kết
quả (đầu ra) của quá trình giáo dục và được thể hiện cụ thể ở các phẩm chất,
giá trị và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp
10
tương ứng với mục tiêu của từng ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Như vậy, ta thấy CLGD có hai khía cạnh: khía cạnh thứ nhất là mức độ
đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) đề ra, ở khía cạnh này chất lượng
được xem là "chất lượng bên trong". Khía cạnh thứ hai, chất lượng được xem
là mức độ sự thoả mãn những đòi hỏi của người dùng, ở khía cạnh này chất
lượng được xem là "chất lượng bên ngoài". Mỗi CSGD luôn có một nhiệm vụ
được phân quyền, nhiệm vụ này thường do các cơ quan quản lý quy định,
điều này chi phối mọi hoạt động của nhà trường. Từ nhiệm vụ này, nhà
trường xác định các mục tiêu giáo dục của mình sao cho phù hợp với nhu cầu
sử dụng của xã hội, đạt "chất lượng bên ngoài"; và các hoạt động của nhà
trường sẽ được hướng vào nhằm đạt mục tiêu đó, đạt "chất lượng bên trong"
[5]. Cũng từ quan niệm này, chúng ta thấy mục tiêu của nhà trường phải luôn
gắn liền với nhu cầu xã hội
* Chất lượng giáo dục trường mầm non: Được xác định bằng các tiêu
chuẩn, tiêu chí và chỉ số đạt được. Theo thông tư số 25/2014/TT-BGDĐT
ngày 07 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tiêu
chuẩn đánh giá CLGD trường mầm non là các yêu cầu đối với trường mầm
non để bảo đảm CLGD. Tiêu chí đánh giá CLGD trường mầm non là yêu cầu
đối với trường mầm non ở từng nội dung cụ thể của mỗi tiêu chuẩn. Mỗi tiêu
chí có các chỉ số đánh giá CLGD được ký hiệu bằng các chữ cái a, b, c. Chỉ số
đánh giá CLGD trường mầm non là yêu cầu đối với trường mầm non trong
từng nội dung cụ thể của mỗi tiêu chí [22].
* Kiểm định chất lượng giáo dục (KĐCLGD): KĐCLGD là hoạt động
đánh giá của các tổ chức, là một giải pháp quản lý chất lượng nhằm đưa ra
những kết quả tin cậy bằng cách kiểm soát các điều kiện, quá trình tổ chức
giáo dục thông qua những tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số ở các lĩnh vực cơ bản
của hệ thống giáo dục cũng như của các cơ sở giáo dục (CSGD). KĐCLGD ở
11
những nơi phát triển đã trở thành hoạt động thường xuyên, quen thuộc, thậm
chí trở thành điều kiện tồn tại của nhiều CSGD. KĐCLGD bao gồm trong
mình TĐG và ĐGN. TĐG là một khâu quan trọng trong hoạt động KĐCLGD
các CSGD. Đây là quá trình CSGD tự xem xét, đối chiếu với các tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng để báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động
giáo dục – dạy học, nghiên cứu khoa học, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như
các vấn đề liên quan khác, từ đó tiến hành điều chỉnh các nguồn lực và quá
trình thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng. TĐG không chỉ tạo
cơ sở cho công tác ĐGN mà còn là điều kiện để CSGD cải tiến chất lượng; do
vậy, có thể xem KĐCLGD là sự thể chế hoá được phát triển đầy đủ nhất về
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của CSGD đối với chất lượng của mình và
đối với công luận.
* Kiểm định chất lượng giáo dục trường mầm non là hoạt động đánh
giá (bao gồm TĐG và ĐGN) để xác định mức độ trường mầm non đáp ứng
các tiêu chuẩn đánh giá CLGD và việc công nhận trường mầm non đạt tiêu
chuẩn CLGD của cơ quan quản lý nhà nước.
TĐG của trường mầm non là hoạt động tự xem xét, kiểm tra, đánh giá
của trường mầm non để xác định mức độ đạt được theo tiêu chuẩn đánh giá
CLGD do Bộ GD&ĐT ban hành.
ĐGN trường mầm non là hoạt động đánh giá của cơ quan quản lý nhà
nước nhằm xác định mức độ đạt được tiêu chuẩn đánh giá CLGD của trường
mầm non. Đánh giá là một quá trình đưa ra nhận định, phán xét về giá trị và
sự xứng đáng của nhà trường đối với các chương trình, dự án, các phương
tiện, kỹ thuật liên quan đến giáo dục. Trong quá trình thực hiện đánh giá giáo
dục có thể cần phải sử dụng lượng giá để có thể đưa ra nhận định. Đánh giá
bao gồm các kỹ thuật mang tính nghiên cứu vì các nhận định và kết luận đều
phải được rút ra từ các chứng cứ.
12
1.1.2. Đánh giá giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục
Tại Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Nguyễn
Đức Chính (2002) trong công trình “Kiểm định chất lượng trong giáo dục”
đã trình bày rất rõ các khái niệm liên quan đến thuật ngữ KĐCLGD (Quality
accreditation). Nghiên cứu này đã đi sâu, chi tiết các phương pháp, kỹ thuật,
quy trình, cơ chế, chính sách KĐCLGD ở các nước Châu Âu, Hoa Kỳ, Châu
Á Thái Bình Dương [6].
Khái niệm chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu giáo dục. Nhiều
người quan tâm và đã có những bài viết liên quan đến các khái niệm “chất
lượng” và “chất lượng GDMN”. Chất lượng GDMN là tổng hòa những tính
năng và đặc điểm của các nhân tố mà khi triển khai chúng trong quá trình
giáo dục sẽ có tác động thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ, bảo vệ sức
khỏe và chuyển tiếp trẻ một cách thành công sang giai đoạn tuổi tiếp theo.
CLGD phải đảm bảo, đáp ứng sự mong chờ và yêu cầu của xã hội. Chất
lượng của cơ sở GDMN được đánh giá trên các nội dung như sau: Tỷ lệ trẻ
đến lớp trong độ tuổi, sự phát triển toàn diện của trẻ, đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý, chương trình giáo dục, tổ chức các hoạt động giáo dục của
trẻ, quản lý cơ sở GDMN, nguồn tài chính, cơ sở vật chất, xã hội hóa giáo
dục. Các tiêu chí đánh giá CLGD nhà trường cũng phải quán triệt quan điểm
tiếp cận tổng thể, đánh giá toàn bộ nhà trường. Các yếu tố được đánh giá có
mối quan hệ giải chứng với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, có tác động
ảnh hưởng qua lại với nhau và với chất lượng sản phẩm giáo dục của nhà
trường. Nhưng quan trọng hơn là các trường cần phải biết sử dụng chúng một
cách có hiệu quả để làm nên chất lượng. Đặc biệt là tầm nhìn, mong muốn và
quyết tâm tạo nên CLGD của đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên, thể
hiện quan điểm và phương pháp giáo dục hướng vào người học (trẻ em).
Tháng 11/2005, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục tổ chức
13
seminar khoa học “ Những tiêu chí và chỉ số cơ bản của CLGD” trong khuôn
khổ đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn
về CLGD và đánh giá CLGD” [23]. Seminar đã đưa ra một báo cáo cụ thể về
“ Những tiêu chí và chỉ số cụ thể của CLGD cấp hệ thống” trong đó nêu cụ
thể 19 tiêu chí cơ bản và 63 chỉ số chất lượng của hệ thống GDMN.
Ngày 07 tháng 8 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành Thông tư số 25/2014/TT-BGDĐT về tiêu chuẩn đánh giá CLGD, quy
trình, chu kỳ KĐCLGD trường mầm non.
Như vậy, KĐCLGD trường mầm non bao gồm công tác TĐG và ĐGN,
là một quá trình thu thập thông tin một cách hệ thống về thực trạng của
trường mầm non để từ đó đưa ra những nhận định xác thực dựa trên cơ sở các
thông tin thu được, làm cơ sở đề xuất những giải pháp cải tiến nhằm nâng cao
chất lượng của trường mầm non.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống Giáo dục Quốc
dân, là giai đoạn khởi đầu đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em do đó nó có vai trò quan trong đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng
và đào tạo thế hệ trẻ. Chính vì thế hầu hết các quốc gia và các tổ chức Quốc tế
đều xác định GDMN là mục tiêu quan trọng của giáo dục con người.
Nghị quyết lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng
định “Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là mục tiêu lớn trong chiến
lược giáo dục”.
Nghị quyết về cải cách giáo dục của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ vai trò
to lớn của công tác GDMN: “Càng làm tốt công tác GDMN thì càng có điều
kiện thuận lợi để đạt chất lượng cao trong giáo dục phổ thông và mở rộng sự
nghiệp giải phóng phụ nữ”.
14
Đặc biệt, ngày 09/02/2010 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
239/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phổ cập GDMN cho trẻ 5 tuổi giai đoạn 2010-
2015 nhằm: Chuẩn bị những điều kiện tốt hơn cho các cấp học tiếp theo,
nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ [19].
Ngày 13/6/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số
711/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020
trong đó chỉ rõ mục tiêu cụ thể cho GDMN: Hoàn thiện mục tiêu phổ cập
GDMN cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015; đến năm 2020 có ít nhất 30% trẻ trong
độ tuổi nhà trẻ và 80% trẻ trong độ tuổi mẫu giáo được chăm sóc tại các cơ
sở GDMN; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong các CSGD giảm xuống dưới 10%
[9].
Xuất phát từ thực tiễn của sự nhận thức và sự quan tâm còn hạn chế
đến KĐCLGD, việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là một
cách tiếp cận tốt nhất nhằm nhanh chóng định hình và khẳng định vị trí của
công tác này, đảm bảo sự phát triển bền vững trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Đồng thời giúp các nhà giáo, nhà quản lý và các đối tượng có liên quan
nhanh chóng hiểu một cách thống nhất các khái niệm, nội dung, quy trình,
công cụ KĐCLGD, góp phần nhanh chóng nâng cao nhận thức, tạo mối quan
tâm và tăng cường năng lực chuyên môn về KĐCLGD nói chung.
Sau hơn nhiều năm triển khai thực hiện, các quy định về KĐCLGD
đang từng bước được đưa vào trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở
cấp cao nhất. Trong nỗ lực đẩy mạnh xã hội hóa và phát huy vai trò của
GDMN tại Việt Nam, năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định
161/2002/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển GDMN, trong đó nhấn
mạnh “nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển GDMN, mở rộng hệ thống
nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên địa bàn dân cư, ưu tiên đầu tư phát triển
GDMN ở những xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các vùng núi cao,
15
hải đảo; tăng cường kiến thức nuôi dạy trẻ cho các gia đình, nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em trước 6 tuổi, tạo điều kiện để trẻ em được
phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm ,trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách” [7].
Việc thành lập Cục Khảo thí và Kiểm định CLGD năm 2002 đã đánh
dấu một thời kỳ mới của sự phát triển hệ thống KĐCLGD ở Việt Nam. Năm
2004, Bộ GD&ĐT đã ban hành quy định tạm thời về kiểm định chất lượng
các trường đại học làm công cụ để triển khai hoạt động kiểm định chất lượng
trong cả nước. Năm 2005, KĐCLGD được đưa vào Luật Giáo dục ở điều 17;
năm 2006 được đưa vào Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 về
việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.
Năm 2009, Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đã thể
hiện rất rõ các nội dung về KĐCLGD như: Nội dung quản lý nhà nước về
KĐCLGD, nguyên tắc KĐCLGD, tổ chức KĐCLGD qua điều 110 [15].
Tháng 2 năm 2008, Bộ GD và ĐT đã có thông báo chính thức, yêu cầu
tất cả các Sở GD&ĐT của 63 tỉnh phải thành lập phòng Khảo thí và Quản lý
chất lượng. Công tác KĐCLGD bước đầu hình thành và phát triển ở các
CSGD trên cả nước. Đến nay, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành tương đối
đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về KĐCLGD của các bậc học nói
chung và của các cơ sở GDMN nói riêng.
Trong kết luận số 51- KL/TW ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã đánh giá “CLGD và đào tạo
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tăng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo ” [10].
Đánh giá cao vai trò của quản lý giáo dục trong việc nâng cao CLGD,
Nghị quyết Hội nghị lần 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về
đổi mới căn bản toàn diện đã có giải pháp “Thực hiện đánh giá CLGD, đào
16
tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng CSGD, đào tạo và đánh giá theo
chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải
thiện CLGD, đào tạo. Hoàn thiện hệ thống KĐCLGD. Định kỳ kiểm định
chất lượng các CSGD, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả
kiểm định” [11].
Hiện nay, Chính phủ đang chủ trương đối mới cơ bản, toàn diện giáo
dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích
ứng với nền kinh tế thị trường định hướng Việt Nam giai đoạn 2010-2020,
quyết tâm xây dựng một số trường đại học đẳng cấp quốc tế; thực hiện đối
mới quản lý giáo dục, trong đó kiểm định chất lượng được sử dụng như một
công cụ quan trọng để khuyến khích tất cả các CSGD đại học, kể cả các cơ sở
TCCN, nâng cao CLGD thông qua việc phấn đấu đạt các tiêu chuẩn CLGD.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là cách tiếp cận nhằm nhanh
chóng định hình và khẳng định vị trí của công tác này trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Nó đã giúp các nhà giáo, nhà quản lý và các đối tượng có liên quan
nhanh chóng hiểu một cách thống nhất các khái niệm, nội dung, quy trình,
công cụ đảm bảo và KĐCLGD.
Các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn là những
công cụ để triển khai công tác kiểm định chất lượng đã được ban hành. Nhà
nước ban hành các văn bản quan trọng, đó là Luật Giáo dục 2005 (Điều 17,
58, 99) và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo
dục (Chương II, Điều 38-40); Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 của
Chính phủ, Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI của
Đảng; Nghị quyết số 44/NQ-CP của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; Kế hoạch hành động
17
của ngành Giáo dục triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW.
Bộ GD&ĐT đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật như:
Thông tư số 25/2014/TT-BGDĐT, ngày 07 tháng 8 năm 2014 ban hành quy
định về tiêu chuẩn đánh giá CLGD, quy trình, chu kỳ KĐCLGD trường mầm
non; Công văn số 8299 /BGDĐT-KTKĐCLGD, ngày 04 tháng 12 năm 2012
về việc hướng dẫn TĐG trường mầm non theo quy trình rút gọn; Công văn số
1988/KTKĐCLGD-KĐPT, ngày 02 tháng 12 năm 2014 về việc xác định yêu
cầu, gợi ý tìm minh chứng theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục
trường mầm non; Công văn số 6339/BGDĐT-KTKĐCLGD, ngày 05 tháng
11 năm 2014 hướng dẫn tự đánh giá và ĐGN trường mầm non. Các văn bản
được sửa đổi, bổ sung kịp thời, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và của cơ sở.
Thống nhất các quy định như quy trình, chu kỳ KĐCLGD; thủ tục, thẩm
quyền cấp và thu hồi giấy chứng nhận CLGD; hoạt động TĐG và ĐGN của
cấp học. Đơn giản thủ tục kết quả công nhận CSGD đạt tiêu chuẩn CLGD.
Các văn bản trên là những công cụ pháp lý quan trọng để triển khai kiểm
định chất lượng GDMN ở Việt Nam.
1.3. Cơ sở thực tiễn
Bắc Giang là tỉnh miền núi gồm 09 huyện và 01 TP với 230 xã,
phường, thị trấn. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3822,5 km2, dân số trên 1,5
triệu người. Kinh tế chủ yếu nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ, nhưng trong những năm gần đây đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh có
những bước tiến đáng kể, tăng trưởng kinh tế đạt khá, đời sống của nhân dân
được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, tình hình an ninh, chính trị, trật tự
an toàn xã hội được giữ vững ổn định.
Cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế - xã hội, sự nghiệp GD&ĐT Bắc
Giang phát triển ngày càng vững chắc. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã ban
18
hành nhiều cơ chế, chính sách cho GD&ĐT; chất lượng phổ cập giáo dục
Tiểu học mức độ 1 và giáo dục THCS được duy trì giữ vững; hệ thống các
trường đã được quy hoạch phát triển: Toàn tỉnh hiện có 837 trường và trung
tâm, trong đó: Mầm non 273 trường, Tiểu học 260 trường, Trung học cơ sở
223 trường, Phổ thông cơ sở 15 trường, Phổ thông Dân tộc nội trú 4 trường,
Trung học phổ thông 48 trường, 12 Trung tâm, 1 trường Trung cấp chuyên
nghiệp và 1 trường Cao đẳng; tỷ lệ các trường học đạt chuẩn quốc gia tăng
liên tục hàng năm (toàn tỉnh có 592 trường chuẩn, đạt 73,4%, trong đó Mầm
non 171 trường, Tiểu học 237 trường, Trung học cơ sở 159 trường và Trung
học phổ thông 25 trường); cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được đầu tư lớn, đạt
hiệu quả cao; CLGD được quan tâm toàn diện. Tháng 12 năm 2013, Bắc
Giang được Bộ GD&ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập GDMN cho trẻ em 5
tuổi, về đích sớm 1 năm so với kế hoạch.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ GD& ĐT và UBND tỉnh , Sở GD&ĐT Bắc
Giang đã tiến hành triển khai hoạt động kiểm định chất lượng đến 100%
trường mầm non trên địa bàn. Năm học 2013 -2014 có 167 trường mầm non
trên tổng số 273 trường trong toàn tỉnh, chiếm tỷ lệ 61.1% tiến hành việc
thực hiện TĐG. Thực tế kết quả cho thấy, đây là tỷ lệ còn thấp, so với yêu
cầu đặt ra là 100% các trường đều phải thực hiện.
Đối với công tác ĐGN, tính đến tháng 3 năm 2015, Sở GD&ĐT Bắc
Giang đã tổ chức được 60 đoàn ĐGN đến các trường mầm non thực hiện
ĐGN theo Thông tư 45/2011/TT-BGDĐT và 32 đoàn đánh giá theo thông tư
25/2014/TT-BGDĐT. Kết quả ĐGN đối với 92 trường mầm non như sau:
trường đạt cấp độ 1 là 16, cấp độ 2 là 72 và cấp độ 3 là 4 (chủ yếu tập trung
vào các trường ở TP).
Thông qua công tác KĐCLGD, các trường mầm non đã có nhiều cố
gắng và sáng tạo từ việc xây dựng kế hoạch đến tổ chức thực hiện công tác
19
TĐG, mang lại cho các trường đã qua kiểm định cơ hội tự phân tích đánh giá
để có những cải tiến về chất lượng. Việc thực hiện TĐG trong KĐCLGD đã
làm thay đổi cách nhìn nhận về công tác quản lý và chỉ đạo, nâng tầm nhìn
chiến lược của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường năng lực quản lý
chỉ đạo và tổ chức các hoạt động giáo dục. Các tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng đã trở thành mục tiêu phấn đấu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
của CSGD. Công tác TĐG của các trường, bước đầu đã có tác dụng đến việc
nâng cao chất lượng dạy và học; các trường chú trọng hơn đến việc sắp xếp
quản lý hồ sơ, sổ sách; tích cực thực hiện cải cách hành chính; rà soát lại cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Điều đó cho thấy KĐCLGD đã dần trở
thành một công việc quen thuộc với cán bộ quản lý, giáo viên của các nhà
trường. Vai trò của KĐCLGD ngày càng được thể hiện rõ nét.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những hạn chế cần khắc phục là:
- Một số cán bộ quản lý nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của công tác
KĐCLGD.
- Việc lựa chọn thành viên, thành lập Hội đồng và lập kế hoạch TĐG
chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, công tác giám sát và đảm bảo việc thực
hiện hiệu quả chưa cao. Lãnh đạo hạn chế trong cách tổ chức hoạt động này
trong trường, chưa biết cách huy động mọi nguồn lực để thực hiện. Việc
phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong hội đồng TĐG chưa đảm bảo
đúng với vị trí năng lực của từng thành viên.
- Chất lượng báo cáo TĐG chưa cao. Hình thức, cấu trúc trình bày đúng
theo hướng dẫn nhưng số liệu kê khai ở phần cơ sở dữ liệu chưa khớp đúng
với thực trạng và chưa biết cách sử dụng số liệu từ bảng cơ sở dữ liệu để
đánh giá các tiêu chí. Chất lượng minh chứng, xử lý minh chứng theo yêu
cầu của nội hàm của các chỉ số chưa phù hợp, không linh hoạt và máy móc;
20
Minh chứng thu thập được chưa đủ sức thuyết phục để chứng minh cho chỉ
số đạt được, đôi khi mang tính đối phó. Tâm lý ngại khó của một số cán bộ,
giáo viên ở những trường đăng ký KĐCLGD đạt cấp độ thấp vẫn còn. Sự nhiệt
tình hăng hái và quyết tâm đăng ký KĐCLGD của một số trường đạt cấp độ
thấp chưa cao.
- Đội ngũ tham gia công tác đánh giá nghiệp vụ chưa đồng đều, có thành
viên còn máy móc, không linh hoạt, năng lực phân tích, đánh giá vấn đề chưa
sâu sát, khả năng viết báo cáo hạn chế. Công tác khảo sát sau ĐGN để theo dõi
kết quả cải tiến chất lượng chưa đảm bảo.
Xuất phát từ thực tiễn GD&ĐT, từ những định hướng của Đảng và Nhà
nước đối với GD&ĐT nói chung và từ đặc điểm phát triển của các trường
mầm non nói riêng, tôi xây dựng đề án nâng cao hiệu quả công tác KĐCLGD
các cơ sở GDMN trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2015 -2020.
2. Nội dung thực hiện của đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện đề án
2.1.1. Tình hình giáo dục mầm non tỉnh Bắc Giang
* Quy mô trường, lớp và cơ sở vật chất
Toàn tỉnh hiện có 274 trường mầm non (268 trường mầm non công lập
và 06 trường tư thục). Có 3.520 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, trong đó có 64 nhóm,
lớp độc lập trên địa bàn được cấp phép hoạt động.
Năm học 2014 -2015 có 22.070 cháu trong độ tuổi nhà trẻ đến trường,
đạt 30,1% so với năm học trước tăng 1,3% ; có 86.457 cháu trong độ tuổi
mẫu giáo ra lớp, đạt 96,6%, so với năm học trước tăng 0,1% . Tỷ lệ huy động
trẻ em ra lớp hàng năm tăng từ 1-2 %. Riêng lớp 5 tuổi có 945 lớp với 29.317
cháu ra lớp, so với độ tuổi đạt 99,94% (còn 18 cháu khuyết tật nặng không đi
học). Năm 2013 tỉnh Bắc Giang được Bộ GD&ĐT công nhận đạt chuẩn phổ
21
cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi. Năm 2014, 2015 chất lượng phổ cập vẫn được
duy trì bền vững.
Mỗi lớp có 1 phòng học riêng, thiết bị đồ dùng trong lớp cơ bản đáp ứng
yêu cầu tối thiểu, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 69,9%, phòng học bán kiên cố
22,3%, phòng học cấp 4 là 7,8%. Có đủ các phòng chức năng phục vụ các
hoạt động của trường mầm non. Công trình vệ sinh đảm bảo theo các điểm
trường, đủ diện tích theo điều lệ trường mầm non, bếp thực hiện theo quy
trình một chiều và 100% ký cam kết thực hiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm. 100% các điểm trường có sân và có đồ chơi ngoài trời cho trẻ hoạt
động. Năm 2015 toàn tỉnh có 183 trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, đạt
67% trong đó 15 trường được công nhận đạt chuẩn mức độ 2.
Như vậy, hệ thống mạng lưới trường lớp trường mầm non phát triển khá
hoàn thiện, CSVC như: phòng học, sân chơi ngoài trời, bếp ăn một chiều,
công trình vệ sinh, khối các phòng phục vụ học tập, thiết bị đồ dùng theo quy
định phù hợp về cơ bản thì tương đối đầy đủ, mặc dù còn một số hạn chế nhất
định nhưng các trường cũng đã khắc phục một cách linh hoạt nhằm đáp ứng
tốt nhất cho công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ tại các trường
mầm non trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
* Chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ trong các trường mầm non
100 % các trường mầm non tổ chức ăn bán trú cho trẻ, 99% trẻ đi học ăn
bán trú tại trường. 100% trẻ trong các trường mầm non được khám sức khỏe
định kỳ và theo dõi sức khỏe theo biểu đồ. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ
cân là 4,6 %, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi còn 5,5%. Các điều kiện
khác để chăm sóc bán trú được các trường mầm non quan tâm như: Phòng
ngủ đảm bảo 1,2- 1,5m
2
cho một trẻ, đảm bảo yên tĩnh, thoáng mát về mùa hè,
ấm áp về mùa đông, phòng ngủ có đầy đủ giường, phản, chiếu, đệm, chăn,
22
gối, quạt… và các hệ thống tủ, kệ, giá đựng đồ dùng phục vụ trẻ em. 100%
các trường mầm non, các nhóm, lớp độc lập thực hiện Chương trình giáo dục
mầm non mới, không còn cơ sở giáo dục mầm non thực hiện Chương trình 26
tuần. Trẻ được học 2 buổi/ngày và 100% trẻ em 5 tuổi hoàn thành chương
trình. 100% trẻ 5 tuổi được đánh giá theo Bộ chuẩn phát triển trẻ 5. Trẻ ở các
độ tuổi đều được đánh giá đạt mục tiêu của chương trình đề ra.
* Chất lượng đội ngũ
Toàn tỉnh có 7.738 cán bộ - GV – nhân viên mầm non (CBQL: 832,
GV: 5.774, nhân viên: 1.132), trong đó có 6.181 cán bộ - GV – nhân viên là
biên chế nhà nước (CBQL: 821, GV: 4.839, Nhân viên: 421); 1.557
CBGVNV hợp đồng (CBQL: 11, GV: 935, nhân viên: 711). Tỷ lệ trung bình
GV/lớp là 1,64 ; Riêng lớp mẫu giáo 5 tuổi ưu tiên bố trí đủ 2 GV/lớp
(1889GV/945 lớp). Tỷ lệ GV biên chế so với GV hợp đồng đạt 83%. Lương
giáo viên hợp đồng đạt từ 2,5 triệu-10 triệu đồng/tháng.
Về trình độ đào tạo: Có 100% CBQL, GV đạt trình độ chuẩn trở lên,
trong đó trên chuẩn đạt 86,9% (CBQL đạt trình độ đào tạo trên chuẩn là
98,3%, GV có trình độ trên chuẩn là 80,8%).
Có thể khẳng định Bậc học mầm non luôn được các ban, ngành, đoàn
thể, hội cha mẹ học sinh quan tâm tạo mọi điều kiện về vật chất cũng như tinh
thần cho sự nghiệp giáo dục.
Đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên ở bậc học GDMN luôn nhiệt huyết,
có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề, mến trẻ, tích cực tự học, tự rèn luyện,
trau dồi kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn rất
cao.
23
2.1.2. Thực trạng công tác kiểm định chất lượng giáo dục đối với các
cơ sở giáo dục tỉnh Bắc Giang
2.1.2.1. Công tác kiểm định chất lượng giáo dục của tỉnh Bắc Giang
* Công tác tự đánh giá cơ sở giáo dục
Sở GD&ĐT chỉ đạo 100% các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang triển khai công tác tự đánh giá theo tiêu chuẩn, tiêu chí của Bộ
GD&ĐT. Hướng dẫn phòng GD&DT các huyện, thành phố, các trường Trung
học phổ thông, dân tộc nội trú, các Trung tâm Giáo dục thường xuyên – dạy
nghề nâng cao nhận thức về công tác KĐCLGD; đẩy mạnh chỉ đạo, kiểm tra,
rà soát, thẩm định hồ sơ tự đánh giá, tích cực thu thập và sắp xếp các thông
tin minh chứng (gốc hoặc thay thế) theo tiêu chí; sắp xếp, lưu trữ tài liệu thật
khoa học và tiến hành viết báo cáo tự đánh giá.
Đến nay cơ bản các đơn vị đã hoàn thành việc tự đánh giá tại cơ sở,
nhận thức về công tác kiểm định chất lượng giáo dục được nâng lên (coi
KĐCLGD là giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục)
Việc triển khai tự đánh giá của các đơn vị và công tác đánh giá ngoài
đối với các đơn vị cho thấy: nhận thức về công tác quản lý chuyên môn và
quản lý hành chính của lãnh đạo các nhà trường đã có tiến bộ; hồ sơ quản lý
được lưu trữ , sắp xếp có trình tự, khoa học hơn; công tác quản lý đã đi vào
thực chất, cụ thể, sâu sát hơn trong chỉ đạo chuyên môn để nâng cao chất
lượng dạy học. Các đơn vị cơ bản đã nắm được quy trình trong công tác tự
đánh giá và đã tích cực thu thập minh chứng, các nội dung báo cáo tự đánh
giá cơ bản phù hợp với quy định.
* Công tác đánh giá ngoài cơ sở giáo dục
Trong năm học 2014 - 2015 Sở GD&ĐT đã ra quyết định thành lập và
tổ chức 82 đoàn đánh giá ngoài đạt 113,9% so với kế hoạch năm học. Cụ thể :
Mầm non 32 trường; tiểu học 24 trường; Trung học cơ sở 24 trường; Trung
24
học phổ thông 02 trường. Các đoàn đánh giá ngoài làm việc chặt chẽ, đúng kế
hoạch về thời gian và đảm bảo tuân thủ đúng theo các tiêu chuẩn quy định và
quy trình đánh giá ngoài.
Kết thúc năm học, toàn tỉnh đã có 243 trường đánh giá ngoài và công
nhận đạt các cấp độ về chất lượng giáo dục. Trong đó Giáo dục mầm non có
92 trường được đánh giá ngoài và công nhận đạt tỷ lệ 33,6%.
2.1.2.1. Thực trạng công tác kiểm định chất lượng giáo dục đối với
cơ sở giáo dục mầm non tỉnh Bắc Giang
Những số liệu cơ bản trong 3 năm gần đây (Báo cáo tổng kết hàng năm
của Sở GD&ĐT) [19].
Bảng: Thống kê số liệu trường, lớp, học sinh, phòng học và giáo viên
Năm
học
Số
trường
Số
lớp
Tỷ lệ trẻ
ra lớp
Tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng
Phòng học Giáo viên
Nhà
trẻ
Mẫu
giáo
Thể
nhẹ
cân
Thể
thấp
còi
Kiê
n cố
Bán
kiên
cố và
tạm
Tổn
g số
Đạt
chuẩ
n
Trên
chuẩ
n
2012
-2013
272 3407 27.7 93.9 5.8 6.6 63.4 36.6 4815 1640 3175
2013
-2014
273 3427 28.8 96.5 5 5.7 68.3 31.7 5658 1597 4061
2014-
2015
273 3520 30.1 96.6 4.6 5.5 69.9 30.1 5774 1109 4665
Qua bảng thống kê số liệu trường, lớp, học sinh, phòng học và giáo viên
ta thấy, tỷ lệ trẻ ra lớp, số lớp, số trường, số giáo viên tăng theo hằng năm.
Đây là cơ hội cũng như thách thức lớn trong quản lý của ngành giáo dục nói
chung và của GDMN nói riêng. Những trường vùng nông thôn, miền núi khó
khăn về cơ sở vật chất, giáo viên; vùng thành phố (TP) thì khó khăn về quỹ
đất xây dựng trường lớp, số học sinh tăng nhanh. Tỷ lệ giáo viên trên lớp
thiếu so với quy định. Nguồn giáo viên và kinh phí chi trả lương cho giáo
25