Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu sự phân bố, sinh thái, sinh học và hiện trạng bảo tồn của loài giổi – michelia citrata (noot chalermglin) q n vu n h xia tại xã tùng vài, huyện quản bạ, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.48 MB, 91 trang )

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………….………………………………
1
Chƣơng 1 – TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ………… ……….
3
1.1. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu chi Michelia và loài Michelia citrata trên
thế giới ……………………………………… ……………………
3
1.2. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu chi Michelia và loài Michelia citrata tại
Việt Nam ………………………………………………… …… ………
6
1.3. Tổng quan về bảo tồn ………………………………… ……………
10
Chƣơng 2 – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN SINH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ
ĐẶC ĐIỂM ĐA DẠNG THỰC VẬT TẠI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
………………………………………………………………………
13
2.1. Điều kiện tự nhiên …………………………………………………….
13
2.1.1. Vị trí địa lý ……………………………………….………
13
2.1.2. Địa hình địa thế và đặc điểm khu hệ thực vật …….… ………
14
2.2. Dân sinh kinh tế và xã hội ……………………………………………
15
2.2.1. Nhân khẩu học ………………………………… ……… ….
15
2.2.2. Sinh kế ………………………………………………………
17
2.2.3. Hiện trạng sử dụng tài nguyên rừng ………………………….


18
2.2.4. Buôn bán với Trung Quốc ………………………….………
22
2.3. Tầm quan trọng của vùng rừng thuộc ba xã Cao Mã Pờ - Tả Ván –
Tùng Vài ……………………… …….………………………………….
23
Chƣơng 3 – ĐỐI TƢỢNG, MỤC TIÊU, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………………………………
25
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu ……………………………………… ………
25
3.2. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………….
25
3.3. Địa điểm nghiên cứu ………………………………………………….
25
3.4. Nội dung nghiên cứu ………………………………………………….
25
3.5. Phƣơng pháp nghiên cứu …………………………………… ……
26
3.5.1. Phƣơng pháp thu thập số liệu
26
3.5.2. Phƣơng pháp xử lý số liệu
31
Chƣơng IV - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN … ………
34
4.1. Đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của loài Michelia citrata ….
34
4.1.1. Đặc điểm hình thái …………………………………………
34
4.1.2. Đặc điểm sinh học …………………………………………….

41
4.1.3. Đặc điểm sinh thái ……………………………………………
41
4.2. Hiện trạng quần thể, mức độ nảy mầm và tái sinh của loài Michelia
citrata trong khu vực nghiên cứu ………………………………
49
4.2.1. Hiện trạng bảo tồn loài Michelia citrata theo tiêu chuẩn
IUCN 2013 tại Việt Nam ……………………………………
49
4.2.2. Tình trạng nảy mầm và tái sinh ngoài tự nhiên của loài
Michelia citrata
51
4.3. Thử nghiệm nhân giống hữu tính và trồng bảo tồn loàiMichelia citrata
tại Việt Nam……………………………………………
58
4.3.1. Ảnh hƣởng của điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội tại vùng
rừng 3 xã Cao Mã Pờ - Tả Ván – Tùng Vài tới quần thể Michelia citrata
58
4.3.2. Thử nghiệm khả năng nhân giống hữu tính loài Michelia
citrata bằng hạt……………………………………………………………
59
4.3.3. Định hƣớng một số biện pháp nhằm bảo tồn và phát triển loài
Michelia citrata …………………………………………………………….………
64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………………………………….
65
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………
68
PHỤ LỤC…………………………………………… ………………
73




























DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Số liệu nhân khẩu học tổng quát ở 7 thôn sát rừng (năm 2010) …
17

Bảng 2. Thống kê sơ bộ các hộ gia đình ở 7 thôn mục tiêu đang canh tác
trong rừng ……………………………………………………………………
19
Bảng 3. Một số loài thực vật mọc chung với Michelia citrata ……………
44
Bảng 4. Tổ thành các cây gỗ mọc cùng Michelia citrata ……………… …
48
Bảng 5. Các chỉ số đánh giá tình trạng bảo tồn loài Michelia citrata
50
Bảng 6. Tình trạng nảy mầm và tái sinh tự nhiên của loài Michelia citrata
theo tuyến ……………………………………… …………………………
52
Bảng 7. Khả năng nảy mầm và tái sinh của Michelia citrata quanh gốc cây
mẹ ……………………………………………………………………………
55
Bảng 8. Tình trạng các cây Michelia citrata nảy mầm, tái sinh …………….
55
Bảng 9. Kết quả nhân giống hữu tính loài Michelia citrata bằng hạt … …
59
Bảng 10. Đo đạc các chỉ số của một số cây con ………………………….…
60














DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Vị trí của 7 thôn (Vàng Chá Phìn, Vả Thàng 2, Tả Ván, Chúng
Trải, Lò Suối Tủng, Tùng Vài Phìn và Bản Thăng) sống dựa vào rừng Cao
Mã Pờ - Tả Ván - Tùng Vài ………………………………………… ……
16
Hình 2. Cây bị chặt, tỉa thƣa để trồng Thảo quả, Hƣơng thảo ở rừng đầu
nguồn bản Thăng ………………………………………………… ……….
21
Hình 3. Lán trông nƣơng và sấy Thảo quả, Hƣơng thảo tại rừng Cao Tả
Tùng ………………………………………………………………………
22
Hình 4. Khe xói của lũ năm 2014 ……………………………………….…
24
Hình 5. Phân bố của Voọc mũi hếch và Ngọc Lan đang bị đe dọaở rừng
Cao Tả Tùng …………………………………………….………………….
24
Hình 6. Một số hình ảnh cây Michelia citrata ………………………………
35
Hình 7. Đặc điểm hình thái thân Michelia citrata …………………………….
36
Hình 8. Đặc điểm hình thái lá Michelia citrata ………………………………
37
Hình 9. Một số hình ảnh hoa Michelia citrata ………………………………
38
Hình 10. Đặc điểm hình thái hoa Michelia citrata ……………………………
39

Hình 11. Đặc điểm hình thái quả Michelia citrata ……………………………
40
Hình 12. Bản đồ phân bố loài Michelia citrata tại Việt Nam và trên thế
giới ………………………………………………………………………….
43
Hình 13. Khu phân bố (EOO) của loài Michelia citrata tại Việt Nam và
trên thế giới …………………………………………….…………………
51
Hình 14. Các tuyến điều tra nghiên cứu tại khu rừng Cao Tả Tùng ……….
52
Hình 15. Bản đồ phân bố loài Michelia citrata tại khu rừng Cao Tả Tùng
53
Hình 16. Hình ảnh về nghiên cứu tái sinh quanh gốc cây mẹ ……………
57
Hình 17. Một số hình ảnh về quá trình gieo ƣơm hạt Michelia citrata …….
62
Hình 18. Cây giống Michelia citrata.……………………………………
63
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AOO
Nơi cƣ trú (Area of Occupancy)
BKF
Bangkok Forest Herbarium
CITES
Công ƣớc buôn bán quốc tế các loài động thực vật nguy cấp
(Convention on International Trade in Endangered Species of Wild
Fauna and Flora)
CPC
Trung tâm Bảo tồn Thực vật (Center of Plant Conservation)
CR

Rất nguy cấp (Critically Endangered)
DD
Thiếu dẫn liệu (Data Deficient)
EN
Nguy cấp (Endangered)
EOO
Khu phân bố (Extent of Occurrence)
EX
Tuyệt chủng (Extinct)
EW
Tuyệt chủng ngoài thiên nhiên (Extinct in the Wild)
FFI
Tổ chức Bảo tồn Động thực vật Quốc tế (Fauna & Flora International)
FSIV
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (Forest Science Institute of
Vietnam)
IBSC
South China Botanical Garden, Chinese Academy of Science
IUCN
Tổ chức Bảo tồn quốc tế (The World Conservation Union)
LC
Ít lo ngại (Least Concern)
NE
Không đánh giá (Not Evaluated)
NT
Gần nguy cấp (Near Threatened)
VNF
Phòng tiêu bản Thực vật trƣờng đại học Lâm nghiệp (Vietnam Forestry
Herbarium)
VU

Sẽ nguy cấp (Vulnerable)

Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 1 K20 Sinh học

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình phát triển kinh tế toàn cầu, rất nhiều loài thực vật đứng trước
nguy cơ bị tuyệt chủng hoàn toàn bởi các hoạt động của con người. Con người
không chỉ khai thác triệt để các loài có giá trị mà còn phá hủy sinh cảnh, môi trường
sống tự nhiên, dẫn đến nguy cơ tuyệt diệt của các loài sinh vật. Việt Nam cũng
không đứng ngoài tình trạng ấy.
Chúng ta luôn được nghe đất nước ta có “rừng vàng, biển bạc”, quả thật Việt
Nam là quốc gia có hệ thực vật vô cùng phong phú do những đặc trưng về vị trí, địa
lý, địa hình và là nơi giao lưu của nhiều luồng thực vật khác nhau. Trên thực tế, các
nhà thực vật đã thống kê được 13.766 loài thực vật, trong đó 2.393 loài thực vật bậc
thấp và 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch [6,13], và còn có thể nhiều hơn nữa.
Mặc dù có được lợi thế trên, việc nghiên cứu các loài thực vật còn rất nhiều hạn
chế, cả trong phân loại học và lĩnh vực bảo tồn, đặc biệt bên cạnh những loài mới
được khám phá ra, rất nhiều loài thực vật có giá trị đã biến mất hoàn toàn, thậm chí
có những loài mới vừa được phát hiện đã ở tình trạng nguy cấp. Sách đỏ Việt Nam
năm 2007 đã liệt kê tới 464 loài thực vật đang bị đe dọa nghiêm trọng [4]. Họ Ngọc
lan cũng nằm trong tình trạng trên. Họ Ngọc lan (Magnoliceae Juss.) thuộc bộ Ngọc
lan (Magnoliales), liên bộ Ngọc lan (Magnolianae), phân lớp Ngọc lan
(Magnoliidae), lớp Ngọc lan (Magnoliopsida), là họ thực vật nguyên thủy nhất
trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) [2,3,10,18,34,40,49,50]. Ngày nay trên thế
giới, họ này có 17 chi khoảng 300 loài phân bố ở vùng nhiệt đới tới vùng ôn đới ấm
đặc biệt là vùng Bắc bán cầu từ Đông Nam châu Á, Trung Mỹ, Đông Nam của Bắc
Mỹ tới miền Nam của Nam Mỹ [50,51]. Ở Việt Nam các nhà thực vật ghi nhận có

khoảng 55 loài thuộc 11 chi khác nhau [3,10] phân bố tại nhiều tỉnh miền núi từ Bắc
xuống Nam, trong đó có 8 loài đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam năm 2007 [4].
Những năm gần đây, rất nhiều loài thuộc họ Ngọc lan được phát hiện mới cho Việt
Nam, cũng như là loài mới trên thế giới. Luận án tiến sĩ của Vũ Quang Nam đã mô
tả 5 loài Ngọc lan mới cho khoa học, bổ sung 12 loài Ngọc lan cho hệ thực vật Việt
Nam [50].
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 2 K20 Sinh học

Hầu hết các loài Ngọc lan đều có tiềm năng lớn để khai thác và sử dụng vì
chất lượng gỗ tốt, hoa thơm, đẹp, có chứa tinh dầu. Các loài này được dùng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau như xây dựng, làm đồ gỗ, hàng mỹ nghệ, làm thuốc, gia
vị, sử dụng trong ngành công nghiệp nước hoa và được trồng làm cảnh. Điều đó dẫn
tới nhiều loài trong họ bị khai thác triệt để. Theo Li và cộng sự (2000), khoảng 49-
66 loại hợp chất hóa học chính, chiếm tới 92,57%-98,79% trong tinh dầu một số
loài Ngọc lan đã được xác định, khẳng định chất lượng tinh dầu làm nước hoa ngọt
ngào, mạnh và giữ được mùi lâu. Chưa kể một số loài được sử dụng làm thuốc như
lá và hoa Magnolia grandiflora để giảm huyết áp, Michelia alba làm thuốc giảm ho,
lợi tiểu [50].
Hiện tại, với sự tài trợ của Quỹ cây xanh toàn cầu và Tổ chức Bảo tồn các
Vườn thực vật Quốc tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã tập trung bảo tồn khẩn cấp
các loài thực vật có nguy cơ bị tuyệt chủng của đất nước mình trong đó có ưu tiên
tiến hành bảo tồn các loài thuộc họ Ngọc lan - Magnoliaceae đang bị đe dọa tuyệt
chủng trầm trọng tại Cu Ba, Columbia, Trung Quốc và Việt Nam. Để bảo tồn các
loài Ngọc lan ở Việt Nam có hiệu quả thì việc nghiên cứu và bảo tồn chúng ở các
khu phân bố tự nhiên rất cần thiết. Xuất phát từ lý luận và yêu cầu thực tiễn trên,
chúng tôi chọn loài Giổi chanh - Michelia citrata, một trong 12 loài bổ sung cho hệ
thực vật Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu với đề tài luận văn cao học: ”Nghiên

cứu sự phân bố, sinh thái, sinh học và hiện trạng bảo tồn của loài Giổi chanh –
Michelia citrata (Noot. & Chalermglin) Q. N. Vu & N. H. Xia tại xã Tùng Vài,
huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang”. Hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm cơ
sở khoa học để thực hiện bảo tồn bền vững và phát triển loài này tại Việt Nam.






Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 3 K20 Sinh học

Chƣơng 1 – TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu chi Michelia và loài Michelia citrata trên thế
giới
Họ Ngọc lan - Magnoliaceae là một trong những nhóm thực vật có hoa đầu
tiên của ngành thực vật Hạt kín - Angiospermae. Họ Ngọc lan ngày nay gồm
khoảng 300 loài thuộc 17 chi, phân bố tự nhiên ở Đông Nam châu Á, Trung Mỹ,
Đông Nam Bắc Mỹ tới miền Nam của Bắc Mỹ [50,51].
Mặc dù Ngọc lan được coi là một trong những họ thực vật có hoa nguyên
thủy nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành khái niệm về hoa đầu tiên
và nghiên cứu tiến hóa, hệ thống phân loại của họ lại có rất nhiều quan điểm khác
nhau, đặc biệt là sự sắp xếp thứ bậc chi. Rất nhiều trường phái phân loại khác nhau
đã được đưa ra từ khi Jussieus (1789) lần đầu tiên mô tả họ Magnoliaceae trong
“Species Plantarum” cho đến các tác giả khác như Spach (1839); Baillon (1866);
Dandy (1927, 1978); Law (1984, 1996, 2000); Nooteboom (1985, 2000); Chen &

Nooteboom (1993); Azuma et al. (1999, 2001); Kim et al. (2001); Figlar &
Nooteboom (2004); Sun & Zhou (2004); Xia et al. (2008); Sima & Lu (2009); Kim
(2009); Xia (2012).
Năm 1703, Charles Plumier (1646-1704) đã công bố một loài mơ
́
i (Magnolia
plumierii) trên „„Nova Plantarum Americanarum Genera‟‟ đê
̉
ghi nhận như
̃
ng công
lao khoa ho
̣
c cho nhà thư
̣
c v ật học người Pháp -Pierre Magnol (1638-1715) [48].
Tên Magnolia sau đó được Carolus Linnaeus (1707-1788) sư
̉
du
̣
ng trong tác phâ
̉
m
“Genera Plantarum I, 1937” đê
̉
mô ta
̉
loài Magnolia glauca, sau này được chuâ
̉
n

hóa vơ
́
i tên Magnolia virginiana L. Đó là sư
̣
xuất hi ện và ra đơ
̀
i chính thư
́
c cu
̉
a tên
Magnolia, sau này chính là tên cu
̉
a ho
̣
Ngo
̣
c lan – Magnoliaceae [50].
Linnaeus (1753) là người đầu tiên công bố chi Michelia L. với loài chuẩn là
Michelia champaca L. trong tác phâ
̉
m “Species Plantarum” , đã đề cập tơ
́
i 8 loài
thuộc 3 chi, đó là: Liriodenron L. (L. tulipifera L.), Magnolia L. (M. virginiana L.,
M. glauca L., M. foetida L., M. grisea L., M. tripetala L., M. acuminata L.) và
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 4 K20 Sinh học


Michelia L. (M. champaca L.) [43].
Joannis De Loureiro (1790) trong công trình “Flora Cochichinensis I” đã mô
tả chi tiết 3 loài: Liriodendron liliifera Lour., L. figo Lour., L. coco Lour. (đây là
một trong những loài Ngọc lan đầu tiên được mô tả Việt Nam với tên địa phương là
Hoa dạ hợp), và loài Michelia champaca L. (đây cũng là loài được ghi nhận từ Việt
Nam với tên địa phương là Hoa sứ nam) thuộc chi Michelia [32].
Aug. Pyramo De Candolle (1824) trong “Prodromus Systematis Naturalis”
mô tả chi Michelia L. với 7 loài là M. champaca, M. kisopa, M. doltsopa, M.
tsiampaca, M. velutina, M. rufinervis, M. parviflora [25].
C. L. Blume (1825, tái bản lần ba của phiên bản 1823) với “Bijdragen tot de
flora van Nederlandsch Indië” đã mô tả chi Michelia L. với 5 loài M. champaca, M.
longifolia, M. tsampaca, M. montana, M. sufinervis [24].
Tiếp theo đó, Hooker & Thomson trong tác phẩm “Flora Indica 1. 1855”
cũng nhắc đến chi Michelia với 2 loài M. excelsa, M. lanuginova [38].
D. H. Baillon (1866) trong “Recueil Périodique D‟observations botaniques:
Ménoire sur la Famille des Magnolicées”: chỉ mô tả 1 chi Magnolia L. với 5 nhánh,
trong tác phẩm này, Michelia chuyển thành một nhánh của chi Magnolia L. [23].
Sau đấy, với Miquel (1868) trong “Annales Musei Botanici: Lugduno-Batavi
VI” tiếp tục mô tả chi Michelia L. là chi độc lập với 5 loài, Paul Parmentier (1895)
trong “Histoire des Magnoliacées” đã mô tả chi Michelia với 15 loài [47].
Từ năm 1927, Dandy Jame Edgar, trong công trình “The Genera of
Magnolieae” (Kew Bull. 7: 257-264), đã dựa trên đặc điểm khác biệt về hình thái,
công nhận và công bố các chi thuộc họ là Talauma, Magnolia, Manglietia,
Michelia, Alcimandra, Pachylarnax, Elmerrillia, Kmeria [28]. Sau này, Dandy
(1964, 1974) đã chấp nhận thêm một số chi khác của các tác giả khác như
Aromadendron Blume (1825), Paramichelia H. H. Hu (1940) và Tsoongiodendron
W. Y. Chun (1963) để cho ra h ệ thống mơ
́
i vơ

́
i 12 chi. Đây cũng là hệ thống được
nhiều nhà thực vật chấp nhận và sử dụng trong thời gian khá dài. Sau thời gian đó
có mô tả thêm một số chi mới như Paramanglietia của Hu et W. C. Cheng (1951),
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 5 K20 Sinh học

Dugandiodendron Lozano của G. Lozano-Contreras (1975), vơ
́
i Manglietiastrum
Law của Yu Hu Liu (Yuh Wu Law) (1979) và Woonyoungia La (1997) hay
Sinomanglietia của Z. X. Yu (1994). Đến đây chi Michelia L. vẫn được công nhận
là chi độc lập với đặc điểm cụm hoa mọc ở nách lá.
Hệ thống này với chi Michelia L. độc lập vẫn được tiếp tục chấp nhận trong
các tác phẩm của Law (1984, 2000) [50].
Sau này, Hans P. Nooteboom (1985) trong “Notes on Magnoliaceae” đã rút
gọn lại h ệ thống cu
̉
a Dandy (1927, 1964, 1974), theo đó ông gộp 4 chi: Talauma
Juss., Aromadendron Blume, Dugandiodendron Lozano, Manglietiastrum Law vào
chi Magnolia L.; gộp các chi Paramichelia Hu, Tsoongiodendron Chun và
Alcimandra Dandy vào chi Michelia L. Theo cách này phân họ Magnolioideae chỉ
còn 6 chi [44].
Đến năm 2000, Noteboom công nhận họ Ngọc lan có 3 chi Pachylanax,
Magnolia thuộc phân họ Magnolioideae và chi Liriodendrons thuộc phân họ
Liriodendroideae. Chi Magnolia được phân thành nhiều phân chi (subgenus) và tổ
(section), trong đó có phân chi Michelia. Phân chi này lại được phân thành 7 section
là: Sect. Michelia, Sect. Anisochlamys, Sect. Dichlamys, Sect. Micheliopsis, Sect.

Tsoongiodendron, Sect. Paramichelia, Sect. Elmerrillia [45].
Sau đó, Richard B. Figlar và Nooteboom (2004) trong công trình “Notes on
Magnoliaceae IV” đề xuất một hệ thống mới cho Magnoliaceae, trong đó hai người
đã gộp tất cả các chi trong phân họ Magnolioideae vào một chi duy nhất Magnolia ,

́
i 3 phân chi (subgenus): 1) Magnolia; 2) Yulania; và 3) Gynopodium, trong đó
Subsect. Michelia thuộc Sect. Michelia của phân chi Yulania [33].
Năm 2012, Xia Nian-He đã đề xuất một hệ thống mới Magnoliaceae dư
̣
a vào
nhiều dẫn liệu phân tử và hình thái khác nhau. Trong hệ thống này, tác gia
̉
đã phân
chia thành 16 chi trong phân ho
̣
Magnolio ideae, giữ chi Michelia L. là một chi độc
lập trong hệ thống. Hệ thống này được Vũ Quang Nam sử dụng trong luận án tiến sĩ
để phân loại các loài Ngọc lan ở Việt Nam [50].
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 6 K20 Sinh học

Qua các hệ thống này có thể thấy các tác gia
̉
cu
̉
a các hệ thống khác nhau đều
đồng ý về sư

̣
phân tách giư
̃
a 2 phân ho
̣
rõ ràng trong Magnoliaceae , đó là: (1)
Liriodendroideae và (2) Magnolioideae nhưng có sự khác biệt về phân chia, sắp xếp
các chi. Tuy nhiên sau thời gian phân tách hay nhập lại các chi, các bằng chứng về
phân loại truyền thống cũng như các nghiên cứu hiện đại về nhiễm sắc thể và phân
tử đều cho rằng nên xem chi Michelia L. là một chi độc lập được đặc trưng bởi các
đặc điểm nổi bật là hoa và chồi hoa mọc ra từ nách lá, cuống nhụy dài, các lá noãn
(hay các đại ở quả) thường rời. Từ lần mô tả đầu tiên năm 1753 bởi Linnaeus với
một loài duy nhất Michelia champaca, hiện nay trên thế giới, chi Giổi - Michelia L.
được công nhận có khoảng 70 loài phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới châu Á [50,51].
Về loài nghiên cứu, năm 2007 Chalermglin và Nooteboom đã công bố loài
Magnolia citrata Noot. & Chalermglin trên tạp chí Blumea (Blumea 52: 559) dựa
trên mẫu thu được từ Thái Lan (Chiang Mai, Mae Taeng Distr., Mon Angket, 1200
m alt.) mang số hiệu Smitinand 90-269 = BKF 96932 (HT: BKF) và được xác định
thuộc về phân chi Yulania, nhóm (section) Michelia, phân nhóm (subsection)
Michelia [26]. Lúc đó loài này được xác định là loài đặc hữu của Thái Lan, phân bố
ở Chiang Mai, Nan, Loei. Đến năm 2009, loài cũng được nhắc đến trong công trình
“The Magnoliaceae of Thailand” của Nooteboom và Chalermglin [46]. Sau này
trong nghiên cứu của mình, Vũ Quang Nam đã phát hiện loài này có ở Việt Nam và
sau khi tổ hợp lại, chuyển loài này về chi Michelia L. với tên Michelia citrata
(Noot. & Chalermglin) Q. N. Vu & N. H. Xia, tên gọi Magnolia citrata Noot. &
Chalermglin chuyển thành basionym của loài [15].

1.2. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu chi Michelia và loài Michelia citrata tại Việt
Nam

Joannis De Loureiro (1790), một nhà truyền giáo và nhà tự nhiên học Bồ
Đào Nha, là người đầu tiên công bố các loài thuộc họ Ngọc lan ở Việt Nam. Trong
công trình Flora Cochichinensis I (1790) ông đã mô tả 4 loài thuộc 2 chi
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 7 K20 Sinh học

Liriodendron và Michelia, trong đó có loài Michelia champaca [32].
Tiếp đó, trong tập 1 của bộ Thực vật chí đại cương Đông Dương (Flore
Générale de L‟Indo-Chine) do M. H. Lecomte làm chủ biên xuất bản năm 1907,
Finet A. E. và F. Gagnepain đã mô tả họ Ngọc lan - Magnoliaceae của Đông Dương
với 7 chi, 15 loài, một số loài thu mẫu tại Việt Nam [42], trong đó chi Michelia L.
gồm 4 loài: Michelia figo Spreng (mẫu thu ở Nam Định), Michelia baviensis Finet
et Gagnepain (mẫu thu ở Ba Vì), Michelia champaca L. (mẫu thu ở Hà Nội),
Michelia baillonii (Pierre) Finet et Gagn. (mẫu thu ở Campuchia).
Chevalier (1918) bổ sung vào họ Ngọc lan ở Việt Nam 2 loài mới là
Talauma gioi và Michelia tonkinensis, đồng thời tái khẳng định sự phân bố của bốn
loài đã được mô tả là Michelia figo, Michelia baviensis, Michelia champaca,
Michelia baillonii ở Việt Nam [27].
Dandy (1927, 1928, 1929, và 1930) đã mô tả nhiều loài mới từ châu Á, trong
đó có 18 loài từ Việt Nam, đặc biệt trong đó có 11 loài thuộc chi Michelia L là:
Michelia aenea, M. balansae (comb.nov.), M. chapensis, M. constricta, M.
floribunda var. tonkinensis (var.nov.), M. fulgens, M. hypolampra, M. masticata, M.
mediocris, M. subulifera, M. tignifera [28,29,30,31].
Tiếp đó, Gagnepain (1938, 1939) mô tả hai loài mới, Manglietia blaoensis và
Michelia braianensis, đưa tổng số loài Ngọc lan cho hệ thực vật Việt Nam đến năm
1939 là 39 loài và 3 chi, trong đó có 22 loài, 2 kết hợp, và 3 chi mới được mô tả
[35,36].
Sau đó trong Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ (1999) họ Magnoliaceae

hay còn gọi là họ Dạ Hợp gồm có 8 chi và 50 loài, mỗi loài đã nêu tên khoa học, tên
đồng nghĩa chính, tên Việt Nam, mô tả ngắn gọn và có hình vẽ cho từng loài, một
số loài còn nêu các thông tin về công dụng [10]. Trong đó chi Michelia gồm có 19
loài.
Tiếp theo đó đến năm 2003, trong Danh lục các loài thực vật Việt Nam
(Nguyễn Tiến Bân chủ biên), họ Ngọc lan - Magnoliaceae được bổ sung thêm 1 chi
Alcimandra và 1 loài mới là Manglietia hainanensis Dandy, 1930, đồng thời có một
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 8 K20 Sinh học

số chuyển đổi về danh pháp của vài loài. Như vậy tổng cộng tại Việt Nam, họ
Magnoliaceae có 9 chi, 46 loài [3], với chi Michelia có 18 loài và một thứ. Cũng
trong danh lục này, ông liệt kê 3 loài: Paramichelia braianensis (Gagnep.) Dandy,
P. baillonii (Pierre) Hu và Tsoongiodendron odorum Chun, nay đã trở thành
synonym của Michelia brainensis Gagnep., M. baillonii (Pierre) Finet & Gagnep.
và M. odora (Chun) Nooteboom & B. L. Chen.
Cho đến nay, những nghiên cứu mới nhất về chi Giổi - Michelia L. thuộc họ
Ngọc lan - Magnoliaceae có thể kể đến các bài báo của Vũ Quang Nam đã mô tả
một loài Giổi mới cho khoa học là Michelia xianianhei Q. N. Vu năm 2011; đã làm
rõ và bổ sung thêm các loài cho hệ thực vật Việt Nam là Michelia gioi (A. Chev.)
Sima & H. Yu đăng trong Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp 1: 826-829 năm 2009,
Michelia velutina DC. đăng trong Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp 3: 1012-1015 năm
2009; Michelia mannii King đăng trong J. Trop. Subtrop. Bot. 18(6): 661-664 năm
2010, Michelia fulva Chang et B. L. Chen đăng trong Tạp chí Sinh học, 32(2) năm
2010, Michelia flaviflora Y. W. Law & Y. F. Wu đăng trong Tạp chí Khoa học Lâm
nghiệp (4): 1578 năm 2010; Michelia citrata (Noot. & Chalermglin) Q. N. Vu & N.
H. Xia đăng trong Tạp chí Sinh học 33(4): 42-44 năm 2011, Michelia macclurei
Dandy đăng trong Báo cáo Hội nghị Khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên

sinh vật lần thứ 4 năm 2011, cùng nhiều nghiên cứu về hệ thống phân loại họ Ngọc
lan. Đặc biệt là Luận án tiến sĩ của Vũ Quang Nam (2012) đã hệ thống lại họ Ngọc
lan tại Việt Nam, trong đó nghiên cứu và mô tả, có kèm hình vẽ, ảnh chụp, xây
dựng khóa định loại 22 loài thuộc chi Michelia L. [14,15,16,50].
Loài Giổi chanh - Michelia citrata được mô tả lần đầu tiên khi Chalermglin
và Nooteboom (2007) công bố với tên Magnolia citrata Noot. & Chalermglin trên
tạp chí Blumea (Blumea 52: 559) dựa trên mẫu chuẩn thu được từ Thái Lan (Chiang
Mai, Mae Taeng Distr., Mon Angket, 1200 m alt.) mang số hiệu Smitinand 90-269
= BKF 96932 (HT: BKF), lúc này loài được xác định thuộc về phân chi Yulania, tổ
(section) Michelia, phân tổ (subsection) Michelia. Tuy nhiên, theo phân loại truyền
thống cũng như các nghiên cứu hiện đại về nhiễm sắc thể và phân tử đều cho rằng
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 9 K20 Sinh học

nên xem chi Michelia L. là một chi độc lập. Như vậy theo luật Danh pháp Quốc tế
(Art. 23) loài trên được Vũ Quang Nam và Xia Nian-he tổ hợp thành Michelia
citrata (Noot. & Chalermglin) Q. N. Vu & N. H. Xia, đăng trên Tạp chí Sinh học
33(4): 42-44 năm 2011 [15,26,46,50].
Trong quá trình nghiên cứu về phân loại các loài thuộc họ Ngọc lan -
Magnoliaceae của Việt Nam, Vũ Quang Nam đã nhận được tiêu bản TVT 72008
(VNF) thu tại vùng rừng Kon Hà Nừng, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai từ ông Trần
Văn Tiến (FSIV). Sau khi so sánh và đối chiếu với các tiêu bản gốc và tiêu bản đã
định tên tại BKF và IBSC, loài được xác định là loài Michelia citrata. Đây là lần
đầu loài Giổi chanh này được phát hiện tại Việt Nam. Loài này cũng được Vũ
Quang Nam thu lại từ cùng địa điểm trên trong đợt khảo sát thực địa đầu năm 2011
mang số hiệu Nam 210111.3 (IBSC, VNF). Trong chuyến nghiên cứu thực địa
thuộc Đề tài Tây Nguyên 3 (TN3-T10), đoàn nghiên cứu của phòng Thực vật Dân
tộc học, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã phát hiện cá thể loài Michelia

citrata tại thôn Păng Dung, xã Đạ K‟Nàng, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng và
thu mẫu tiêu bản mang số hiệu CTTN 823.
Hiện tại trong lĩnh vực bảo tồn các loài có giá trị bảo tồn thuộc họ Ngọc lan
của Việt Nam, Trung tâm Bảo tồn Thực vật (CPC) thuộc Liên hiệp các Hội khoa
học Việt Nam đã hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế ở trong và ngoài nước thực hiện
nhiều chuyến điều tra nghiên cứu. Tại khu vực rừng thuộc ba xã Cao Mã Pờ - Tả
Ván – Tùng Vài, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, chúng tôi đã bắt gặp và thu được
mẫu loài này. Sau khi so sánh đối chiếu với các mẫu tiêu bản đã định tên và các tài
liệu mô tả về loài, xác định đây chính xác là loài Michelia citrata, đóng góp thêm
dữ liệu về vùng phân bố của loài. Hiện dự án đã thu được một khối lượng hạt và các
dữ liệu khác nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, bảo tồn loài.
Hiện nay tại Việt Nam có 22 loài thuộc chi Michelia L. [50] đã được công
nhận:
1. Michelia x alba Candolle
2. Michelia baillonii (Pierre) Finet & Gagnep.
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 10 K20 Sinh học

3. Michelia balansae (A. DC.) Dandy
4. Michelia braianensis Gagnep.
5. Michelia champaca L.
5.1. Michelia champaca var. champaca
5.2. Michelia champaca (L.) var. pubinervia (Blume) Miquel
6. Michelia chapaensis Dandy
7. Michelia citrata (Noot. & Chalermglin) Q. N. Vu and N. H. Xia
8. Michelia figo (Lour.) Spreng.
9. Michelia flaviflora Y. W. Law & Y. F. Wu
10. Michelia floribunda Finet & Gagnep.

11. Michelia foveolata Merr. ex Dandy
12. Michelia fulva Hung T. Chang & B. L. Chen
13. Michelia tonkinensis A. Chev.
14. Michelia lacei W. W. Smith
15. Michelia macclurei Dandy
16. Michelia mannii King
17. Michelia martinii (H. Léveillé) Finet & Gagnep. ex H. Léveille
18. Michelia masticata Dandy
19. Michelia mediocris Dandy
20. Michelia odora (Chun) Noot. & B.L. Chen
21. Michelia velutina DC.
22. Michelia xianianhei Q. N. Vu

1.3. Tổng quan về bảo tồn
Hiện nay trên thế giới, về vấn đề bảo tồn các loài sinh vật có thể kể đến tổ
chức IUCN (The International Union for Conservation of Nature) – Liên minh quốc
tế về Bảo tồn Thiên nhiên. Đây là tổ chức quốc tế nhằm tìm kiếm những giải pháp
thực tế cho vấn đề môi trường và thách thức phát triển. IUCN được thành lập đầu
tiên dưới sự bảo trợ của UNESCO tại Hội nghị được tổ chức tại Fontainebleau,
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 11 K20 Sinh học

Pháp ngày 05/10/1948, khi đó có 18 chính phủ, 7 tổ chức quốc tế và các tổ chức
Bảo tồn thiên nhiên của 107 quốc gia đã tham gia. Từ năm 1963, IUCN thường
xuyên phát hành Sách đỏ (tên tiếng Anh là IUCN Red List of Threatened Species,
IUCN Red List hay Red Data List), là danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng
của các loài động vật và thực vật trên thế giới, chia thành các cấp: Tuyệt chủng (EX
- Extinct), Tuyệt chủng ngoài thiên nhiên (EW - Extinct in the Wild), Rất nguy cấp

(CR - Critically Endangered), Nguy cấp (EN - Endangered), Sẽ nguy cấp (VU -
Vulnerable), Gần nguy cấp (NT – Near Threatened), Ít lo ngại (LC – Least
Concern), Thiếu dẫn liệu (DD - Data Deficient), Không đánh giá (NE - Not
Evaluated) [58].
Việt Nam trở thành quốc gia thành viên của IUCN vào năm 1993. Dựa trên
các tiêu chuẩn đánh giá tình trạng các loài của IUCN, Chính phủ Việt Nam cũng
công bố Sách đỏ Việt Nam để hướng dẫn, thúc đẩy công tác bảo vệ tài nguyên sinh
vật. Đây cũng là tài liệu khoa học được sử dụng vào việc soạn thảo và ban hành các
quy định, luật pháp của Nhà nước về việc quản lý bảo vệ và phát triển những loài
động thực vật hoang dã quý hiếm ở Việt Nam. Đây là công trình do Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
phối hợp với IUCN thực hiện với sự tài trợ của quỹ SIDA (Thụy Điển). Sách đỏ
Việt Nam được công bố lần đầu tiên năm 1992, phần Động vật với 365 loài trong
danh mục. Phần Thực vật được xuất bản năm 1996 với 356 loài nằm trong danh
mục. Phiên bản mới nhất hiện nay là Sách đỏ Việt Nam 2007, được công bố vào
ngày 26/6/2008, theo đó, hiện nay tại Việt Nam có 882 loài (418 loài động vật và
464 loài thực vật) đang bị đe dọa ngoài tự nhiên. Trong số đó có 8 loài thuộc họ
Ngọc lan nằm ở mức Nguy cấp và Sẽ nguy cấp. Ngoài Sách đỏ Việt Nam 2007,
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam còn ban hành Danh lục đỏ Việt
Nam 2007. Bên cạnh Sách đỏ Việt Nam và Danh lục đỏ Việt Nam, Chính phủ còn
ban hành nhiều bộ luật, thông tư, nghị định về việc quản lý bảo vệ các loài động
thực vật hoang dã quý hiếm, có thể kể đến như: Luật Đa dạng Sinh học năm 2008;
Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 12 K20 Sinh học

nguy cấp, quý hiếm; Danh mục các loài Động, Thực vật hoang dã thuộc quản lý của
Công ước về buôn bán quốc tế các loài Động, Thực vật hoang dã nguy cấp năm

2010; Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về tiêu chí xác định loài và chế
độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ
[4,5,58].
Về tình trạng bảo tồn loài Giổi chanh – Michelia citrata, mặc dù trước đây
được xác định là loài đặc hữu của Thái Lan đến khi phát hiện có ở Việt Nam, loài
này vẫn chưa được đánh giá tình trạng bảo tồn. Xác định được điểm phân bố mới,
đồng thời nhận thấy sự phân bố bị chia cắt mạnh mẽ của loài, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đánh giá tình trạng bảo tồn loài trong luận văn này. Mong rằng kết quả
nghiên cứu này sẽ góp phần bảo vệ và phát triển một loài thực vật có giá trị cho
Việt Nam.

















Luận văn thạc sĩ 2014



Từ Bảo Ngân 13 K20 Sinh học

Chƣơng 2 – ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN SINH KINH TẾ XÃ HỘI
VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐA DẠNG THỰC VẬT TẠI KHU VỰC NGHIÊN CỨU

Khu vực xã Tùng Vài nơi chúng tôi nghiên cứu nằm vào dự án xây dựng khu
bảo tồn Voọc mũi hếch và Ngọc lan thuộc ba xã Cao Mã Pờ - Tả Ván – Tùng Vài
(gọi tắt là Cao Tả Tùng), chương trình hợp tác giữa Tổ chức Động thực vật quốc tế
(FFI), Trung tâm Bảo tồn Thực vật (CPC) và Chi cục kiểm lâm tỉnh Hà Giang đã
được UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt. Trên cơ sở tham khảo các tài liệu của Tổ
chức Động thực vật quốc tế (FFI) và Trung tâm Bảo tồn thực vật (CPC), theo “Báo
cáo nghiên cứu khảo sát thuộc kế hoạch hành động bảo tồn loài Voọc mũi hếch và
Ngọc lan dựa vào địa phương tại vùng rừng ba xã Cao Mã Pờ - Tả Ván – Tùng Vài
(giai đoạn 2011 – 2016)” [8,11], các nhà khoa học đã công bố:
2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Xã Tùng Vài, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, có tọa độ địa lý: 23
0
02'42'' độ
vĩ Bắc, 104
0
52'15'' độ kinh Đông, với độ cao 1040 m trên mặt nước biển, diện tích
toàn xã 74,15 km
2
. Phía Bắc giáp xã Cao Mã Pờ, xã Nghĩa Thuận; phía Đông giáp
xã Thanh Vân, thị trấn Tam Sơn, xã Quyết Tiến; phía Nam giáp xã Minh Tân (Vị
Xuyên), xã Tả Ván; phía Tây giáp Hạt Ma-li-po, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Khu rừng thực hiện nghiên cứu thuộc vùng rừng ba xã Cao Mã Pờ - Tả Ván
– Tùng Vài của huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Nơi đây được xác định là rừng
phòng hộ đầu nguồn theo quyết định số 2104/QĐ-UBND ngày 01 tháng 08 năm

2007 của UBND tỉnh Hà Giang về việc phê duyệt kết quả rà soát lại quy hoạch ba
loại rừng. Vùng rừng này có diện tích 10.211,8 ha với đặc trưng rừng lá rộng
thường xanh và rừng trên núi đá vôi độ cao từ 1000 đến 1700 m trên mặt nước biển.
Diện tích rừng phòng hộ thuộc ba xã Cao Mã Pờ, Tả Ván và Tùng Vài:



Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 14 K20 Sinh học


Diện tích
Cao Mã Pờ
2.020,9 ha
Tả Ván
2.578,7 ha
Tùng Vài
5.612,2 ha
Tổng
10.211,8 ha

Khu rừng phòng hộ này được chính quyền các xã sở tại và hạt kiểm lâm
quản lý. Hạt Kiểm lâm huyện Quản Bạ có trụ sở ở thị trấn Tam Sơn, cách thôn Bản
Thăng (đây là thôn gần rừng nhất) khoảng 30 km, tương đương 1 giờ đi ô tô.
Khoảng cách đến các thôn gần rừng khác xa hơn và di chuyển giữa các thôn này
khá khó khăn, nhiều thôn chỉ có thể đi tới sau 4-5 giờ đi bộ đến các thôn khác. Hạt
kiểm lâm huyện Quản Bạ có 4 cán bộ làm công tác quản lý là Hạt trưởng, Phó Hạt
trưởng phụ trách bảo tồn, cán bộ pháp chế, cán bộ quản lý bảo vệ rừng. Ở mỗi xã có

một cán bộ kiểm lâm địa bàn, chịu trách nhiệm báo cáo cho Hạt Kiểm lâm. Do cả 3
xã nằm ở gần biên giới với Trung Quốc nên có 1 đồn biên phòng (Đồn 193) có trụ
sở ở trung tâm xã Tùng Vài. Đồn biên phòng này có trách nhiệm tuần tra, giữ gìn an
ninh khu vực biên giới.
2.1.2. Địa hình địa thế và đặc điểm khu hệ thực vật
Địa hình chủ yếu ở khu vực này là các đồi và dải đá vôi cổ rộng lớn, rắn như
cẩm thạch, thuộc cuối kỷ Paleozoic và đầu kỷ Mesozoic. Đây là vùng núi với đặc
trưng rừng lá rộng thường xanh và rừng trên núi đá vôi ở độ cao từ 1000 đến 1700
m trên mực nước biển. Khu vực nghiên cứu nằm trên núi Tà Bốc với tọa độ địa lý
23
0
03

18‟‟ độ vĩ Bắc, 104
0
50‟53‟‟ độ kinh Đông, độ cao nơi cắm trại là 1307 m, từ
đó tiến hành nghiên cứu ở các độ cao khác: 1313, 1320, 1357, 1364, 1371, 1389 và
1395 m trên mực nước biển.
Trong khu vực nghiên cứu, còn sót lại một vài mảnh rừng kín nguyên sinh
thường xanh lá rộng nhiệt đới núi thấp trên núi đá vôi ở độ cao từ 1300 – 1400 m ở
các thung lũng, núi thấp, sườn dốc hoặc các đỉnh núi. Dựa vào địa hình hoặc môi
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 15 K20 Sinh học

trường xung quanh, có thể chia thảm thực vật ở đây thành hai loại là: thực vật ở
thung lũng núi đá vôi, và thực vật trên sườn dốc và đỉnh núi đá vôi.
- Thảm thực vật ở thung lũng núi đá vôi: khu vực này địa hình chủ yếu bằng
phẳng trên nền đất sét phù sa. Đất phong hóa từ đá vôi thường sẫm, ẩm và giàu

mùn. Đây là vị trí thấp nhất trong khu vực nghiên cứu, thảm thực vật gốc đã bị phá
hủy gần hết để trồng Thảo quả (Amomum costatum) và Hương thảo (Lysimachia
foenum-graecum) từ rất nhiều năm nay, chỉ có một số cây gỗ to được giữ lại để lấy
bóng râm.
- Thảm thực vật trên sườn núi và trên đỉnh núi đá vôi: mọc trên đất mùn ẩm
ở các hố trên núi đá vôi.
Những loài thuộc họ Ngọc lan phổ biến nhất là Michelia calcicola,
Parakmeria yunnanensis, Manglietia grandis, Manglietia insignis và các loài thuộc
các họ khác như Lauraceae, Fagaceae, Calsalpiniaceae, Fabaceae. Các cây còn lại
trong khu vực này thường có thân thẳng đứng và tán lớn, cao 15 - 30 m. Thảm thực
vật trên đất thấp nằm trên khu vực trồng trọt của thung lũng. Mật độ cây gỗ, cây
bụi, dây leo và thảo mộc của thảm thực vật này phụ thuộc vào độ ẩm và bóng râm.
Ở đây thường gặp các loài cây gỗ thuộc họ Magnoliaceae, Lauraceae, Rosaceae,
Moraceae, Sapotacese, Fagaceae. Cây bụi và thảo mộc thường thuộc các họ như
Euphorbiaceae, Theaceae, Rubiaceae, Zingiberaceae, Cucurbitaceae,
Convolvulaceae, Urticaceae, Hemodoraceae, Aristolochiaceae, Poaceae,
Asteraceae.

2.2. Dân sinh kinh tế và xã hội
2.2.1. Nhân khẩu học
Cao Mã Pờ có 7 thôn bản với 412 hộ gia đình (phỏng vấn của FFI và CPC
vào năm 2010), Tả Ván có 8 thôn bản với 252 hộ gia đình, Tùng Vài có 11 thôn bản
là Tùng Vài Phìn, Bản Thăng, Pao Mả Phìn, Lùng Chu Phìn, Sì Lo Phìn, Lùng Khố,
Tùng Pàng, Suối Vui, Tả Lán, Khố Mỷ, Lao Chải với 734 hộ gia đình (CPC 2008).
Trong đó, có 2 thôn của xã Tùng Vài (Tùng Vài Phìn và Bản Thăng) và 5 thôn của
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 16 K20 Sinh học


hai xã Cao Mã Pờ và Tả Ván tiếp giáp với rừng và nhu cầu về tài nguyên rừng, canh
tác trong rừng chủ yếu từ những người dân ở đây. Vị trí của các thôn này được mô
tả ở Hình 1.


Hình 1. Vị trí của 7 thôn (Vàng Chá Phìn, Vả Thàng 2, Tả Ván, Chúng Trải,
Lò Suối Tủng, Tùng Vài Phìn và Bản Thăng) sống dựa vào rừng
Cao Mã Pờ - Tả Ván - Tùng Vài (Nguồn: FFI)
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 17 K20 Sinh học

Phần lớn dân cư ở các thôn này là đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế
và cơ sở hạ tầng còn hết sức khó khăn. Số liệu nhân khẩu học tổng quát ở các thôn
này được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Số liệu nhân khẩu học tổng quát ở 7 thôn sát rừng (năm 2010)
Xã/Thôn
Số hộ gia
đình
Dân tộc
Số (%) hộ
nghèo
Cao Mã Pờ



- Vàng Chá Phìn
40
Hán

70
- Vả Thàng 2
49
Dao
43
Tùng Vài
734


- Bản Thăng
128
Chủ yếu là dân tộc Tày và Nùng,
một số là người H‟Mông và người
Pú Y, Dáy, Hán, Dao, Kinh
41
- Tùng Vài Phìn
102
H‟Mông
53
Tả Ván



- Tả Ván
62
H‟Mông
51
- Chúng Trải
70
H‟Mông

46
- Lò Suối Tủng
92
H‟Mông, Nùng
67

2.2.2. Sinh kế
Ở huyện Quản Bạ, thu nhập trung bình là 6.000.000 VNĐ/người/năm vào
năm 2010 (Nghị quyết số 09/NQ-HĐND của Hội Đồng Nhân Dân huyện Quản Bạ.
2010). Ở các thôn Bản Thăng và Tùng Vài Phìn của xã Tùng Vài, thu nhập trung
bình hàng năm là 24.350.000 VNĐ/1 hộ gia đình vào năm 2008, cao hơn nhiều thu
nhập trung bình của huyện (khi đó trung bình khoảng 4.000.000 VNĐ/người/năm).
Trong số đó, 7% thu nhập là từ việc bán các lâm sản, phần còn lại từ nông nghiệp
và chăn nuôi với tỉ lệ tương đương. Tuy nhiên, thông tin do Phòng NN&PTNT
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 18 K20 Sinh học

huyện cung cấp và qua phỏng vấn tại xã, thôn lại cho thấy rằng việc canh tác Thảo
quả và Hương thảo là các nguồn thu lớn nhất của người dân tại các xã Tùng Vài,
Cao Mã Pờ, Tả Ván.
Hoạt động sản xuất lương thực chính ở xã là lúa, ngô và đỗ tương. Ở đây chỉ
có duy nhất thôn Bản Thăng có hệ thống nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông
nghiệp, các thôn còn lại đều không có. Ngoài các cây lương thực chính, các hộ gia
đình còn trồng bí, rau cải, đỗ để phục vụ nhu cầu của các hộ gia đình và đót, sắn,
cỏ để phục vụ cho chăn nuôi. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, lợn, gà, vịt. Tuy nhiên,
do khí hậu lạnh nên hàng năm đều có hiện tượng trâu bò chết do nhiễm lạnh và
bệnh dịch. Chăn nuôi lợn, gà, vịt chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa
phương. Cây trồng đem lại nguồn thu nhập chính cho các hộ gia đình nơi đây là

Thảo quả và Hương thảo, ước tính có tới 80% số hộ gia đình có Thảo quả và Hương
thảo.
2.2.3. Hiện trạng sử dụng tài nguyên rừng
Đến nay, tất cả các thôn gần rừng Cao Mã Pờ - Tả Ván - Tùng Vài đều tham
gia vào việc canh tác Thảo quả và Hương thảo dưới tán rừng. Các thôn đang trồng
hai loài này nằm trong khu vực được cho là sinh cảnh chính của Voọc mũi hếch và
Ngọc lan là Tùng Vài Phìn (5 hộ) và Bản Thăng (124 hộ) thuộc xã Tùng Vài, Tả
Ván (50 hộ) và Chúng Trải (70 hộ) và Lò Suối Tủng (20 hộ) ở xã Tả Ván, thôn Vả
Thàng 2 (49 hộ) ở xã Cao Mã Pờ. Những cây trồng này mang lại lợi ích và nguồn
thu nhập quan trọng cho nhiều hộ gia đình. Hiện nay có khoảng 80% tổng số hộ dân
ở xã Tùng Vài canh tác Thảo quả.
Trước đây, Thảo quả là cây chủ đạo được các hộ gia đình trồng dưới tán
rừng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do thu lợi nhanh và dễ trồng nên Hương
thảo đang được trồng xen trong nương Thảo quả hoặc dần thay thế Thảo quả. Sự
chuyển đổi canh tác đang diễn ra dần dần nên hiện tại chưa có thống kê riêng biệt
đối với mỗi loại cây trồng.
Luận văn thạc sĩ 2014


Từ Bảo Ngân 19 K20 Sinh học

Bảng 2 thống kê số hộ gia đình canh tác trong rừng (chủ yếu là canh tác
Thảo quả). Thống kê riêng biệt đối với các loại cây trồng là điều cần thiết (cần đóng
góp từ của các đại diện chính quyền, cơ quan quản lý và cộng đồng địa phương).

Bảng 2. Thống kê sơ bộ các hộ gia đình ở 7 thôn mục tiêu đang canh tác trong rừng
Thôn
Số hộ trồng
Thảo quả
& diện tích

Số hộ trồng
Thảo quả gần
sinh cảnh
VMH
Số hộ trồng
Hƣơng thảo
& diện tích
Số hộ trồng
Hƣơng thảo
gần sinh
cảnh VMH
Cao Mã Pờ




- Vàng Chá Phìn
80% (56 ha)

15-20% (2 ha)

- Vả Thàng 2
49% (145
ha)

8% (14 ha)

Tùng Vài
329ha


120ha

- Bản Thăng
125



- Tùng Vài Phìn
90
5
120ha

Tả Ván
450 ha

2-3 ha

- Tả Ván
50



- Chúng Trải
70



- Lò Suối Tủng
20
15 hộ (canh tác

ở đất Tùng Vài)



2.2.3.1. Canh tác Hương thảo
Hương thảo là một loại thảo dược dưới tán rừng, được thương lái Trung
Quốc đưa vào xã Tùng Vài từ 10 hoặc 12 năm trước và người dân nhanh chóng thấy
rằng nguồn lợi từ nó cao hơn từ Thảo quả. Mặc dù cho giá bán của Hương thảo chỉ
là 100.000 - 120.000 VNĐ/kg, giá của 1 kg Thảo quả là khoảng 150.000 VNĐ -

×