Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

so sánh, phân biệt với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.03 KB, 9 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, xã hội càng phát triển thì biểu hiện của tội phạm càng đa
dạng, phức tạp, nhất là các tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe
của con người và trật tự, an toàn xã hội chiếm tỉ lệ không nhỏ trong tổng số các tội
phạm xảy ra hằng năm ở nước ta. Do vậy, vấn đề đặt ra với toàn xã hội là cần phải
hướng thiện con người và xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp, chặt chẽ, xử lý
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhằm duy trì và đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật. Để góp phần nghiên cứu một trong các loại tội phạm này, chúng em xin
đưa ra và phân tích một số đặc điểm nổi bật, riêng biệt làm cơ sở cho việc định tội
danh cũng như để so sánh, phân biệt với một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự
(BLHS) qua việc nghiên cứu, tìm hiểu ví dụ sau đây:
“A là lưu manh chuyên nghiệp, vì muốn chiếm đoạt tài sản nhà ông B, A giả danh
là bộ đội nghỉ phép do bị lỡ tàu xin ngủ nhờ (nhà ông B gần nhà ga của thị trấn, ông B
sống một mình). Do hồi trẻ từng đi bộ đội nên ông B đã tỏ ra thông cảm và đồng ý cho
A ngủ nhờ. Nửa đêm, A lẻn thức dậy lấy chiếc đài nhỏ để trên nóc tủ nhà ông B cho
vào hành lí của mình. Sau đó, A dùng con dao nhíp để nạy cửa tủ để tìm tiền. Cánh cửa
bất ngờ bật tung phát ra tiếng động làm cho ông B thức giấc, ông B phát hiện A đang
lục lọi ngăn tủ, ông liền hô: “trộm, trộm, bắt lấy quân ăn trộm”. A lập tức lao tới
giường bịt mồm ông B, ông B cố giãy giụa, kêu lên: “Cứu tôi với, bắt lấy quân ăn
trộm”. A thấy thế, liền bóp cổ ông B đến khi ông nằm im mới thôi. Sau đó, A tiếp tục
lục lọi ngăn tủ và lấy được 300.000 đồng. Ông B đã bị chết do ngạt.
Về vụ án này, có các quan điểm sau:
1. A phạm tội cướp tài sản với tình tiết tăng nặng tại khoản 3 điều 133 BLHS
“làm chết người”.
2. A phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp có tình tiết hành hung để tẩu
thoát và tội giết người.
3. A phạm tội giết người và tội cướp tài sản.”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
a) Quá trình phạm tội của A cần chia làm hai giai đoạn để xem xét.
*Giai đoạn 1: (Từ khi A lén thức dậy lúc nửa đêm đến khi bị ông B phát hiện). Ở
giai đoạn này, hành vi của A có những dấu hiệu sau:


+) Dấu hiệu lén lút
A giả danh bộ đội nghỉ phép bị lỡ tàu xin ngủ nhờ nhà ông B để lợi dụng lúc nửa
đêm, khi ông B ngủ say nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy, A đã có
ý thức che giấu hành vi trái pháp luật của mình đối với chủ tài sản là ông B. Đây là
đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội “Trộm cắp tài sản” là hành vi “lén lút”,
không có việc lén lút thì không phải là trộm cắp. Nếu một hành vi chiếm đoạt tài sản
trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản thì không thể coi đó là
hành vi trộm cắp, mà hành vi trộm cắp phải được thực hiện một cách lén lút, vụng
trộm đối với chủ tài sản.
+) Dấu hiệu chiếm đoạt tài sản
A lén lấy chiếc đài nhỏ trên nóc tủ nhà ông B cho vào hành lý (hành vi của A đã
chuyển dịch tài sản của gia đình ông B vào hành lý của mình một cách trót lọt). Trong
thực tiễn điều tra và xử lý tội phạm từ trước đến nay, hành vi trên được coi là đã
chiếm đoạt được tài sản.
+) Đối tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi “lén lút”, đó là chủ sở
hữu tài sản. Theo pháp luật dân sự, chủ sở hữu tài sản là người có đầy đủ 3 quyền
năng: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy định của
pháp luật. Như vậy, với việc thực hiện 3 quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối
với tài sản, thì ông B - chủ sở hữu tài sản là đối tượng chủ yếu mà tội phạm hướng tới
để thực hiện hành vi “lén lút”. Do đó, việc A lén lấy đi chiếc đài mà không có sự đồng
ý của ông B là hành vi trái pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu của công dân được nhà
nước bảo vệ. Từ những đặc điểm nêu trên có thể khẳng định, ở giai đoạn thứ nhất,
nếu A chỉ dừng lại ở việc chiếm đoạt chiếc đài cho vào hành lý và rời khỏi nhà ông B
2
thì hành vi mà A đã thực hiện có dấu hiệu của trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, hành vi đó
đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu để cấu thành tội trộm cắp tài sản hay chưa, còn tùy thuộc
vào giá trị tài sản (chiếc đài nhỏ) bị chiếm đoạt theo quy định tại khoản 1 Điều 138 -
BLHS.
*Giai đoạn 2: Sau khi A lấy được chiếc đài cho vào hành lý của mình, A tiếp tục
thực hiện hành vi "dùng con dao nhíp nạy cửa tủ để tìm tiền" thì bị ông B phát hiện và

hô: “trộm, trộm, bắt lấy quân ăn trộm”. A lập tức lao tới giường bịt mồm ông B, ông
B cố giãy giụa, kêu lên: “Cứu tôi với, bắt lấy quân ăn trộm”. Như vậy, ban đầu A chỉ
bịt mồm ông B để khiến ông không kêu được, nhưng khi thấy cách này không hiệu
quả và bản thân có nguy cơ bị bắt, A chuyển sang bóp cổ ông B cho đến khi ông nằm
im mới thôi, sau đó lại tiếp tục lục tủ nhà ông và lấy đi 300.000 đồng.
* Hành vi của A đã thực hiện nêu trên, quan điểm thứ nhất cho rằng: A phạm tội
"cướp tài sản" với tình tiết tăng nặng định khung “làm chết người” (theo quy định tại
điểm a khoản 4 Điều 133 BLHS) là không chính xác và bỏ lọt tội phạm. Bởi lẽ: Theo
Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS, thì
việc định tội đối với một số trường hợp vừa có hành vi chiếm đoạt tài sản, vừa có
hành vi xâm phạm tính mạng của người khác được hướng dẫn áp dụng như sau:
- Đối với hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản (tài sản xã hội chủ nghĩa
hoặc tài sản của công dân) có gây thương tích nặng, gây tổn hại nặng cho sức khỏe
(tức là cố ý về hành vi và vô ý về hậu quả) hoặc gây chết người (tức là cố ý về hành vi
và vô ý về hậu quả), thì xử lý về “tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa” theo điểm c
khoản 2 Điều 129 - BLHS năm 1985 hoặc về “tội cướp tài sản của công dân” theo
điểm c khoản 2 Điều 151-BLHS năm 1985 (nay là điểm a khoản 3 Điều 133 hoặc
điểm a khoản 4 Điều 133 của BLHS năm 1999)
- Đối với hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản mà giết người chủ sở hữu hay người
quản lý tài sản, giết người chống cự lại, hoặc bắn trả người đuổi bắt (tức là cố ý đối
với hậu quả chết người), thì xử lý về “tội giết người” và “tội cướp tài sản”.
3
Như vậy, trường hợp vừa có hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, vừa
có hành vi xâm phạm tính mạng của chủ sở hữu chỉ bị xử lý về một tội (tội cướp tài
sản) với tình tiết định khung tăng nặng "làm chết người" (theo điểm a khoản 4 Điều
133 của BLHS năm 1999) khi mà kẻ phạm tội có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người
(như trường hợp kẻ phạm tội đột nhập vào nhà một công dân đánh, trói, nhét giẻ vào
miệng người đó nhằm chiếm đoạt tài sản và làm cho người này bị chết vì ngạt thở).
Còn trong trường hợp vụ án này, A đã có hành vi "bóp cổ ông B cho đến khi ông nằm

im mới thôi". Khi hành động, A nhâ
̣
n thư
́
c rõ hành vi của mình là nguy hiê
̉
m cho xa
̃

̣
i, thâ
́
y trước hậu quả chết người xảy ra và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Do đó,
A có lỗi cố ý đối với cái chết của ông B, nên hành vi dùng vũ lực "làm chết người"
của A phải bị xử lý về tội "giết người" theo quy định tại Điều 93 BLHS) mới không
bỏ lọt tội phạm.
* Quan điểm thứ hai cho rằng: A phạm tội "trộm cắp tài sản" thuộc trường hợp
có tình tiết định khung "hành hung để tẩu thoát" và tội "giết người".
Trước hết, việc khẳng định A phạm tội "trộm cắp tài sản" thuộc trường hợp có
tình tiết định khung "hành hung để tẩu thoát" theo điểm đ khoản 2 Điều 138 - BLHS
là không đúng. Theo Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn như sau: "Đối với trường hợp do chưa
chiếm đoạt được tài sản mà kẻ phạm tội dùng vũ lực hay đe dọa dùng ngay tức khắc vũ
lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì cần định tội là "cướp tài sản". Đối với
trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng chủ tài sản họăc người
khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài sản còn ở trong tay kẻ phạm
tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt
tài sản cho bằng được, thì cần định tội là "cướp tài sản".
Đối với các trường hợp trên đây chỉ cần kết án kẻ phạm tội về một tội là cướp
tài sản… và coi việc chiếm đoạt (chưa thành hoặc đã thành) trước khi dùng vũ lực

hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là tình tiết diễn biến của tội phạm. Nếu việc
dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là nhằm để tẩu thoát (kể cả khi tẩu thoát cùng
4
với tài sản đã chiếm đoạt được), thì không kết án kẻ phạm tội về cướp tài sản…, và tùy
trường hợp mà kết án họ về tội phạm xảy ra trước khi dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng
vũ lực) và coi việc dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là tình tiết “hành hung để
tẩu thoát” Nếu việc dùng vũ lực dẫn tới hậu quả làm chết người thì kẻ phạm tội bị kết
án thêm về tội giết người..."
Theo hướng dẫn tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 ngày 25-12-2001
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu”, cụ
thể như sau:
"6.1. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường hợp mà
người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng
bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại
người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu
thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được
tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp
tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người
khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là "hành hung
để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản."
Như vậy, theo các nội dung hướng dẫn trên đây, thì tình tiết “hành hung để tẩu
thoát” chỉ áp dụng cho các trường hợp dùng sức mạnh để thoát khỏi tình trạng bị bắt
giữ và không nhằm mục đích để giữ tài sản đã trộm cắp. Trên thực tế, sau khi A đã
chiếm đoạt được chiếc đài cho vào hành lý và tiếp tục dùng dao cạy tủ để tìm tiền thì
bị ông B phát hiện và hô hoán, kêu cứu, A đã lập tức dùng vũ lực "bóp cổ" ông B
không phải để tẩu thoát mà nhằm bảo đảm sự an toàn đối với tài sản đã chiếm đoạt
được và để tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong tủ nhà ông B. Sau khi
thực hiện hành vi "dùng vũ lực" đối với ông B, A không chỉ giữ lại được tài sản (chiếc
đài) đã chiếm đoạt trước đó một cách an toàn mà còn tiếp tục chiếm đoạt được số tiền

300.000 đồng. Do đó, hành vi của A đã cấu thành tội "cướp tài sản" theo quy định tại
5

×