Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH CỦA CHÙA DÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.13 KB, 15 trang )

Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
Lời mở đầu 2
I.Giới thiệu chung về chùa Dâu 3
1.Vị trí địa lý 3
Đô thị cổ Luy Lâu: 4
2.Lịch sử hình thành 5
3.Kiến trúc của chùa Dâu 7
II.Giá trị văn hóa du lịch của chùa Dâu 10
1.Giá trị lịch sử 10
2.Giá trị tâm linh 10
3.Giá trị lễ hội 13
III.Kết luận 15
DANH SÁCH NHÓM 7
1. Mai Văn Hoàng
2. Trần Thị Kiều Ny
3. Huỳnh Thị Ngọc Thu
4. Lê Thị Hoàng Mỹ
5. Trần Trung Hiếu
6. Lê Thị Mỹ Linh
7. Đặng Thị Bích Vân
8. Lê Nguyễn Diễm Thư
9. Khamsouk Nouladsavong
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 1
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
Lời mở đầu
Nhiều năm qua ở nước ta, có một bài học, một kinh nghiệm hết sức
thuyết phục là văn hóa trong du lịch ở nước ta vừa như mục tiêu mang
tính định hướng, vừa như là một quan điểm khẳng định rằng: văn hóa là
nội dung, là bản chất đích thực của du lịch Việt Nam, tạo nên tính độc


đáo, đặc sắc, hấp dẫn nhất của các sản phẩm du lịch Việt Nam, góp phần
tạo nên hình ảnh quốc gia trong mắt bạn bè quốc tế.
Du lịch là một hoạt động thực tiễn xã hội của con người, nó được hình
thành nhờ sự kết hợp hữu cơ giữa 3 yếu tố người du lịch, tài nguyên du
lịch và môi giới du lịch. Người du lịch là chủ thể du lịch, tài nguyên du
lịch là khách thể, ngành du lịch là môi giới cung cấp sự phục vụ cho
người du lịch. Xét theo phạm trù văn hóa xã hội, du lịch là một hoạt động
cao cấp của con người. Bởi văn hóa là mục đích mà du lịch hướng tới.
Văn hóa du lịch không phải là phép cộng đơn giản giữa văn hóa và du
lịch mà là sự kết hợp giữa du lịch và văn hóa.
Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn về mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa và
du lịch, thiết nghĩ Chùa Dâu là một địa điểm lý tưởng để chúng ta tìm
hiểu. Bởi đây là ngôi chùa cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam. Như đã
biết thì tín ngưỡng phật giáo đã du nhập vào nước ta từ rất sớm, theo ghi
chép của sách cổ thì vào khoảng thế kỷ thứ 2, và bằng chứng còn sót lại
theo dòng lịch sử để lại là quần thể di tích chùa Dâu. Sự ra đời của chùa
Dâu gắn liền với sự du nhập tín ngưỡng Phật giáo vào nước ta vì vậy giá
trị văn hóa lịch sử và giá trị tín ngưỡng của chùa Dâu là rất lớn đối với
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 2
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
I. Giới thiệu chung về chùa Dâu
1. Vị trí địa lý
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân, hay Cổ Châu, là một
ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh,
cách Hà Nội khoảng 30 km. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt
Nam, lịch sử hình thành và phát triển của chùa Dâu gắn liền với sự phát triển và
biến động của đô thị cổ Luy Lâu xưa trên vùng Thuận Thành, Bắc Ninh. Đây là
trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam.
Chùa còn được người dân gọi với

những tên gọi khác nhau như chùa
Cả, Cổ Châu tự, Duyên Ứng tự.
Đây là ngôi chùa được coi là có lịch
sử hình thành sớm nhất Việt Nam
mặc dù các dấu tích vật chất không
còn, nó đã được xây dựng lại. Chùa
là một danh lam bậc nhất của xứ
kinh Bắc xưa nay.
Chùa Dâu nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu
có 5 ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân ("mây pháp"), chùa Đậu thờ Pháp
Vũ ("mưa pháp"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi ("sấm pháp"), chùa Dàn thờ Pháp
Điện ("chớp pháp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa
này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần. Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy
trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 3
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
• Đô thị cổ Luy Lâu:
Sự thành lập và phát triển của chùa Dâu luôn song hành với sự ra đời và
phát triển của đô thị cổ Luy Lâu. Đô thị Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau
giữa Sông Dâu và Sông Đuống, giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
Theo các nguồn sử liệu, các nước
phương Tây và phương Nam muốn
buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc
đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ
Tr.C.N và nhất là từ thế kỷ II-III S.C.N
trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân
nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu
và thuyền buôn của họ thường xuyên
có mặt ở Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu
đã khẳng định Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn - một đô thị cảng

mang tính quốc tế của nước ta thời Bắc thuộc.
Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên
tục vào nước ta. Đây là nơi đầu tiên Sỹ Nhiếp mở trường lớp dạy chữ và văn
hoá Hán. Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của
người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là
chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp , bia ký, bản khắc
Cổ Châu Pháp Vân vật bán hanh và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất
trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước đã
cho thấy Luy Lâu là trung tâm Phật giáo lớn và sớm nhất Việt Nam. Luy Lâu là
không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh
văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á, văn hoá Nho Lão (Trung
Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá dân tộc Việt.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 4
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới
Dâu – tức Luy Lâu tiến hành truyền bá đạo Phật, lập nên trung tâm Phật giáo
Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa
tháp được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, lầu gác,
phố chợ sầm uất của đô thị Luy Lâu, trong đó chùa Dâu là trung tâm trong hệ
thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện), một nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng
dân gian của người Việt.
Luy Lâu, một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương Đông
đầu Công nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay
thuộc Trung Quốc). Như vậy, đạo Phật được truyền trực tiếp vào Việt Nam,
thời đó gồm Giao Chỉ ở phía bắc và Chăm pa ở phía nam, từ Ấn Độ theo đường
biển chứ không phải từ Trung Hoa như một số quan niệm trước đây.
2. Lịch sử hình thành
Chùa được xây dựng vào buổi đầu công nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên
đã từng đến đây. Cuối thế kỷ 6, nhà sư Ti - ni – đa – lưu – chi từ Trung Quốc

đến chùa này, lập nên 1 phái Thiền ở Việt Nam
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi
chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được
nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày 28/04/1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng
Mèn, Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ
tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết
lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chin nhịp. Hiện nay, ở
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 5
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà
Lê.
Theo ghi chép trong sách sử, bia đá,
là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt
Nam, được xây dựng từ thế kỉ thứ 2
dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú.
Chùa Dâu còn có tên là chùa Diên
Ứng, thờ nữ thần Pháp Vân nên còn
gọi là chùa Pháp Vân, và nằm trong
vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là
chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với
truyện cổ tích Tứ pháp của người
Việt xưa.
Truyện rằng, thuở xưa nàng Man Nương ở vùng Dâu, vì thiền sư Khâu Đà
La bước qua người mà mang thai, sinh ra đứa con đem trả nhà sư. Thiền sư bỏ
đứa trẻ vào gốc cây dung thụ, lại đưa cho Man Nương cây thiền trượng có thể
làm phép lấy nước cứu dân bị hạn hán. Ngày cây dung thụ bật gốc trôi về sông
Dâu, thái thú Sĩ Nhiếp muốn vớt lên nhưng không sao làm được, chỉ có nàng
Man Nương dùng dải yếm buộc vào nhẹ nhàng đem lên bờ.

Từ thân cây thần kì ấy, người dân tạc bốn pho tượng Nữ thần Pháp Vân, Pháp
Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là bốn chị em thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp của tín
ngưỡng nông nghiệp, và đặt thờ ở bốn ngôi chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn. Giữa
cây dung thụ còn một khối đá, gọi là Thạch Quang Phật, được thờ chung ở
chùa Dâu. Bà mẹ Man Nương khi mất được thờ trong chùa Tổ cách đó không
xa.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 6
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
Từ câu truyện cổ đó, đã tạo nên một hệ thống chùa Tứ Pháp rất đặc biệt của
riêng người Việt: chùa thờ Nữ thần nông nghiệp, thờ người Mẹ Việt, lấy tượng
Nữ thần làm trung tâm chứ không phải là tượng Phật. Phật và Nữ thần hòa
quyện, bà mẹ của các Nữ thần cũng được tôn là Phật Mẫu Man Nương.
3. Kiến trúc của chùa Dâu
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng
theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao
quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.
Tiền đường của chùa Dâu đặt
tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương.
Gian thiêu hương đặt tượng Cửu
Long, hai bên có tượng các vị Diêm
Vương, Tam châu Thái tử, Mạc
Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà
Dâu ( Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ)
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 7
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
và các hậu cần. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt
ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể
quên được ở nơi đây là những pho tượng
thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu

hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc,
màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở
gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt
ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới
những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương
Tây Trúc. Ở 2 bên là tượng Kim Đồng và
Ngọc Nữ. Phía trước là 1 hộp gỗ trong đặt
Thạch Quang Phật là 1 khối đá, tương
truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ)
cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt,
đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng
được đặt trên 1 bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14. Kiến
trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng
tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên
Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng,
cầu chín nhịp. Bao quanh tòa điện chính hình chữ công là những dãy nhà
ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 8
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
Giữa sân chùa trải rộng là cây
tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng
lọa gạch cỡ lớn ngày xưa, được
nung thủ công tới độ có màu
sẫm già của vại sành. Thời gian
đã lấy đi 6 tầng trên của tháp,
nay chỉ còn 3 tầng dưới, cao
khoảng 17m nhưng vẫn uy nghi,
vững chải thế đứng ngàn năm.

Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp
vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.
Trong tháp có treo 1 quả chuông đồng đúc năm 1793 và 1 chiếc khánh đúc
năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6m ở 4 góc. Trước tháp, bên phải có
tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng 1 con cừu đá dài 1,33m, cao
0,8m. Điều này làm ngạc nhiên nhiều du khách, bởi xưa kia nước Việt không
có con cừu .Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán
Tượng con cừu đá và chuông khánh trong tháp Hòa Phong
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 9
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
II. Giá trị văn hóa du lịch của chùa Dâu
1. Giá trị lịch sử
Với niên đại hình thành và tồn
tại của minh, chùa Dâu được xác
định là ngôi chùa cổ nhất tại Việt
Nam. Những di tích khảo cổ, cổ vật
còn lại của chùa Dâu giúp các nhà
nghiên cứu thấy được phần nào tín
ngưỡng sơ khai bản địa của người
Việt cổ, là bằng chứng khoa học
quan trọng chứng minh sự tồn tại của tín ngưỡng cổ đại trong cộng đồng người
Việt cổ. Chùa Dâu là một nhân chứng lịch sử quan trọng chứng minh sự tồn tại
và phát triển lâu dài của Phật Giáo tại Việt Nam. Có thể nói chùa Dâu là ngôi
chùa thủy tổ, cội nguồn đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam.
2. Giá trị tâm linh
Chùa Dâu là một trong những nơi
tiếp nhận đầu tiên của Phật giáo, chính
vì vậy đây cũng là nơi đầu tiên diễn
ra sự chuyển biến tín ngưỡng tôn
giáo giữa Phật giáo với các tín

ngưỡng bản địa:
- Đặc điểm thứ nhất, chùa Dâu là thờ các hiện tượng tự nhiên:
Nói đến chùa ai không nghĩ đến thờ Phật, ở chùa Dâu người ta cũng thờ
Phật, nhưng Phật ở đây không phải là một Đức Thích ca như thường lệ, ít ai
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 10
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
đến chùa Dâu mà có thể bắt gặp được một hình tượng của Phật Thích ca, thậm
chí nếu có thì cũng chỉ được thờ ở ban phụ.
Ở đây người ta đã hình tượng hóa
những hiện tượng của tự nhiên như mây,
mưa, sấm, chớp thành những con người
cụ thể và tạc tượng để thờ. Các hiện
tượng tự nhiên này đã được nhân dân
thần điệu hóa cùng với sự cộng hưởng
của Phật giáo khi được du nhập vào Việt
Nam thì các hiện tượng tự nhiên này
bỗng chốc trở lên có hình khối, có tính
cách và được nhân dân tôn thờ như một con người cụ thể.
Có hiện tượng thờ các hiện tượng tự nhiên như vậy là do mây, mưa, sấm,
chớp là những yếu tố không thể thiếu đối với những người dân nông nghiệp.
Đó là bốn yếu tố quan trọng biểu hiện khi trời có mưa, mà mưa thì có nước
tưới cây trồng.
- Đặc điểm thứ hai là việc thờ tự ở chùa Dâu thiên về nữ tính.
Có lẽ ít có một dân tộc nào có đối tượng tín ngưỡng là phụ nữ nhiều như ở
Việt Nam.
Đi suốt từ Bắc chí Nam, gần như ở địa
phương nào cũng có một đền thờ Bà hoặc
Cô. Đầu tiên phải kể đến hệ thống Tứ
Pháp ở miền Bắc thờ Bà Pháp Vân (bà
Dâu), Pháp Vũ (bà Đậu), Pháp Lôi (bà

Tướng), Pháp Điện (bà Dàn).
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 11
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
Sau đó là Cửu Thiên Huyền Nữ, đến
Bà Chúa Liễu Hạnh, Diêu Trì Thánh Mẫu,
Bà Chúa Ba, Bà Đá, Bà Đanh. Ở Nha
Trang người ta thờ Bà Thiên Yana, ở Sài
Gòn người ta thờ Ngũ hành Nương
Nương, rồi Bà Đen ở Tây Ninh, Bà Chúa
Xứ ở Châu Đốc…
Đâu đâu chúng ta cũng thấy các Bà, các Bà ở đây đều là những biểu tượng
linh thiêng nên không phải là những cô gái trẻ đẹp mà đều là những người lớn
tuổi, quyền uy, có năng lực làm cho mùa màng tươi tốt, giúp cho các gia
đình con đàn cháu đống, hay ban cho những đứa con hiếm muộn.
Thật ra, người Việt Nam xem tất cả các thần linh là các bà, khuynh hướng
đề cao nữ tính ấy hoàn toàn phù hợp với nền văn minh nông nghiệp sau
khi đã kết hợp nhuần nhuyễn thuyết âm dương. Các bà đã có một vị trí linh
thiêng trong lòng người dân, tất cả đều xem các bà như mẹ, và nhân dân đã
nâng lên gọi là đạo Mẫu.
Từ nền tảng này, bất kỳ một tín ngưỡn ngoại nhập nào vào đến Việt
Nam đều được bản địa hóa và thành tín ngưỡng Việt Nam. Bồ tát Quán
Thế Âm trở thành Phật Bà cũng từ lý do đó. Đó cũng là lý do sự chuyển biển
giữa Phật giáo với các tôn giáo bản địa không chỉ diễn ra ở vùng Dâu (Thuận
Thành, Bắc Ninh ngày nay) mà còn diễn ra phổ biến khắp toàn cõi Việt Nam.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 12
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
3. Giá trị lễ hội
Lễ hội chùa Dâu từ lâu đã đi vào tâm trí của của người dân nơi đây, nó như
một món ăn tinh thần mà hàng năm vào ngày 8-4 mọi người từ khắp mọi nơi
đều tụ họp về đây để trẩy hội chùa.

Dù ai ăn đâu làm đâu
Tháng tư ngày tám hội Dâu thì về
Dù ai xuôi ngược trăm bề
Tháng tư ngày tám nhớ về hội Dâu.
Từ lâu lễ hội chùa Dâu đã nức
tiếng gần xa với lễ rước độc đáo,
hoành tráng thu hút hàng vạn du
khách thập phương đến dự hội. Vào
ngày chính hội (mùng 8 tháng 4 âm
lịch), nhân dân các làng trong vùng
sẽ tổ chức rước tượng Tứ Pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện)
từ chùa làng về tụ hội tại chùa Dâu. Sau khi làm lễ bái ở chùa Tổ thờ Phật Mẫu
Man Nương, đám rước đi “tuần nhiễu” ba vòng khép kín từ Đông sang Tây mô
tả chu kỳ quả đất xoay tròn, tạo ra bốn mùa. Nhiều người gọi nghi lễ này là trò
“Mẹ đuổi con”. Điểm độc đáo nhất của lễ hội chùa Dâu là tục cướp nước. Hai
kiệu Pháp Lôi (bà Sấm) và Pháp Vũ (bà Mưa) sẽ đua nhau chạy ra tam quan.
Kiệu rước nào đến trước thì sẽ lấy được nước. Người dân xem ai về đích trước
để dự báo mùa màng. Nếu bà Mưa thắng thì năm ấy được mùa còn nếu bà Sấm
thắng thì năm ấy ruộng đồng lắm sâu bọ, làm ăn trắc trở. Đây được coi là hoạt
động tín ngưỡng cầu thần Nước đặc trưng của người nông dân vùng đồng bằng
Bắc bộ xưa.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 13
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
Lễ hội Tứ Pháp là sự mô
phỏng lại quá trình sinh ra mưa
của trời đất. Nhưng tại chùa
Dâu, cụ thể là tại thôn Khương
Tự, hội chùa Dâu được giải
thích rõ là: “ngày hội con đưa

mẹ nuôi về thăm mẹ đẻ”.
Hội chùa Dâu ngoài việc rước tượng Tứ Pháp để cầu mưa giống như một số
nơi. Ngày hội ở chùa Dâu còn có điểm khác với một số nơi, đó là trở thành
ngày hội kết chạ giữa các làng quê (là việc giao lưu giữa các làng này với làng
khác).
Như vậy, hội chùa Dâu vừa thể hiện yếu tố Phật giáo là hội chùa, nhưng
đồng thời nó cũng chất chứa nhiều yếu tố văn hoá dân gian như kéo co, hát,
múa…
Hội chùa Dâu còn mang tình chất cộng đồng sâu sắc, mỗi dịp lễ hội là mỗi dịp
mọi người cùng nhau lên chùa, cùng nhau vui chơi. Những bầu không khí đẹp
như vậy càng trở nên cần thiết hơn trong bối cảnh ngày nay khi mà môi trường
công nghiệp đang ngày càng phát triển, mọi người làm việc có tính chất độc lập
hơn so với sản xuất nông nghiệp.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 14
Giá trị văn hóa và du lịch của chùa Dâu
III. Kết luận
Ngược dòng lịch sử, bóc trần từng lớp bụi thời gian ta mới thấy hết được ý
nghĩa và vẻ đẹp truyền thống của khu di tích văn hóa chùa Dâu. Tin tưởng rằng
cả ngày hôm nay và mai sau viên ngọc quý đó sẽ mãi được trường tồn và bảo
vệ. Để chùa Dâu xứng đáng với tên gọi là một trung tâm phật giáo đầu tiên của
nước ta. Niềm tự hào ấy không chỉ của những người dân Kinh Bắc mà của cả
dân tộc, của cả trang sử vẻ vang trong nét đậm đà bản sắc quê hương.
Nhóm 7 – K44 TC & QLSK Trang 15

×