Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Ý nghĩa ngôi nhà sàn của người dân tộc Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.2 KB, 11 trang )

Ý nghĩa ngôi nhà sàn của người dân tộc Thái
I. MỞ ĐẦU
Trải qua một quá trình hình thành lâu đời, trên lãnh thổ Việt Nam hiện
nay đã có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một bức tranh muôn màu
muôn vẻ về văn hóa dân tộc, trong đó có dân tộc Thái.
Thái là tên một dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ở nước
ta, người Thái tập trung cư trú ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu và một phần Hoàng
Liên Sơn, ngoài ra lại còn sống ở miền Tây cao tỉnh thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh.
Dân tộc Thái thuộc nhóm các dân tộc nói tiếng Tày Thái, họ có mặt ở
Việt Nam từ rất lâu đời. Trong truyền thuyết dân gian về “Ải Lậc cậc”, người
Thái tổ có công sáng lập ra 4 cành đồng lòng chải lớn: Mường Thanh, Mường
Lò, Mường Tác, Mường Than đã nói rõ về quá trình ra đời của dân tộc Thái.
Người Thái nói riêng và các dân tộc nói tiếng Thày Thái nói chung không
chỉ cư trú trên lãnh thổ nước ta mà còn cư trú đông đúc ở nhiều nước láng giếng
khác trong khu vực như: Lào, Thái Lan, Nam Trung Quốc. Với tư cách là cư dân
bản địa của vùng này, người Thái đã có công lớn trong việc góp công sức mình
vào sự hình thành khu vực văn hóa dân tộc học Đông Nam Á, mà những thành
tựu được đúc kết là:
“Trồng lúa nước
Làm nhà sàn
Đúc trống đồng…”
Tây Bắc là mảnh đất “rũng vàng” của tổ quốc có thiên nhiên phong phú
đa dạng và giàu đẹp, có trong lịch sử oai hùng với chiến thắng Điện Biên Phủ
lừng lẫy năm châu, có cộng đồng cao dân tộc cần cù, sáng tạo với nền văn hóa
đa dạng như một bức tranh đẹp và mến khách. Tây Bắc là vùng đất ở hai bên bờ
sông Đà và sông Cả, phía đông là dải Hoàng Liên Sơn, phía tây có dãy núi sông
Mã. Giữa hai mạch núi là cả một cao nguyên rộng lớn, cao trung bình từ 600
đến 1000m.
Khí hậu Tây Bắc khắc nghiệt, hàng năm có thể chia làm 3 mùa, hanh,
sương, mưa. Mùa hanh từ tháng 10 đến tháng Giêng, mùa sương từ tháng 2 đến


tháng 5), mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9. Những điều kiện tự nhiên địa hình đã
ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh tế và đời sống văn hóa của người Thái
nói riêng và các dân tộc khác nói chung ở Tây Bắc.
Ở Tây bắc, người Thái sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Nghề
trồng trọt trên cạn (lúa, ngô, khoai, sắn, đậu…) chỉ đến hàng thứ 2 hái lượm, săn
bắn có ý nghĩa rất thực tiễn và góp phần vào bữa ăn hàng ngày. Người Thái nổi
tiếng về những sản phẩm độc đáo. Những tấm mặt “phà” dệt hoa văn tinh vi, đặc
sắc và những hình trang trí phong phú, đa dạng, sặc sỡ như rất hài hòa như in lên
đó hình ảnh của tự nhiên mà con người đang hướng tới khai phá.
Là cư dân sinh sống lâu đời ở Tây Bắc, người Thái đã cùng các dân tộc
khác sáng tạo ra nền văn hóa vật chất cổ truyền độc đáo:
“Ăn cơm nếp
Uống rượu cần
Mặc “Xửa cỏm”
Ở nhà sàn”
Trong phạm vi bài viết, chỉ tập trung làm rõ một phần nào một nét văn
hóa đặc trưng đó là: ngôi nhà sàn của người Thái ở Tây Bắc.
Nhà ở là một hiện tượng văn hóa vật chất. Nó tồn tại và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội loài người. Như tất cả các hiện tượng khác là một
hiện tượng lịch sử, một phạm trù lịch sử, sự biến đổi của nhà ở thường được quy
định bởi mối quan hệ giữa các yếu tố: môi trường địa lí, trình độ phát triển kinh
tế - xã hội, và tập quán dân tộc. Cư dân xã lạnh phương bản thường làm nhà
2
hầm trong đất để tránh độ ẩm cao, làm nhà sàn để ở mà tránh được ẩm thấp lại
vừa thoáng mát. Cũng là nhà ở, cùng tồn tại trong môi trường đị lí tự nhiên như
nhau, mỗi cư dân lại có một cách làm nhà khác nhau.
Người Nùng Thái làm nhà có kích thước chiều sâu về phía bên trong lớn
hơn chiều rộng ngang. Trong khi đó, người Thái lại làm nhà có kích thước rộng
ngang kéo dài ngôi nhà về phía hai bên đầu hồi, trong khi đó người Tày có thói
quen để bàn thờ ra ngay gian giữa nhà, người Nùng lại không như thế mà để ở

một góc sát vách trên của nhà.
Cuộc sống của một gia đình về cơ bản có hai mặt vật chất và tinh thần.
Ngôi nhà - một công trình kiến trúc, vừa là chức năng, vừa thỏa mãn nhu cầu vật
chất, vừa làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần.
Ngôi nhà sàn của người Thái Tây Bắc, được xây dựng bằng sự khéo léo
của đôi bàn tay, từ quan niệm về cái đẹp trong truyền thống thẩm mỹ của dân
tộc, kỹ thuật làm nhà còn biểu hiện trình độ hiểu biết tự nhiên về môi trường
sống. Ngô nhà sàn còn là nơi chứng kiến những cái mới của đời người: sinh đẻ,
cưới xin, ma chay. Đây là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt của mọi thành viên
trong gia đình suốt từ sáng sớm đến chiều tối. Chính dưới mái nhà sàn, quanh
bếp lửa hồng, thế hệ ông cha đã truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm lao
động, những quan hệ xã hội, con người cũng như tập quán dân tộc. Ngôi nhà
vừa là nơi học nghề, vừa là xưởng thủ công. Ngôi nhà vừa là nơi bảo tồn, kế
thừa, phát triển truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
II. LÀM NHÀ SÀN.
Công việc trước tiên của việc làm nhà sàn là chuẩn bị nguyên liệu. Sinh ra
ở vùng rừng núi Tây Bắc, nhà tự nó “may sắm” toàn những thứ mà thiên thiên
phú cho: gỗ, tre, nứa, lá… Việc chuẩn bị gỗ có thể kéo dài vài ba năm, có khi
dăm bảy năm trước khi dựng nhà. Còn tre, nứa, lá, cùng lắm là chuẩn bị trước
một mùa.
3
Rừng Tây Bắc có có lắm gỗ quý. Từ cây rừng đến cây làm nhà là cả một
quá trình chọn lọc, ở đây vừa thể hiện tập quán kinh nghiệm dân gian tích lũy
lâu đời, nhưng thể hiện trình độ nhận thức của con người về thiên nhiên, về khí
hậu, về giới thực vật. Người Thái thường đi rừng chặt cây làm nhà vào mùa khô.
Mùa khô người nông dân ít việc đồng áng, nhưng mùa khô cũng là mùa mà giới
thực vật vùng nhiệt đới có quá trình sinh trưởng chậm, lượng nước trong cây ít.
Chặt cây vào mùa này tránh được mọt đến mức tối đa.
Khi chọn cây làm nhà, người ta thường chọn cây to thẳng có lõi cứng,
chắc, không mọt như “mạy lỷ”, “mạy kén”, “mạy hái”, “Mạy phát xả”, “mạy thồ

lồ”. Tuy nhiên, ở đây có những kiêng kỵ nhất định. Đó là trường hợp đồng bào
không dùng cây tự chết khô, cây đổ và cây bị sét đánh để làm nhà. Họ quan
niệm rằng, những cây như vậy đã mang số phận không may, không còn hồn,
không còn sự sống. Dùng những cây đó làm nhà chả khác gì rước cái rủi vào
nhà. Thực ra cây tự chết, cây bị đổ thường có bệnh, độ bền kém nên mới tự chết,
tự đổ. Người Thái kiêng dùng một số cây sau đây để làm nhà: “Cọ giang mạy”
(cây sơn) - cây này thường gây ra ngứa, và một số người khi chạm phải thường
bị mẩn ngứa, nổi mề đay. “Có chả ướt” - loại cây lá to, dày có nhựa trắng, nhựa
dình vào người là bị rộp, khó chữa “Cọ mạy khẻ” - cây to, lá nhỏ, dài. Họ quan
niệm lấy cây này về làm nhà sẽ bị sét đánh (chưa có ý kiến nào lý giải thỏa đáng
về việc không dùng “mạy khẻ” làm nhà). Phải chăng nó liên quan đến những
kiêng kỵ thuộc về tín ngưỡng của đồng bào.
Làm nhà sàn tốn gỗ. Nhà sàn năm gian phải có sáu vì cột. Mỗi vì cột có ít
nhất là bốn cột: hai cột quân đỡ mái và hai cột giữa chỉ làm nhiệm vụ đỡ sàn chứ
không nhô lên giữa sàn nhà. Mỗi chiếc cột lại có ít nhất là bốn lỗ đục để lắp hai
xà ngang và hai xà dọc. Ở đỉnh mỗi cột quân lại phải lắp thêm quá giang dài,
nhưng nó không đỡ mái mà chỉ làm nhiệm vụ giữ hai cột quận công ngãng ra và
đỡ đầu dưới của kèo ngay sát đỉnh cột quân. Điều quan trọng nữa là quá giang là
mốc để phân chia các gian ngủ trong nhà… Gỗ còn được dùng để làm “xính
4
dua” (kèo) đỡ cho toàn bộ mái nhà, làm kéo và vui ở hai mái đầu hồi, làm đòn
tay bên chán, quản, làm cầu thang lên xuống nhà, làm cột chán…
Tre nứa ngút ngàn miền Tây cũng được đồng bào sử dụng rộng rãi với
khối lượng lớn để làm đòn tay, rui, mè, lát sàn, thưng phên xung quanh nhà, làm
lan can ở chán, ở quản.
“Nhà gianh tốn lạt” câu tục ngữ này cũng được phản ánh ở nhà sàn Thái.
Các loại lạt, dây chằng, người Thái thường dùng là “toóc may hang” (lạt giang),
“vai” (dây mây), “bún” (soong) và một số vỏ cây như “năng hu”, “năng cháu”.
Tất cả những thứ này đều sẵn có trong thiên nhiên, họ chỉ việc đi lấy về. Bảo
quản khô trên gác bếp, khi dùng đem ngâm nước cho mềm, dẻo, dễ buộc.

Cỏ gianh là thứ nguyên liệu cổ truyền dùng lợp nhà của cư dân miền núi.
Trước đây, cỏ gianh mọc tự nhiên nhiều. Khi cần, đồng bào lên núi cắt gianh,
phơi khô mang về lợp. Dần dần sau này, cỏ gianh ít, mọc thưa và cằn đi nên
người ta đã tìm cách tạo ra cho được những bãi gianh xanh tốt, để lấy gianh lợp
nhà.
Theo kinh nghiệm dân gian, vào những ngày cuối đông, đầu xuân, người
ta phát những bãi cỏ gianh mọc thưa và phơi gianh khô, sau đó đốt cháy toàn bộ.
Sau khi đốt như vậy, cỏ gianh mọc lên sẽ đều và tốt hơn. Người nào phát và đốt
bãi gianh nào, sẽ là chủ bãi gianh đó. Để làm nhà mới, có khi phải chuẩn bị mấy
bãi gianh liền. Những người sửa chữa nhà cũng phải chuẩn bị gianh theo cách
nhân tạo này. Do đó, hàng năm vào mùa xuân ở rừng Tây Bắc thường có nhiều
đám cháy do đốt bãi gianh và đốt nương. Từ những đám cháy này, có thể lan ra
thành những đám cháy rừng rất tai hại.
Tiếp theo “xau hẹ” (cột cái) người ta dựng “xau chảu xửa” (cột chủ nhà) ở
mái trên của nhà. “xau chảu xửa” do chủ nhà cùng với những người đến giúp
làm nhà dựng hộ. “Xau chảu xửa” là nơi trú ngụ linh hồn của chủ nhà - người
đứng đầu gia đình phụ quyền, người bố trong gia đình. Theo tập quán, “xau chảu
xửa” nhất thiết phải dựng sau “xau hẹ”. Ngoài ra, không có nghi thức gì đặc
biệt. “Xau hẹ” (cột cái) đỡ lấy “pai hướn mẹ” (mái cái) - mái dưới. Đối diện với
5

×