MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC
BẢNG DANH MỤC BIỂU ĐỒ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CC Chiều cao
CC/T Chiều cao theo tuổi
CN Cân nặng
CN/T Cân nặng theo tuổi
CN/CC Cân nặng theo chiều cao
CT Can thiệp
ĐC Đối chứng
CSHQ Chỉ số hiệu quả
IGF-1 Insulin-like Growth Factor -1 (Hormon tăng trưởng IGF-1).
HAZ Height-for-Age Zscore (Chỉ số Z-score chiều cao/tuổi)
Hb Hemoglobin
HQCT Hiệu quả can thiệp
NCHS National Center for health Statistic
Trung tâm Thống kê sức khỏe quốc gia Mỹ NCDDKN
Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị
SDD Suy dinh dưỡng
SD Độ lệch chuẩn
TE Trẻ em
UNICEF The United Nations Children's Fund
Quỹ nhi đồng liên hợp quốc UNU Đại
học liên hợp quốc
WAZ Weight-for-Age Zscore - Chỉ số Z-score cân nặng/tuOi
WHZ Weight-for-Height Zscore - Chỉ số Z-score cân nặng/chiều cao
WHO World Health Organization - Tổ chức Y tế thế giới
X Số trung bình
1
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.21. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao và tình trạngSDD thấp còi theo
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ các dữ liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy tình
hình suy dinh dưỡng (SDD) ở trẻ em các khu vực đã có sự thay đổi rõ rệt. SDD
thể nhẹ cân đã giảm nhanh song thể thấp còi vẫn còn cao và thường kèm theo
thiếu vi chất. Năm 2011 tỷ lệ SDD thấp còi trên thế giới là 27,5%, ở các nước
châu Á là 26,8% [135]. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia tỷ lệ SDD
thể thấp còi Việt Nam năm 2012 vẫn còn cao chiếm 26,7% trẻ ở dưới 5 tuổi [67].
Hiện nay, SDD thể vừa và nhẹ rất phổ biến và có ý nghĩa sức khoẻ quan
trọng vì ngay cả SDD nhẹ cũng làm tăng gấp đôi nguy cơ bệnh tật và tử vong so
với trẻ em không bị SDD. Thiếu dinh dưỡng và thường xuyên mắc bệnh nhiễm
khuan không chỉ ảnh hưởng đến phát triển chiều cao mà còn gây tổn thương đến
chức năng và cấu trúc của não bộ, do đó làm chậm quá trình phát triển nhận thức
và trí tuệ của trẻ [95]. Hậu quả của SDD gây ra các tác động tiêu cực lâu dài đến
sức khỏe không chỉ ở hiện tại mà còn tác động đến cả thế hệ sau.
Nguyên nhân của SDD rất đa dạng và phức tạp. Có thể do trẻ không được
nuôi dưỡng đầy đủ, khau phần ăn của trẻ thiếu cả về số lượng và chất lượng, trong
đó thiếu các chất như protein, chất béo, vitamin, vi chất, acid amin, các chất cung
cấp năng lượng. Kết quả nghiên cứu về khau phần ăn của vùng nông thôn nước ta
cho thấy lượng protein động vật và vi chất dinh dưỡng mới chỉ đạt khoảng 30%
đến 50% nhu cầu của trẻ. Vấn đề môi trường ô nhiễm, các bệnh nhiễm trùng của
trẻ, nhận thức của bà mẹ và người nuôi trẻ, phong tục tập quán, cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội cũng có tác động đáng kể đến tình trạng SDD của trẻ [36],[39],[45].
Nhiều nghiên cứu can thiệp phòng chống SDD bằng bổ sung vi chất và đa vi chất
trong đó có kẽm đã đạt được kết quả tốt cải thiện được tình trạng SDD thấp còi
[16],[34],[41].
Tiền Hải là huyện ven biển có nhiều các thủy hải sản như tôm, cua, ngao
sò, cá trong đó ngao, sò có chứa các chất đạm, chất béo các vitamin, chất khoáng
như canxi, sắt, kẽm với hàm lượng cao hơn nhiều so với các thực pham khác [65].
Với giả thiết nếu sử dụng ngao bo sung vào khau phần của trẻ có thể sẽ làm
tăng thêm nhiều vi chất quan trọng và lượng protid đáng kể để phục hồi SDD,
3
nhất là SDD thấp còi. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài "Thực trạng suy
dinh dưỡng thấp còi và hiệu quả cải thiện khẩu phần cho trẻ dưới 5 tuồi tại vùng
ven biển Tiền Hải, Thái Bình ".
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên
quan ở vùng ven biển Tiền Hải tỉnh Thái Bình năm 2011.
2. Xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu kẽm ở trẻ em thấp còi 25-48 tháng tuổi chọn từ đối
tượng điều tra ban đầu.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp cải thiện khau phần lên tình trạng dinh dưỡng cho trẻ
em 25-48 tháng tuổi ăn bán trú tại một số trường mầm non huyện Tiền Hải, Thái
Bình.
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình suy dinh dưỡng ở trẻ em trên thế giới và Việt Nam.
1.1.1. Tinh hình suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em trên thế giới.
Từ 576 cuộc điều tra đại diện của các quốc gia và vùng lãnh tho trong giai
đoạn 1990 đến 2010 cho thấy năm 1990 trên thế giới tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị SDD
thể thấp còi chiếm khoảng 40% tương ứng là 253,1 triệu trẻ. Vùng châu Mỹ La
tinh và Caribe là 24,6% (13,7 triệu). Tỷ lệ SDD thấp còi châu Á năm 1990 là
48,4% (188,7 triệu). Các quốc gia đang phát triển là 44,6% (248,4 triệu); các quốc
gia phát triển 6,1% (4,7 triệu). Đến năm 2010 trên toàn cầu, thấp còi ở trẻ em đã
giảm từ 39,7% xuống còn 26,7%. Xu hướng này dự kiến sẽ còn 21,8% vào năm
2020. Tuy nhiên, mức độ giảm tỷ lệ SDD thấp còi có sự khác nhau rõ rệt giữa các
khu vực. Ớ châu Phi tỷ lệ thấp còi hầu như ít thay đổi. Sau 20 năm, tỷ lệ SDD thấp
còi vẫn dao động trong mức 40%, trong khi đó châu Á có những chuyển biến
mạnh mẽ, giảm đáng kể tỷ lệ SDD thấp còi từ 49% năm 1990 xuống còn 28%
trong năm 2010. Tuy nhiên, ở đa số các nước đang phát triển, thấp còi vẫn còn là
một vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng trong giai đoạn hiện nay [85],[86].
Khoảng 80% trẻ dưới 5 tuổi thấp còi trên thế giới nằm ở 14 quốc gia trong đó 4
nước là Đông Timor, Burundi, Niger và Madagascar có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
4
thấp còi cao nhất (hơn một nửa trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi). Đến năm
2012 tỷ lệ thấp còi chung toàn thế giới khoảng 25,0%, tương đương với 162 triệu
trẻ; trong đó 56% ở Châu Á, 36% ở châu Phi [147].
Tỷ lệ SDD trên thế giới hiện giảm bình quân khoảng 0,7%/năm. Khu vực
châu Mỹ Latinh và vùng Carribe đạt mức giảm 0,6%/năm và khu vực châu Phi chỉ
đạt được mức giảm 0,3%/năm [147]. Diễn biến tỷ lệ SDD thể thấp còi cho thấy tốc
độ giảm suy SDD không hoàn toàn song hành với mức tăng trưởng kinh tế, ở một
số quốc gia tuy kinh tế tăng trưởng không cao nhưng tỷ lệ SDD thể thấp còi giảm
nhanh do tiến hành các can thiệp có hiệu quả. Khi tỷ lệ SDD thấp còi càng xuống
thấp thì tốc độ giảm sẽ càng chậm lại.
Tỷ lệ thấp còi giảm trong 2 thập kỉ qua và một vài khu vực đã đạt được những
tiến bộ đáng kể. Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có tỷ lệ thấp còi giảm
nhanh nhất. Khu vực này đã giảm được 30% SDD thấp còi, từ 42% năm 1990
xuống còn 12% năm 2011. Thành tựu này chủ yếu là do sự cải thiện từ Trung
Quốc. Tỉ lệ thấp còi ở Trung Quốc đã giảm trên 30% năm 1990 xuống 10% năm
2010 [85],[147]. Tỉ lệ thấp còi ở Mỹ Latinh và vùng Caribe giảm gần một nửa
trong thời gian này. Khu vực phía Nam Châu Á và Trung Đông và khu vực phía
bắc Châu Phi cũng giảm được hơn 1/3 tỉ lệ thấp còi từ năm 1990. Tuy nhiên, sự
tiến bộ trong giảm thấp còi ở tiểu vùng Sahara Châu Phi chỉ giảm 7%, từ 47%
năm 1990 xuống 40% năm 2011. Hơn 1/3 các nước tiểu vùng Sahara Châu Phi
vẫn có tỉ lệ thấp còi rất cao, Tây Phi và Trung Phi giảm rất ít 5%, từ 44% năm
1990 xuống 39% năm 2011, toàn thế giới giảm 14%, từ 40% năm 1990 xuống
26% năm 2011 [136].
Nhìn chung xu hướng tỷ lệ SDD thể thấp còi ở các nước đang phát triển sẽ
tiếp tục giảm từ 29,8% năm 2000 xuống khoảng 16,3% năm 2020; Tuy nhiên có
sự khác biệt giữa các vùng. ớ Châu Phi sẽ có mức độ giảm ít hơn rất nhiều từ
34,9% xuống còn 31,1% trong khoảng 20 năm tới, nhưng số lượng sẽ tăng từ 44
triệu trẻ năm 2000 lên 48 triệu vào năm 2020 do tăng dân số. ớ Châu Á, Châu Mỹ
Latinh và Carribe, cả tỷ lệ và số lượng trẻ SDD thể thấp còi sẽ tiếp tục giảm trong
5
cùng một chu kỳ thời gian. Nhưng trong khi tỷ lệ SDD thấp còi đang giảm chậm
thì sự gia tăng số trẻ em dưới 5 tuối trong các nước kém phát triển đã làm cho số
lượng trẻ em bị thấp còi trong nước kém phát triển giảm chậm hơn so với tỷ lệ
[85],[136].
1.1.2. Tinh hình suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em Việt Nam.
SDD protein năng lượng ở trẻ em vẫn đang là một thách thức đối với công
tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Với những định hướng chiến lược Quốc gia về
dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 cùng sự chung tay của cộng đồng đã yêu cầu
giảm tỷ lệ SDD là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế, xã hội
[6]. Trong những năm gần đây các thể SDD nặng đã giảm rất nhiều, hiện nay
SDD chủ yếu là thể nhẹ và vừa, số trẻ em SDD gầy còm cấp tính đã hạ thấp đáng
kể, nhưng tỷ lệ thấp còi vẫn còn rất cao. SDD thấp còi là hậu quả của thiếu dinh
dưỡng kéo dài, ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao của trẻ em. Trong mấy thập
kỷ qua, tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuối ở Việt Nam đã có những mức giảm mạnh
tương đương với xu hướng giảm tỷ lệ SDD trong khu vực [24],[67].
Tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuối đã giảm từ 59,7% năm 1985
xuống 56,5% năm 1990 và 36,5% năm 2000, đến năm 2005 tỷ lệ SDD thể thấp còi
là 29,6% (theo quần thể tham chiếu NCHS). Tuy nhiên kết quả cho thấy tỷ lệ SDD
thể thấp còi thay đối 31,9% năm 2009 và 29,3% năm 2010 [66] (do từ năm 2006
sử dụng quần thể tham chiếu của WHO [144]). Mặt khác giảm SDD thể thấp còi
là một thách thức, khó hơn rất nhiều so với giảm SDD thể nhẹ cân [23],[27],[40].
Nếu như năm 1999, tỷ lệ SDD nhẹ cân và thấp còi không có sự khác biệt đáng kể
thì sau hơn 1 thập kỷ, 2 tỷ lệ này có sự chênh lệch rất rõ ràng. Từ năm 1999 đến
năm 2010 trong cả nước tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm xuống một cách bền vững từ
36,7% xuống còn 17,5%, đến năm 2012 là 16,2%. Tuy nhiên tỷ lệ SDD thể thấp
còi giảm chậm hơn từ 38,7% năm 1999 xuống 29,6% năm 2005. Đến năm 2006
và 2007 tỷ lệ SDD thấp còi tăng lên 31,9% và 33,9% là do thay đổi việc áp dụng
chuan từ quần thể tham khảo của Mỹ sang áp dụng chuan của WHO năm 2006 và
tiếp tục giảm xuống 29,3% năm 2010 và đến năm 2012 là 26,7% [67].
6
SDD thấp còi theo tuổi.
Tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuổi khác nhau theo lứa tuổi. Các nghiên cứu đã chỉ ra
rằng tỷ lệ SDD ở nhóm trẻ dưới 6 tháng tuổi là thấp nhất đối với cả 3 thể (thể nhẹ
cân, thể thấp còi, thể gầy còm), sau đó tăng nhanh và thời kỳ trẻ 6-24 tháng tuổi,
là thời kỳ trẻ có nguy cơ bị SDD cao hơn do đây là thời kỳ trẻ cai sữa, ăn sam có
nhiều ảnh hưởng đến lượng thức ăn hấp thụ được của trẻ và cũng là thời kỳ trẻ có
nhu cầu dinh dưỡng rất cao. Sức miễn dịch tự nhiên giảm, dễ mắc các bệnh truyền
nhiễm hơn và mẹ bắt đầu đi làm cũng là những lý do dẫn đến tỷ lệ SDD tại nhóm
6-24 tháng tuổi cao [22],[25],[35]. SDD thể nhẹ cân tăng nhanh trong năm đầu
tiên, tiếp tục tăng trong năm thứ 2 và đạt tỷ lệ cao nhất lúc trẻ được 36 đến 41
tháng tuổi. SDD thấp còi xuất hiện sớm ngay trong 6 tháng tuổi đầu tiên, tăng
nhanh từ 6 đến 23 tháng tuổi và gần như đi ngang, thậm chí giảm đi vào 54 đến 59
tháng tuổi [66].
Tỷ lệ SDD thể thấp còi bình quân chung cả nước năm 2010 là 29,3%, có sự
khác biệt rõ rệt giữa các vùng sinh thái ở Việt Nam. Tỷ lệ SDD thể thấp còi cao
nhất là ở vùng Tây nguyên (35,2%), Miền núi và Trung du phía Bắc (33,7%), Bắc
miền Trung và ven biển miền Trung (31,4%). Thấp nhất ở đồng bằng sông Hồng
(25,5%) và Đông Nam Bộ (19,2%). Một số tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ SDD
cao như Lào Cai 40,7%, Hà Giang 38%, Cao Bằng 35% [66]. Đặc biệt, tại các khu
vực vùng sâu, vùng xa, khu dân tộc thiểu số tỷ lệ SDD thấp còi rất cao, có thể lên
tới 60% trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thi Thơ tại huyện Văn Yên tỉnh Yên
Bái [54]. Nghiên cứu của Trần Thị Lan ở nhóm tuổi 12-36 tháng dân tộc Pako và
Vân Kiều ở Quảng Trị cũng cho biết tỷ lệ SDD thấp còi chiếm tới 66,5% [41].
Như vậy, mặc dù tỷ lệ SDD thấp còi chung ở nước ta hiện nay được đánh giá ở
mức trung bình theo khuyến nghị của WHO nhưng cá biệt vẫn còn những vùng có
tỷ lệ thấp còi ở mức cao và rất cao. Sự khác biệt về tỷ lệ SDD giữa các vùng miền
là rất rõ ràng.
Tỷ lệ thấp còi cũng có sự khác biệt khá lớn giữa thành thị và nông thôn. ớ
vùng thành thị vào năm 2006 tỷ lệ thấp còi đã gần về điểm đầu của mức trung
bình theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (22,6%), trong khi ở nông thôn tỷ lệ
7
này vẫn còn ở điểm giữa của mức cao (34,8%) [66]. Nghiên cứu của Hoàng Đức
Hạnh tại Hà Nội năm 2011 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em ở thể nhẹ cân là 8,6%, thể
thấp còi là 17,8% và thể gầy còm là 2,9% [18]. Kết quả của Vũ Quỳnh Hoa năm
2010 tại thành phố Hồ Chí Minh cũng cho kết quả tương tự [21]. Trong khi đó,
các nghiên cứu ở những vùng nông thôn khác nhau trên toàn quốc đều cho thấy tỷ
lệ SDD thấp còi chiếm khoảng 1/3 số trẻ dưới 5 tuổi [28],[32],[55]. Nguyên nhân
là do sự bất cập trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, trình độ dân trí và khoảng cách
giàu nghèo ngày càng lớn giữa khu vực nông thôn, miền núi so với các thành phố
lớn và các khu đô thị [66].
Tình hình SDD thấp còi tại tỉnh Thái Bình và huyện Tiền Hải.
Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy tình trạng SDD trẻ em của tỉnh
Thái Bình còn rất cao, năm 1991 tỷ lệ SDD thể nhẹ cân (CN/T) là 58,5%, và thấp
còi (CC/T) là 59,9% mặc dù Thái Bình là vựa lúa của miền bắc là tỉnh đồng bằng
sông Hồng [36]. Năm 2006 kết quả nghiên cứu tại huyện Tiền Hải cho thấy tỷ lệ
SDD thể nhẹ cân là 22,6%, về nhận thức của bà mẹ có con SDD có tới 51% bà mẹ
vẫn cho là con phát triển bình thường [57]. Năm 2010 tỷ lệ SDD thể nhẹ cân của
Thái Bình giảm xuống còn 17,3%, SDD thấp còi là 26,7% cao hơn so với tỷ lệ
chung của vùng đồng bằng sông Hồng là 25,5% [66].
1. 2. Nguyên nhân của suy dinh dưỡng
SDD do tác động của nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với y tế, lương
thực thực phẩm và thực hành chăm sóc trẻ tại hộ gia đình. Các nguyên nhân gồm:
nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân quan trọng, nguyên nhân cơ bản và nó ảnh
hưởng đến SDD nói chung và SDD thấp còi ở các cấp độ khác nhau.
1.2.1- Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD ở trẻ là thiếu ăn về số lượng, không đảm
bảo chất lượng và mắc các bệnh nhiễm khuẩn. Trong đó, chất lượng khau phần ăn
cần xem xét hơn là số lượng khau phần, trong đó vai trò của protein động vật chất
béo, vitamin, vi chất, acid amin và acid béo cần thiết. Nếu khau phần ăn của trẻ
không đảm bảo đủ nhu cầu protein trẻ sẽ chậm tăng cân, rồi giảm cân dẫn đến
8
chậm phát triển chiều cao, trong trường hợp thiếu protein kéo dài thì trẻ sẽ bị thấp
còi [39],[40],[146].
Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc đã coi nuôi con bằng sữa mẹ là một trong bốn
biện pháp bảo vệ sức khỏe trẻ em, do sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ. Trong
thời gian 4-6 tháng đầu sau sinh, sữa mẹ là nguồn cung cấp đầy đủ các chất dinh
dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ, có tỷ lệ các chất dinh dưỡng cân đối và
dễ hấp thu, đặc biệt là protein và vitamin A. Thêm vào đó, sữa mẹ được xem là
yếu tố khởi đầu, phát triển thành phần vi khuẩn chí đường ruột [89]. Sữa mẹ chứa
oligosaccharides làm tăng sự phát triển của các loài vi khuẩn bifidobacteria, đây là
loại vi khuẩn có mặt sớm trong đường tiêu hóa. Và sự có mặt của chúng trong
đường tiêu hóa là tốt cho sức khỏe của trẻ. Hệ vi sinh vật của trẻ được nuôi bằng
sữa mẹ không những có nhiều vi khuan bifidobacteria mà còn chứa ít các vi khuan
gây bệnh có hại so với trẻ bú sữa ngoài, điều này giải thích tại sao tỷ lệ mắc mới
của bệnh nhiễm khuẩn là thấp ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ [114]. Sữa mẹ làm
giảm đáng kể nguy cơ tử vong ở trẻ em. Tuy nhiên rất nhiều nghiên cứu đã chứng
minh tình trạng thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng đặc biệt là sắt, kẽm, và vitamin
nhóm B trong sữa mẹ và thực pham bo sung [8],[30]. Trẻ dưới 6 tháng tuổi (nhóm
đang được bú sữa mẹ) vẫn bị thiếu vitamin A tiền lâm sàng tồn tại với mức ý
nghĩa sức khỏe cộng đồng [8]. Do vậy bổ sung vitamin A liều cao được khuyến
nghị từ 6 tháng tuổi [40].
Kiến thức thái độ của bà mẹ về giá trị của sữa mẹ cũng làm ảnh hưởng đến
việc nuôi con bằng sữa mẹ cho trẻ như: việc lo ngại cho con bú làm cho bộ ngực
xấu đi và sữa non là không tốt, chỉ có sữa ổn định là sữa tốt cho sức khỏe, một số
còn cho rằng sữa non là ban cần vứt bỏ đi . Một lý do khác ảnh hưởng đến nuôi
con bằng sữa mẹ là do mẹ thiếu sữa, thiếu sữa khiến bà mẹ phải cai sữa cho con
trước 6 tháng tuổi, việc thiếu sữa xảy ra phổ biến ở các bà mẹ ở thành phố do căng
thẳng công việc, do phải đi làm sớm, số lần cho trẻ bú ít đi là nguyên nhân gây
thiếu sữa ở các bà mẹ [89].
9
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng khau phần ăn của trẻ ở nông thôn Việt Nam chỉ
đáp ứng khoảng 30- 50% nhu cầu protein động vật và vi chất dinh dưỡng [39],
[40],[48]. Kết quả điều tra về tình trạng thiếu đa vi chất dinh dưỡng ở trẻ nhỏ tại
các vùng nông thôn Việt Nam của Nguyễn Văn Nhiên và cộng sự cho thấy tỷ lệ
thiếu kẽm, selenium, magnesium, và đồng theo thứ tự là 86,9%, 62,3%, 51,9%, và
1,7%,. Mặt khác, 55,6% trẻ bị thiếu máu và 11,3 % số trẻ bị thiếu vitamin A.
Thiếu đồng thời từ 2 vi chất dinh dưỡng trở lên chiếm tới 79,4% trẻ [121]. Người
ta đã ước tính có khoảng 600-700 triệu người trên toàn thế giới bị thiếu sắt [145].
Thiếu máu và thiếu sắt ở trẻ nhỏ có thể dẫn tới chậm phát triển cả về tinh thần và
thể chất và ảnh hưởng xấu tới sức khỏe [83],[131]. Ở Việt Nam, một số điều tra về
thiếu máu do thiếu sắt ở trẻ em tại một số vùng nông thôn (Sóc Sơn, ngoại thành
Hà Nội) của tác giả Lê Thị Hợp và cộng sự [98], nghiên cứu của Berger, Khúc Thị
Tuyết Hường, Trần Thị Lan cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em Việt Nam vẫn còn ở
mức rất cao [32],[41],[72].
Năm 2006, tỷ lệ thiếu máu trung bình ở trẻ em chung toàn quốc là 29,2%, tỷ
lệ thiếu máu cao nhất ở nhóm 6-12 tháng tuổi, tới 56,9%; có xu hướng giảm khi
tuổi của trẻ tăng lên: 45% ở nhóm 12-24 tháng tuổi, 38% ở nhóm 24-36 tháng
tuổi. Khi chế độ ăn thiếu sắt như thiếu sữa mẹ, cho ăn dặm chưa đúng cách làm
trẻ bị thiếu các thức ăn nguồn gốc động vật là những nguồn quan trọng cung cấp
sắt dẫn đến thiếu máu [100]. Trong những trường hợp nhu cầu sắt lớn hơn bình
thường khi đó sữa mẹ thường không đủ thỏa mãn nhu cầu sắt của cơ thể trẻ,
những trẻ này cần được bắt đầu bổ sung sắt sớm, tối thiểu là từ 2 tháng tuổi, tốt
nhất là trong suốt sáu tháng đầu đời [145].
Ở Việt Nam, kết quả của một số nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ
sơ sinh cao tới 30-40% [31]. Các tác giả Berger và cộng sự năm 2004 đã đánh giá
tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em tại cộng đồng, dựa vào nồng độ kẽm huyết thanh thấp
(<10,7 ^mol/L) dao động trong khoảng 25 - 40% tùy theo địa phương và nhóm
tuổi nghiên cứu [72]. Trong Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ
nhỏ WHO và UNICEF đã đưa ra chương trình các khuyến nghị về việc áp dụng
1
phương pháp bổ sung đa vi chất dinh dưỡng hàng ngày thay vì bổ sung sắt để
phòng thiếu máu do thiếu sắt ở giai đoạn trẻ dưới 2 tuổi [135].
Mắc các bệnh tật và nhiễm khuẩn.
Vòng xoắn giữa bệnh nhiễm trùng và SDD đã gây lên hậu quả tình trạng
SDD càng nặng thêm. Người ta ước đoán nhiễm trùng ảnh hưởng đến 30% sự
giảm chiều cao của trẻ. Tỷ lệ SDD của trẻ tăng lên rõ rệt vào những mùa có các
bệnh nhiễm trùng ký sinh trùng như tiêu chảy, nhiễm khuan hô hấp, sốt rét [58].
Thiếu vitamin A tiền lâm sàng vẫn ảnh hưởng đến khoảng 140-250 triệu trẻ
em ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và tình trạng này liên quan
đến tỷ lệ tử vong và mắc bệnh còn cao. Châu Phi có số trẻ trước tuổi học đường bị
quáng gà cao nhất (2,55 triệu), và chiếm gần một nửa số trẻ bị quáng gà trên toàn
cầu [82],[104],[121].
Tiêu chảy làm cho trẻ mất nước và một số chất dinh dưỡng quan trọng như
kẽm và đồng. Nếu không được bù nước và các chất dinh dưỡng này, trẻ có thể bị
mất nước nghiêm trọng, SDD, chậm tăng trưởng và tử vong trong các trường hợp
nguy hiểm. Trong một nghiên cứu theo chiều dọc ở Philippin, trẻ em được theo
dõi từ khi sinh ra cho đến 24 tháng tuổi, người ta thấy tác động tích lũy của nhiễm
khuẩn đường hô hấp kèm theo sốt đến nguy cơ SDD thấp còi cũng tương tự như
tác động của bệnh tiêu chảy. Có mối quan hệ “liều đáp ứng” giữa gánh nặng tiêu
chảy tích lũy (ví dụ như số ngày bị tiêu chảy) và khả năng bị thấp còi lúc 24 tháng
tuổi [88].
Ớ Indonesia, hiệu quả của việc bổ sung Vitamin A liều cao đối với sự tăng
trưởng tuyến tính ở trẻ tiền học đường phụ thuộc vào mức độ của tình trạng nhiễm
khuẩn đường hô hấp [101]. Năm 2010 về đánh giá tình trạng carotenoid và retinol
huyết thanh và thiếu máu ở 682 trẻ nhỏ ở các vùng miền núi phía Bắc của Việt
Nam, tác giả Nguyễn Công Khan, Phan Văn Huân và cộng sự đã phát hiện thấy tỷ
lệ thiếu máu và thiếu vitamin A ở những vùng này vẫn rất cao và đưa ra khuyến
nghị về các nghiên cứu trong tương lai cần xác định xem nếu tăng tiêu thụ tiền
vitamin A - carotenoids thì có giảm được tỷ lệ thiếu máu ở trẻ nhỏ hay không
[102]. Các bệnh lý khác như dị tật bẩm sinh, tim tiên thiên, các bệnh của các cơ
1
quan bộ phận khác trong cơ thể cũng làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của
trẻ và làm cho trẻ bị SDD.
1.2.2. Nguyên nhân quan trọng: Do sự bất cập trong dịch vụ chăm sóc bà
mẹ trẻ em, kiến thức chăm sóc của người nuôi trẻ, nước sạch vệ sinh môi trường.
Người ta thấy rằng tình trạng thiếu dịch vụ chăm sóc y tế, vệ sinh môi
trường kém, không có hệ thống nước sạch, dẫn đến bệnh tật phát sinh và không
được ngăn chặn đẩy lùi sẽ làm tăng tỷ lệ SDD của trẻ [120]. Một tình trạng tiền
lâm sàng có xu hướng pho biến ở các nước đang phát triển là bệnh đường ruột do
môi trường (EE - environmental enteropathy) hay còn gọi là bệnh đường ruột
nhiệt đới. Loại bệnh này không có biểu hiện ra bên ngoài nhưng có thể làm rối
loạn hấp thu chất dinh dưỡng do làm thay đổi cấu trúc và chức năng của ruột non.
Có giả thiết cho rằng EE gây ra tình trạng chậm tăng trưởng và có thể làm giảm
hiệu quả của các can thiệp dinh dưỡng. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng việc
tiếp xúc liên tục với vi khuẩn gây bệnh có thể làm cho trẻ mắc bệnh EE và hạn chế
khả năng hấp thu tốt và sử dụng tối đa các chất dinh dưỡng từ thức ăn dù trẻ có bị
tiêu chảy hay không [108].
Sự khác biệt về tỷ lệ SDD nhất là SDD thấp còi tại các vùng có điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau đã phản ánh tình trạng an ninh thực phẩm hộ gia đình ảnh
hưởng đến tình trạng SDD của trẻ. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi năm 2010 bị SDD thấp
còi của vùng Đông Nam Bộ là 19,2% trong đó thành phố Hồ Chí Minh chỉ có
7,8%, trong khi vùng Tây Nguyên là 35,2%, vùng trung du miền núi phía Bắc là
33,7% [66].
Kiến thức, thực hành về dinh dưỡng của bà mẹ và người chăm sóc trẻ có
vai trò quan trọng trong công tác phòng chống SDD trẻ em [4],[20],[42]. Mặc dù
kiến thức và thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ khá tốt, nhưng vẫn tồn tại
khoảng cách giữa kiến thức và thực hành. Các hoạt động cần chú trọng tới việc tác
động tới các niềm tin về kết quả của nuôi dưỡng trẻ nhỏ, niềm tin về khả năng
thực hiện thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ, và nhận thức về chuẩn mực xã hội và ủng
hộ của gia đình, xã hội [57],[59].
1
1.2.3. Nguyên nhân cơ bản: Do cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội thấp kém, tình
trạng nghèo đói lạc hậu và mất bình đẳng về kinh tế.
Thực tế thống kê của các nước trên thế giới về tình hình SDD cho thấy như
tỷ lệ SDD thấp còi chung của châu Phi là khoảng 40%. SDD là hậu quả của đói
nghèo, lạc hậu về các mặt phát triển nói chung, bao gồm cả mất bình đẳng về kinh
tế. Với cấu trúc chính trị xã hội và cơ sở hạ tầng kinh tế thấp kém là nguyên nhân
cơ bản của SDD. Ở một đất nước có nền kinh tế chậm phát triển thì dẫn đến kinh
tế thấp kém, kinh tế thấp kém dẫn đến vấn đề an ninh lương thực không được đảm
bảo tỷ lệ đói nghèo cao làm cho không có khả năng đảm bảo lương thực thực
phẩm cho con người và đối tượng dễ bị tổn thương nhất là bà mẹ trẻ em. Ngay cả
các cấu trúc kiến trúc chính trị xã hội cũng ảnh hưởng đến tình trạng SDD như
phong tục tập quán lạc hậu làm cho đời sống sinh hoạt lạc hậu, kiêng khem quá
mức, coi thường ngược đãi phụ nữ trẻ em các hiểu biết về khoa học y tế chăm sóc
sức khỏe thấp kém dẫn đến cuộc sống phó mặc vào tự nhiên làm tác động xấu đến
đời sống sức khỏe mà bà mẹ trẻ em là đối tượng bị ảnh
hưởng nhiều nhất đến sức khỏe bệnh tật phát sinh và dẫn đến bị SDD và tử
vong. Khủng hoảng kinh tế làm cho việc đảm bảo an ninh lương thực và
khả năng cung cấp các dịch vụ y tế dinh dưỡng tại các nước đang phát triển
càng trở lên khó khăn [40].
Sơ đồ 1.1: Mô hình nguyên nhân SDD
1
1.3. Vai trò của vi chất dinh dưỡng đến tăng trưởng ở trẻ em.
Nhiều nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy tình
trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em kéo dài đồng thời thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng,
đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển tầm vóc cơ thể và sự phát triển trí tuệ của trẻ
hiện tại cũng như sau này [15],[99],[110]. SDD và thiếu vi chất ở trẻ em là nguyên
nhân tử vong của hơn 3 triệu trẻ em hàng năm hay chiếm tới 45% nguyên nhân tử
vong trẻ trong năm 2011 [74]. Vì vậy, thực hiện các can thiệp bổ sung đa vi chất
Biểu
hiện
Nguyên
nhân
trực
tiếp
Nguyên
nhân quan
trọng
Nguyên
nhân cơ
bản
Nguồn: Shrimptom & Kachondham, 2003
1
và bổ sung sớm có tác dụng cải thiện đáng kể lên tình trạng dinh dưỡng và sự phát
triển của trẻ [43],[44],[49],[50].
1.3.1. Sắt và sự phát triển của cơ thể.
Nhu cầu sắt hàng ngày đối với trẻ bú mẹ: 1 mg/kg/ngày từ 4-6 tháng, trẻ có
cân nặng sơ sinh thấp: 2-4 mg/kg/ngày từ 1 tháng đến 12 tháng, cho tới liều tối đa
có thể 15mg/ngày. Bổ sung sắt đường uống đạt hiệu quả cải thiện nồng độ
hemoglobin ở nhóm trẻ 0-59 tháng tuổi thiếu máu hoặc thiếu sắt. Ớ nhóm trẻ thiếu
máu hoặc thiếu sắt, nồng độ hemoglobin đã được cải thiện khi bổ sung sắt [133],
[149]. Việc bổ sung phối hợp các vi chất hoặc biện pháp tăng cường vi chất vào
thực pham giúp hỗ trợ hấp thu và giảm tỷ lệ thiếu máu ở trẻ nhỏ [17],[34],[35].
Kết quả của một số nghiên cứu khác cũng cho thấy vai trò của sắt và sự
miễn dịch của cơ thể. Các tác giả nhận thấy rằng khi bệnh nhân bị thiếu máu nặng
có thể giảm khoảng 20% tế bào bạch cầu. Người ta cũng thấy có sự giảm của bạch
cầu trung tính trong trường hợp thiếu sắt; thiếu sắt làm tăng nguy cơ bệnh tật và tử
vong ở bà mẹ và trẻ em. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy những trẻ bị thiếu máu vừa
và nặng có chỉ số thông minh và các chức năng khác thấp hơn trẻ bình thường.
Thiếu máu làm giảm sự tập trung và ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức của
trẻ [126],[ 129],[133].
1.3.2. Vai trò của kẽm với sự phát triển trẻ em.
Vai trò của kẽm bắt đầu được đánh giá và ghi nhận từ năm 1869 trên sinh vật
thực nghiệm nhưng phải 1 thế kỷ sau đó vấn đề thiết yếu của kẽm đối với con người
và nguy cơ thiếu hụt kẽm mới chỉ được công nhận sau một khám phá của Prasad
[125],[130]. Trong 50 năm qua, hàng ngàn công trình nghiên cứu đã cho thấy sự thiếu
hụt kẽm ở người là khá phổ biến. Thiếu hụt kẽm có thể ảnh hưởng đến gần 2 tỷ người
trên thế giới. Nguyên nhân do khau phần nghèo kẽm hoặc hàm lượng phytat cao
trong thực pham dẫn tới ức chế hấp thu kẽm [125].
Sự hấp thu kẽm
Trong điều kiện tiêu chuan, tỷ lệ hấp thu kẽm khoảng 33%, tỷ lệ hấp thu tuỳ
thuộc nhiều vào các điều kiện như hàm lượng kẽm trong thức ăn, nguồn gốc thức
1
ăn và sự có mặt của các chất kích thích hay ức chế sự hấp thu kẽm. Hàm lượng
kẽm trong thức ăn càng thấp thì tỷ lệ hấp thu càng cao. Lượng kẽm dự trữ trong
cơ thể càng thấp thì sự bài tiết kẽm nội sinh càng hạn chế. Cơ chế và vai trò bài
tiết kẽm nội sinh chưa được nghiên cứu kỹ nhưng có sự liên quan giữa sự bài tiết
kẽm với vai trò của tuỵ và các tế bào ruột. Người ta thấy rằng hàm lượng kẽm tá
tràng cao hơn hàm lượng kẽm trong thức ăn. Điều đó chính là sự bài tiết kẽm của
niêm mạc ruột, sau khi đã bài tiết kẽm ra ngoài lòng ruột, niêm mạc ruột lại tái
hấp thu lại một phần lượng kẽm đó để giữ cân bằng. Tại tá tràng 40-70% lượng
kẽm được hấp thu [76].
Một số yếu tố đóng vai trò ức chế và một số khác có vai trò kích thích hấp
thu kẽm. Phytat được chứng minh nhiều trên thực nghiệm làm giảm mức độ hoà
tan kẽm nên ảnh hưởng xấu đến hấp thu kẽm. Sắt vô cơ có thể làm giảm hấp thu
kẽm, nhiều nghiên cứu còn chứng tỏ sắt hem cũng có tác dụng ức chế hấp thu
kẽm tương tự. Canxi làm tăng bài tiết kẽm và do đó làm giảm tỷ lệ hấp thu kẽm.
Mức độ hoà tan của kẽm có một vai trò rất quan trọng trong hấp thu kẽm. Kẽm
tham gia vào quá trình tong hợp protein vận chuyển retinol trong gan (RBP) và có
tác dụng làm tăng hiệu quả bổ sung vitamin A trong điều trị hội chứng thiếu
vitamin A tương ứng với nồng độ RBP tăng. Ngược lại thiếu vitamin A cũng ảnh
hưởng đến hấp thu kẽm do giảm tổng hợp protein vận chuyển kẽm ở ruột [76].
Nhu cầu kẽm được khuyến nghị hàng ngày ở trẻ nhỏ từ 0 đến 4 tháng tuổi là
1,25 mg/ ngày; ở trẻ 5-12 tháng tuổi là 1,1mg/ ngày; ở trẻ trai từ 110 tuổi là 1,6
mg/ ngày; ở trẻ gái từ 1-9 tuổi là 1,55 mg/ ngày, tuy nhiên tùy vào tỷ lệ hấp thu mà
lượng kẽm khuyến nghị dùng hàng ngày có thể tăng từ
2.5 lần đến 10 lần. Ngưỡng nồng độ kẽm huyết thanh ở trẻ em thấp khi hàm
lượng kẽm huyết thanh dưới 70 ^g/dl [78].
Vai trồ của kẽm trong hoạt động của các enzym:
Kẽm có một vai trò sinh học không thể thiếu đối với sức khỏe con người. Nó
tham gia vào thành phần của trên 300 enzym khác nhau, là chất xúc tác không thể
thiếu được của ARN- polymerase trong quá trình nhân bản ADN và tổng hợp chất
1
protein. Đây là chức năng quan trọng giúp kích thích tăng trưởng của trẻ em. Kẽm
vừa là cấu trúc, vừa tham gia duy trì hàng loạt các cơ quan quan trọng trong cơ
thể. Kẽm có độ tập trung cao trong não nên thiếu kẽm có thể dẫn đến các rối loạn
dẫn truyền thần kinh. Kẽm tham gia điều hòa chức năng của hệ thống nội tiết và
có trong thành phần của hormon một số tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến
thượng thận, sinh dục. Kẽm còn có tác dụng chống oxy hóa, chống lại các tổn
thương do nhiễm trùng và nhiễm các độc tố, bảo vệ tế bào niêm mạc, giúp mau
lành vết thương [76].
Vai trồ của kẽm và mối liên quan với 1GF-1 tới tăng trưởng và phát triển
Kẽm có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển của cơ thể, ảnh hưởng này có thể
giải thích nhiều tác dụng như: tăng hấp thu, tăng tổng hợp protein, tăng cảm giác
ngon miệng và tác động lên hormon tăng trưởng (GH- Growth Hormon); hormon
IGF-1. Một số nghiên cứu đã chứng tỏ rằng kẽm có tác dụng kích thích tăng
trưởng ở trẻ nhờ tác dụng trung gian làm tăng hormon tăng trưởng giống insulin
trong máu (IGF-1). IGF-1với nhiều nhóm có cấu trúc polypeptid có liên quan tới
quá trình tăng sinh và biệt hóa tế bào lần đầu tiên được đề cập tới như những yếu
tố kích thích tăng trưởng. Cơ chế hoạt động của IGF-1cũng giống như các yếu tố
có cấu trúc polypeptid khác là gắn với những thụ thể đặc hiệu của tế bào để thúc
đẩy quá trình vận chuyển chất qua màng tế bào [76].
Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của việc bổ sung
kẽm đến sự tăng trưởng của trẻ em. Việc can thiệp của kẽm thử nghiệm đầu tiên
đã không thành công trong việc cải thiện chiều cao của những nam sinh đang độ
tuổi đến trường. Bởi vì kẽm được bổ sung thêm đã được hấp thu kém khi hấp thu
cùng với tỉ lệ xơ sợi cao, chất phytate cao trong các bữa ăn ở Trung Đông, hay do
nghiên cứu không đủ thời gian [130]. Trong những năm 1970 và 1980 đã có một
vài nghiên cứu về ảnh hưởng của bổ sung kẽm cho trẻ thấp còi ở Mỹ và Canada.
Nhóm Hambidge đã nghiên cứu tại Denver, Colorado và đưa ra nhận xét những
đứa trẻ ở gia đình có thu nhập thấp và trung bình có nồng độ kẽm trong tóc thấp,
kém cảm nhận hương vị và chán ăn [96]. Hambidge và CS thấy rằng 35% trẻ 3
đến 5 tuổi thuộc trong trường chương trình trẻ có thu nhập thấp của thành phố
1
Denver có chiều cao theo tuổi thấp hơn hoặc dưới 10% giá trị của quần thể tham
khảo [97]. Ớ Trung Quốc trẻ em từ 1 đến 6 tuối tăng trưởng chậm được bố sung
kẽm 1-2 mg/ ngày trong 6 tháng kết quả tăng cân và chiều cao rõ rệt [80].
Tác giả Brown và cộng sự đã tiến hành phân tích tống hợp 33 nghiên cứu
thử nghiệm lâm sàng kết quả cho thấy bố sung kẽm có ý nghĩa trong việc phát
triển chiều cao, với mức tăng trung bình khoảng 0,22 SD. Ớ những nghiên cứu bố
sung kẽm cho trẻ SDD thấp còi mức tăng trung bình là 0,49 SD [77]. Hiệu quả bố
sung kẽm trong phát triển chiều cao có thể do kẽm đã tác động lên hormon điều
chỉnh tăng trưởng, hoặc tác động lên ngon miệng hoặc giảm nguy cơ mắc bệnh
nhiễm trùng.
Tại Bangladesh nghiên cứu bố sung kẽm 70mg hàng tuần trong 12 tháng
cũng cho thấy giảm có ý nghĩa thống kê tỷ lệ mắc bệnh viêm phối và nhiễm trùng
khác ở trẻ em [70],[71]. Nghiên cứu cộng đồng của Nguyễn Xuân Ninh và cộng
sự năm 1996 bố sung kẽm cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuối bị SDD có kết quả tăng
mức cân và chiều cao tốt hơn. Tác giả còn nhận thấy trẻ được bố sung kẽm có
mức hormon tăng trưởng (IGF-1) trong máu cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng và cho rằng vai trò kích thích tăng trưởng của kẽm được thông qua
mức IGF-1 trong máu. Mặc dù xương cần có những dưỡng chất thành phần như
các amino acid, calcium, phosphor và magne, rối loạn hoạt động các hooc-mon có
vai trò điều hòa tạo thành xương ở đĩa xương tăng trưởng có thể hạn chế tăng
trưởng xương [122]. IGF-1 là chất đưa tin quan trọng của tín hiệu dinh dưỡng dẫn
đến xương dài ra. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, ở những trẻ thiếu hụt kẽm,
IGF-1 nhạy với tình trạng kẽm của cơ thể, bố sung kẽm dẫn đến tăng trưởng chiều
cao đáng kể [111],[ 128].
Một số nghiên cứu đánh giá tác dụng của kẽm đơn độc hoặc kết hợp đối với
tình trạng dinh dưỡng của cơ thể, kết quả cho thấy bố sung kẽm đơn thuần hoặc
bổ sung kẽm kết hợp với sắt cũng không gây tác dụng âm tính lên tình trạng sắt,
trong khi đó nếu bổ sung sắt liều cao có thể gây hậu quả thiếu kẽm nặng hơn [90],
[107]. Trong một nghiên cứu ở Việt Nam do Berger và các chuyên gia của Viện
dinh dưỡng năm 2006 cho thấy kết hợp bổ sung sắt và kẽm cho hiệu quả dương
1
tính rõ rệt về tình trạng sắt và kẽm ở trẻ nhỏ. Tuy vậy hiệu quả dương tính của bổ
sung kẽm đơn lẻ lên tình trạng kẽm và tốc độ tăng cân cho thấy sự tương tác âm
tính của sắt khi bổ sung vào cùng kẽm [72]. Một số nghiên cứu khác cũng cho kết
quả tương tự [91],[107],[109].
Nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam của các tác giả Berger J, Nguyễn Xuân
Ninh, Nguyễn Công Khẩn và cộng sự năm 2006 về kết hợp bổ sung sắt và kẽm
cho trẻ sơ sinh cũng đã cho thấy hiệu quả lên việc cải thiện tình trạng vi chất dinh
dưỡng và tốc độ phát triển của trẻ [72]. Tác giả Nguyễn Thanh Danh đã cho thấy
tác dụng của bổ sung kẽm đối với triệu chứng chán ăn kéo dài ở trẻ và nó còn có
tác dụng cải thiện các rối loạn giấc ngủ ở trẻ em [9],[10],[11]. Chính quá trình cải
thiện giấc ngủ và tăng cảm giác thèm ăn đã tác động gián tiếp lên quá trình tăng
trưởng và phát triển của trẻ.
Lê Thị Hợp và cộng sự năm 2005 đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên, mù đôi có nhóm chứng về bổ sung đa vi chất dinh dưỡng nhằm
cải thiện tình trạng thiếu máu và vi chất dinh dưỡng cũng như tốc độ phát triển của
trẻ nhỏ Việt Nam [98]. Kết quả cho thấy trên đối tượng 306 trẻ từ 6-12 tháng tuổi,
chia thành 4 nhóm điều trị: nhóm nhận đa vi chất dinh dưỡng hàng ngày, nhóm
nhận đa vi chất dinh dưỡng hàng tuần, nhóm chứng và nhóm nhận bổ sung sắt
trong 6 tháng. Kết quả cho thấy sự thay đổi Ferritin cao hơn có ý nghĩa thống kê ở
nhóm đa vi chất hàng ngày và nhóm bổ sung sắt, nhưng hiệu quả cao hơn rõ ở
nhóm bổ sung đa vi chất dinh dưỡng hàng ngày [98].
Nghiên cứu ở Jamaica đã chứng minh tác dụng của việc cung cấp thực
pham bổ sung cho trẻ em SDD nặng cùng với bổ sung kẽm 0,16- 1mg/kg/ngày
cho trẻ em được nuôi dưỡng bằng sữa đậu nành hoặc sữa bò công thức giúp phục
hồi SDD protein năng lượng [92]. Bổ sung kẽm giúp tăng khối nạc và tăng tổng
trọng lượng trong cơ thể do tăng hiệu quả sử dụng năng lượng ăn vào.
Vai trồ của kẽm trong hệ miễn dịch
Hệ thống miễn dịch đặc biệt nhạy cảm với tình trạng kẽm của cơ thể. Thiếu
kẽm gây suy giảm miễn dịch và chức năng của hầu hết các tế bào miễn dịch, bao
1
gồm cả tế bào T, tế bào B và đại thực bào làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của
trẻ [79]. Ớ chuột bị thiếu kẽm có biểu hiện thiểu sản lách và tuyến ức, giảm sản
xuất các globulin miễn dịch, bao gồm cả IgA, IgM và IgG. Hiện tượng hoạt hoá
đại thực bào và hiện tượng thực bào bị suy giảm được nhận thấy ở cả súc vật thí
nghiệm cũng như ở trẻ em bị thiếu kẽm [76].
Trong một vài năm gần đây, một số nghiên cứu đã xác định hiệu quả của
bổ sung kẽm lên tỷ lệ mắc bệnh, trong một số trường hợp làm giảm mức độ nặng
của bệnh, thời gian mắc bệnh viêm phổi, sốt rét, lao, tiêu chảy [ 119],[138],[140],
[141]. Một số nghiên cứu thử nghiệm trên cộng đồng cho biết bổ sung kẽm đã làm
giảm 23% nguy cơ tử vong do tiêu chảy [115],[141]. Liệu pháp sử dụng liều kẽm
gấp 2 lần nhu cầu hàng ngày trên những trẻ bị viêm phổi trong 5 - 6 ngày hoặc
dùng kéo dài cho đến khi trẻ khỏi cho thấy nhóm trẻ được bổ sung kẽm có thời
gian mắc bệnh trung bình ngắn hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với nhóm
chứng [105],[106]. Sử dụng gấp 3 lần kẽm so với nhu cầu hàng ngày ở trẻ tiêu
chảy cấp giúp tăng nồng độ kẽm huyết thanh và giảm mức độ nặng của bệnh [75].
Bo sung kẽm có thể có tác động mạnh trong sự phát triển của trẻ bú mẹ và
trẻ bị bệnh tiêu chảy. Trong điều kiện này có sự gia tăng đào thải kẽm trong phân
cũng như giảm hấp thu điều đó làm giảm lượng kẽm vào cơ thể. Sự giảm hấp thu
và tăng bài tiết gây lên sự mất cân bằng mạnh có hại cho quá trình và làm giảm
lượng kẽm ngay trong thời gian ngắn sau đó. Tiêu chảy nặng có thể gây ra triệu
chứng lâm sàng thiếu kẽm và nhu cầu 200 - 300 ^g kẽm hàng ngày giúp cải thiện
sức khỏe và các triệu chứng trên. Bo sung kẽm giúp giảm nguy cơ nhiễm khuan
đường hô hấp ở trẻ em tiêu chảy, giảm tỷ lệ tử vong, giảm mức độ và thời gian
điều trị do tiêu chảy gây ra [70],[73].
Như vậy, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy bổ sung kẽm cho trẻ dưới 5
tuổi có tác động tích cực trong phòng bệnh và kích thích tốc độ phát triển của trẻ.
Vì vậy cần triển khai rộng rãi trên những đối tượng nguy cơ ở Việt Nam và các
nước đang phát triển nhằm làm giảm nguy cơ bệnh tiêu chảy, nhiễm khuan, tăng
tốc độ phát triển thể lực và giảm SDD trẻ em.
1.3.3. Vai trò của Vitamin A với sự phát triển của trẻ em.
2
Ớ những trẻ được nuôi dưỡng tốt, khoảng 90% lượng vitamin A trong cơ
thể được tích luỹ ở gan dưới dạng retinyl palmitae. Tại gan diễn ra quá trình thuỷ
phân các ester retinyl thành dạng retinol để kết hợp với một protein đặc hiệu thành
retinol gắn protein (RBP). Holo-RBP là dạng vận chuyển chủ yếu của vitamin A.
RBP được giải phóng từ gan để duy trì vitamin A và RBP trong huyết tương để
đáp ứng nhu cầu sử dụng của các tổ chức trong cơ thể.
Đối với chức năng nhìn:
Mối liên hệ tuyến tính giữa phát triển SDD thấp còi và bệnh quáng gà và
bằng chứng kết mạc của bệnh khô mắt đã được tìm thấy trong một số nghiên cứu.
Khi thiếu vitamin A, rhodopsin không được tổng hợp do đó khi trời nhập nhoạng
tối (hoàng hôn) mắt không nhìn rõ, đó là hiện tượng quáng gà [76].
Đối với biểu mô:
Vitamin A có một vai trò quan trọng trong sự hình thành và duy trì chức
năng và bảo vệ của biểu mô - hàng rào bảo vệ chống nhiễm trùng. Khi thiếu
vitamin A các tế bào biểu mô bị sừng hoá. Một số nghiên cứu khác cho thấy việc
bổ sung vitamin A ngay sau đẻ đã làm giảm tỷ lệ tử vong. Một số nghiên cứu thực
nghiệm trên động vật và lâm sàng trên người đều cho rằng thiếu vitamin A có thể
làm cho đối tượng dễ bị nhiễm khuan đường hô hấp cấp hơn [101],[102],[103].
Đối với sự phát triển:
Người ta đã quan sát và thấy rằng: thiếu vitamin A cơ thể sẽ chậm phát
triển, nhưng cơ chế thì chưa thực sự sáng tỏ. Một số nghiên cứu cho thấy nguy cơ
thiếu vitamin A cao dường như tỷ lệ thuận với mức độ SDD [51].
Đối với tuyến nội tiết:
Nghiên cứu bằng i-ốt phóng xạ đã chỉ ra rằng: thiếu vitamin A sẽ giảm sự
hình thành thyroxin. Do đó bướu cổ xuất hiện nhiều ở nơi có khau phần ăn thiếu
vitamin A. Một số nghiên cứu khác cho thấy bổ sung vitamin A cho trẻ không
những cải thiện được nồng độ vitamin A huyết thanh mà còn cải thiện được nồng
độ hemoglobin và hematocrit. Ngược lại bổ sung sắt không có tác dụng cải thiện
nồng độ vitamin A huyết thanh. Do đó, khi bổ sung vitamin A đơn lẻ mà không có
2
bổ sung sắt kèm có thể làm tăng tỷ lệ thiếu máu. Các nghiên cứu thực nghiệm đã
gợi ý rằng bổ sung vitamin A giúp sắt dự trữ trong cơ thể đã được huy động để
làm tăng khả năng sắt ở các tổ chức, sau 18 và 24 tháng, sắt huyết thanh,
transferrin bão hòa và ferritin huyết thanh đã cao hơn mức điều tra ban đầu [116].
1.4. Giải pháp can thiệp cải thiện tình trạng thấp còi ở trẻ em.
1.4.1. Truyền thông giáo dục dinh dưỡng và sức khỏe
Truyền thông giáo dục dinh dưỡng là một trong những thành tố của chiến
lược dinh dưỡng ở tất cả các quốc gia. Mục tiêu của giáo dục dinh dưỡng nhằm
cung cấp kiến thức, thay đổi hành vi, đưa ra một thực hành đúng, khoa học thay
cho một thực hành sai lầm đang tồn tại. Trong giáo dục phòng chống thiếu dinh
dưỡng cho trẻ thì bà mẹ hoặc phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có vai trò đặc biệt quan
trọng nhưng cũng cần mở rộng đến các nhóm đối tượng khác có ảnh hưởng lớn
đến các đối tượng có nguy cơ [29],[40].
Giáo dục kiến thức dinh dưỡng và vệ sinh phòng bệnh trong nhà trẻ mẫu
giáo và các bà mẹ sẽ có tác dụng rất lớn đến thực hành về ăn uống và thực hành
phòng tránh bệnh tật đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm, do đó có tác dụng phòng
tránh các bệnh về dinh dưỡng, nhiễm trùng, ký sinh trùng và các bệnh do điều
kiện sinh hoạt và học tập [4].
Kiểm tra giám sát thường xuyên các hoạt động thực hành vệ sinh và dinh
dưỡng cũng sẽ giúp cho người nuôi dạy trẻ (cô giáo và người nuôi trẻ) làm đúng
hơn tốt hơn và hiệu quả hơn trong việc nâng cao thể lực và giảm tỷ lệ SDD và
bệnh nhiễm trùng [19],[37],[57].
1.4.2. Biện pháp can thiệp y tế tới tình trạng dinh dưỡng trẻ em
Khám sức khỏe định kỳ, phát hiện sớm các bệnh nhiễm trùng, ký sinh
trùng, bệnh do thiếu dinh dưỡng, thừa dinh dưỡng, cũng chính là giúp trẻ em
phòng tránh được các biến chứng của bệnh, nâng cao tình trạng dinh dưỡng, sức
khỏe và từ đó có tác dụng phòng chống các bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng và
các bệnh mạn tính không lây khác. Bổ sung vi chất dinh dưỡng như: sắt, kẽm,
vitamin A giúp phục hồi dinh dưỡng và chống các bệnh nhiễm khuan. Kết quả
2
nghiên cứu bo sung vi chất cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi của Gia Bình, Bắc Ninh
cho thấy số ngày mắc bệnh trung bình, số lần mắc bệnh, tỷ lệ mắc tiêu chảy trên 2
lần trong 6 tháng và tỷ lệ tiêu chảy kéo dài trên 3 ngày thấp hơn so với nhóm
chứng [16].
Các bệnh nhiễm trùng ký sinh trùng nếu không được khám điều trị kịp thời
sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ. Một số nghiên cứu cho thấy thấy tác
động tích luỹ của nhiễm khuan đường hô hấp kèm theo sốt đến nguy cơ SDD thấp
còi tương tự như tác động của tiêu chảy.
Người ta đã thấy rằng khi trẻ tăng trưởng chậm trong khi mắc tiêu chảy và
tăng nhanh hơn bình thường sau khi hồi phục (tăng trưởng bù) tuy nhiên mức độ
tăng trưởng bù tuỳ thuộc vào độ tuổi và tình trạng dinh dưỡng ban đầu của trẻ, tác
nhân gây bệnh cụ thể, khoảng thời gian nhiễm khuan và khoảng thời gian giữa các
lần nhiễm khuan. Trẻ không bị thấp còi tại thời điểm mắc bệnh thường đuổi kịp
cân nặng trong vòng khoảng 3 tháng và đuổi kịp chiều cao trong vòng khoảng 6
tháng sau khi nhiễm khuan so với trẻ không bị mắc bệnh.
1.4.3. Các giải pháp bổ sung vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm.
Hiên nay, đã có những giải pháp hiệu quả và giá thành hợp lý để khắc phục
sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng, trong đó giải pháp bổ sung chất dinh dưỡng vào
thực phẩm là một giải pháp có hiệu quả và bền vững nhất [68],[69],[131]. Chương
trình tăng cường vi chất vào những loại thực phẩm chủ yếu thành công sẽ đến
được với mọi người, bao gồm cả những người nghèo, phụ nữ có thai, trẻ nhỏ và cả
các đối tượng khác, mà các dịch vụ xã hội không thể bao phủ toàn bộ được. Bên
cạnh đó các nhóm đối tượng nguy cơ khác như những người có tuổi, bị bệnh tật
và những người có khẩu phần ăn không cân đối cũng có thể tiếp cận được với các
loại thực phẩm bố sung vi chất dinh dưỡng.
Bố sung vi chất chất dinh dưỡng vào thực phẩm là một can thiệp vào vấn
đề dinh dưỡng đặc hiệu và đã biết rất rõ ràng về cơ chế sinh bệnh học của nó. Như
vậy, bố sung vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm thừa nhận chế độ ăn hiện tại bị
thiếu một số chất dinh dưỡng nhất định. Việc tăng cường này sẽ làm cải thiện
thiếu vi chất dinh dưỡng [113]. Ngân hàng thế giới đã tính toán mỗi đô la chi phí
2
cho chương trình đều thu được lãi xuất rất nhiều qua việc tăng tuổi thọ và giảm
khả năng tàn phế. Bổ sung thực phẩm cho lãi xuất là 1,4 USD, giáo dục dinh
dưỡng 32,3 USD, bổ sung viên nang vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi là 50 USD và
tăng cường vi chất dinh dưỡng là 81,1 USD. Như vậy tăng cường vi chất dinh
dưỡng cho lãi suất cao nhất trong tất cả các loại đầu tư có thể tiến hành được.
Thực phẩm sử dụng để tăng cường vi chất dinh dưỡng bao gồm các “thực phẩm
chính” như nước, muối, bột, dầu, mỡ và đường; các “thực phẩm cơ bản” như
trứng, nước mắm, xì dầu, chè, các sản phẩm sữa, mì sợi, bánh mì, bánh bích qui,
thức ăn cho trẻ em và các “thực phẩm gia giảm” như đồ uống, gia vị, kẹo [3],[33],
[134].
Các nghiên cứu bố sung sắt vào thực phẩm cho thấy, việc bố sung đã góp
phần tăng vi chất dinh dưỡng vào khẩu phần ăn của trẻ em hàng ngày, đặc biệt là
khi nhu cầu của trẻ cao và những trẻ mà chế độ ăn có chất lượng thấp đã có hiệu
quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ [124],[132]. Ở các nước đang phát
triển bổ sung đa vi chất đặc biệt là sắt, kẽm giúp tăng trưởng, giảm nguy cơ tử
vong và các bệnh nhiễm trùng phổ biến ở trẻ như tiêu chảy, viêm phổi [137],[150].
Năm 1993 ở Peru, trong chương trình ăn trưa tại trường học trẻ đã được nhận
100g bánh quy đã tăng cường vitamin A, Bj, B
2
, C, B12, PP, acid folic, sắt, kẽm và
iod. Tại Huancayo, là một vùng có chương trình này, tỷ lệ thiếu máu đã giảm từ
68,1% xuống còn 17,6% trong vòng 6 tháng. Tại Trung Quốc, đã tăng cường sắt
vào ngũ cốc và từ tháng 12/1997 đã và đang nghiên cứu để tăng cường sắt vào
nước mắm và xì dầu [89]. Một triệu trẻ em trong chương trình bữa ăn trưa ở Chi
Lê được cung cấp 10g bánh bích quy tăng cường 6% nồng độ Hb của máu bò
cung cấp 1mg sắt 1 ngày [139]. Tại những vùng có tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt
cao, sau 3 năm đánh giá chương trình bánh bích qui có tăng cường sắt hem đã có
hiệu quả rõ rệt cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu máu của trẻ em [135],
[136]. Tại Thái Lan đã có các nghiên cứu thành công về tăng cường sắt vào nước
mắm và mì sợi [74],[139]. Năm 1998, Mỹ đã tăng cường acid folic vào bột mì
(hàm lượng 1,54 mg/kg bộ mì) để đề phòng tật nứt đốt sống và khuyết tật ống thần
kinh ở phụ nữ có thai vì họ mắc bệnh này tương đối cao dịch vụ y tế công cộng ở
2
Mỹ khuyến nghị rằng phụ nữ ở tuổi sinh đẻ cần ăn ít nhất 400 ^g acid folic hàng
ngày để phòng chống khuyết tật ống thần kinh ở trẻ sơ sinh [100]. Như vậy, việc
tăng cường vi chất vào thực phẩm đã thành công trên nhiều nước. Hiện nay, người
ta đã có nhiều hiểu biết về kỹ thuật tăng cường rõ ràng nên chiến lược này có khả
năng thực thi. Tăng cường vi chất vào thực phẩm được chấp nhận về mặt xã hội,
không làm thay đổi tập quán ăn uống, không thay đổi tính chất của thực phẩm,
đến tay người tiêu dùng nhanh chóng và có thể quản lý được về mặt pháp luật, có
thể giám sát được dễ dàng, là một giải pháp an toàn và là một can thiệp có giá
thành thấp nhất [100].
Từ nhiều năm trước đây, ở Việt Nam đã áp dụng chiến lược tăng cường iod
vào muối để phòng chống thiếu iod và bệnh bướu cổ. Từ năm 1995, việc dùng
muối iod cho toàn dân đã trở thành chiến lược của quốc gia. Từ năm 1997, vấn đề
tăng cường sắt vào thực phẩm đã được đề cập và thực hiện thử nghiệm lâm sàng
và năm 1998 tại thành phố Hồ Chí Minh và đã thử nghiệm tăng cường sắt vào
nước mắm [134]. Việt Nam đã tiến hành thử nghiệm tăng cường vitamin A và sắt
vào bánh bích quy, tăng cường sắt, kẽm vào bánh bích quy và bột dinh dưỡng cho
trẻ em; tăng cường sắt vào nước mắm và đã tiến hành tăng cường vitamin A vào
đường, dầu ăn [2],[3],[12]. Khi tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm chủ
yếu mà được đa số dân cư thường xuyên sử dụng, thì có thể đạt được độ bao phủ
lớn trên quần thể dân cư đó là một giải pháp hiệu qủa cải thiện tình trạng dinh
dưỡng. Việc tăng cường các vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm để cải thiện tình
trạng thiếu vi chất dinh dưỡng, giáo dục người tiêu dùng về lợi ích của thực phẩm
được tăng cường, chọn thực phẩm để tăng cường vi chất cho các đối tượng có
nguy cơ cao có giá thành hợp lí và được nhiều người quen dùng đang là những
vấn đề được quan tâm nghiên cứu hiện nay và trong những năm tới. Nguyễn
Thanh Hà đã tiến hành bổ sung kẽm và sprinkle đa vi chất cho trẻ từ 6 đến 36
tháng tuổi tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh đã có kết quả giảm tỷ lệ SDD thấp
còi sau 6 tháng can thiệp có ý nghĩa thống kê với p < 0,01, nhóm kẽm giảm
40,7%, nhóm sprinkle giảm 33,3%, nhóm chứng giảm 18,5% [16].
1.4.4. Giải pháp bổ sung ngao cải thiện khẩu phần ăn cho trẻ.
2