Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

LUYỆN đề ôn THI đại học môn NGỮ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.78 KB, 19 trang )

Ngày soạn: 08/6/2015 Ngày giảng: …………….2015
LUYỆN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN NGỮ VĂN
Tp: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu
ĐẾ 1: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng chiếc thuyền qua truyện "Chiếc
thuyền ngoài xa" của NMC.
I. MỞ BÀI
Đây là một hình tượng xuất hiện nhiều lần xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm, góp phần
thay đổi những nhận thức của nghệ sĩ Phùng về cuộc đời và nghệ thuật. Có thể nói đây là một hình
tượng đa nghĩa, một sáng tạo độc đáo của NMC.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát về t/g, t/phẩm, h/a chiếc thuyền
2. Cảm nhận về h/ảnh chth
Xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm, hình tượng chiếc thuyền ngoài xa vừa mang ý nghĩa
tả thực vừa giàu sức gợi, mang ý ngh biểu tượng sâu sắc.
Trc hết đó là một chiếc thuyền có thật trong cuộc đời - không gian sinh sống của người đàn
bà hàng chài, ở đó ngoài vợ chồng họ còn có một đàn con trên dưới chục đứa. Trong văn học, hình
aảnh chiếc thuyền vốn gợi ý nghĩa về kiếp sống lênh đênh, trôi nổi, vô định. Tuy nhiên, trong tác
phẩm này, h/a ấy không chỉ mang ý ngh đó. Theo mạch diễn biến của cốt truyện, xuất hiện lần đầu
tiên trên biển sớm mờ sương, con thuyền hiện ra từ một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:“Mũi
thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng sữa có pha đôi chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào”;“Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc
mui khum khum (…)toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”, “một vẻ
đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Trg khung cảnh ấy, h/a con th mang vẻ đẹp của một "cảnh đắt trời
cho". Vẻ đẹp đó là sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người, vừa bình dị vừa thân quen nhg cũng
thật nên thơ, lãng mạn. H/a con thuyền ở đây chính là biểu tượng cho vẻ đẹp, một vẻ đẹp của sự
tĩnh tại, bình yên, vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên và của cả cuộc sống. Để có được bức tranh tuyệt
đẹp nghệ sĩ Phùng đã phải phục kích gần cả tuần lễ vì vậy khi bất ngờ gặp gỡ khoảnh khắc này, anh
đã vô cùng xúc động, trái tim trở nên "bối rối" tưởng như có cái gì bóp thắt vào. Thậm chí, anh còn
tưởng như mình vừa khám phá thấy từ vẻ đẹp của con thuyền là sự toàn thiện, toàn mĩ của cuộc
sống, sự trong ngần của chính tâm hồn mình. Như vậy, từ h/a con thuyền ta nhận ra tâm hồn nghệ sĩ


say mê cái đẹp của Phùng cũng là của chính NMC. Và để từ đó ta nhận ra thông điệp mà nhà văn
1
muốn gửi đến người đọc: thông điệp về xứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ chân chính:
"Người nghệ sĩ chân chính là người biết khám phá, phát hiện và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp
nên thơ bình dị để rồi bất tử hoá những vẻ đẹp ấy cho cuộc đời này. Nghệ thuật chân chính phải có
tác dụng thanh lọc tâm hồn con người, cứu vớt thế giới".
Khi con th trên bãi biển đâm thẳng vào bờ, trước mặt Phùng, nghĩa là kốảng cách giữa nó với
Phùng được thu hẹp lại, Phùng phát hiện ra sự thật ẩn đằng sau bức tranh đẹp như mơ kia: bước lên
bờ là một người đàn ông thô bạo dữ dằn, thẳng tay đánh vợ, một người vợ cam chịu, nhẫn nhục
trước trận đòn dã man của chồng, một đứa con vì muốn bảo vệ mẹ nên đã đánh lại bố, một người
mẹ thương con muốn bảo vệ con nhưng bất lực. Nếu ở phát hiện thứ nhất con thuyền là hiện thân
của một thiên nhiên tuyệt đẹp, là biểu tượng cho sự thi vị, lãng mạn của cuộc đời thì ở lần xuất
hiện thứ 2 này con thuyền đã hiện lên với lớp ý ngh ban đầu của nó là không gian sinh sống, là tổ
ấm của gia đình hàng chài, chỉ có điều đó la một gia đình nhiều bi kịch, một tổ ấm thiếu sự hoà
hợp, yêu thương. Nếu khi ở xa con thuyền tuyệt đẹp thì khi lại gần con thuyền phơi bày một hiện
thực tàn khốc, phũ phàng. Thì ra, cái đẹp không phải là đạo đức như Phùng đã nghĩ mà ở đây cái
đẹp chứa đựng trong nó những số phận bất hạnh, những bi kịch ngang trái bất công. Sự đối lập giữa
2 mặt cùng tồn tại trong một chiếc thuyền chính là sự đối lập giữa vẻ bên ngoài và nội dung bên
trong, giữa hiện tượng và bản chất. Từ sự đối lập ấy NMC muốn nói: cuộc sống vốn phong phú,
phức tạp ẩn chứa nhiều nghịch lí. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, không được
chạy theo cái lãng mạn nên thơ mà quên đi cái hiện thực với biết bao xót xa, đau đớn, không được
chạy theo nghệ thuật mà quên lãng cuộc đời.
Theo mạch diễn biến của cốt truyện con thuyền xuất hiện lần thứ 3 trg dông bão. Khi "từng
tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu
ngoài cửa lạch nổi cồn lên, cao như nhg ngọn núi tuyết trắng" Trong phá, nhg tàu thuyền khác
đều tìm vào bờ, chỉ duy nhất chiếc thuyền vó bè là vẫn ở lại, một mình chống chọi với dông bão. Sự
đơn độc ấy cho thấy con thuyền vó bè thật kiên cường nhg cũng thật nho nhoi, đơn độc. Trong
cuộc chiến đấu khốc liệt mà chắc chắn nó thường xuyên phải chống chọi ấy dường như chỉ cần
được tồn tại, được sống đã là hp. Cuộc chiến đấu của con thuyền đơn độc ấy phải chăng cũng
chính là cuộc chiến đấu của gia đình người đàn bà hàng chài? Chỉ có điều con thuyền chỉ phải

chống chọi với dông bão đến từ bên ngoài còn gia đình người đàn bà bất hạnh ấy, ngoài việc phải
chống chọi với thứ dông bão do thnh khắc nghiệt gây ra còn phải đương đầu với một thứ dông bão
khác, nghiệt ngã bội phần, đó là thứ dông bão nổi lên trg lòng thuyền, từ chính cuộc sống của họ.
H/a con thuyền ở đây vì vậy gợi liên tưởng suy ngẫm đến hiện thực đói nghèo, ẩn chứa nhiều bất
trắc, bi kịch trong số phận con người thời hậu chiến. Nói cách khác, nó thể hiện những dự cảm,
những nỗi lo của nhà văn về số phận con người, những số phận lênh đênh, nổi trôi vừa bước ra khỏi
cuộc chiến tranh chống xâm lược tàn khốc đã phải đối mặt ngay với dốt nát đói nghèo. Trong cuộc
chiến ấy, những số phận ấy hoàn toàn đơn độc, liệu họ có vượt qua, có chiến thắng?
2
Lần thứ 4, chiếc thuyền xuất hiện qua tấm ảnh và trong cảm nhận của người nghệ sĩ. Câu
chuyện kết thúc bằng cảm nhận của nghệ sĩ Phùng về tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy.
Tấm ảnh đã vượt qua số phận ngắn ngủi của một tấm ảnh lịch tết để sống cuộc đời của một tác
phẩm nghệ thuật. Trong tấm ảnh ấy chiếc thuyền là biểu tượng cho nghệ thuật, cho cái đẹp mà
con người, cuộc sống luôn khao khát vươn tới. Con thuyền ở đây đồng thời cũng chính là thành quả
lao động, thành quả xứng đáng cho những nỗ lực phấn đấu, hy sinh của người nghệ sĩ trong lao
động sáng tạo của mình. Tuy vậy, điều đặc biệt trong tấm ảnh này còn ở chỗ, mỗi lần nhìn kĩ, nhìn
lâu vào tấm ảnh đen trắng chụp ảnh tĩnh vật ấy Phùng đều thấy màu hồng hồng của ánh sương mai,
lại thấy hình ảnh người đàn bà bước ra, lưng áo bạc phếch, lam lũ cực nhọc "bước chậm rãi, bàn
chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông"… Cảm nhận này của Phùng khẳng
định, hiện thực cuộc đời một khi đã chạm được đến nơi sâu nhất trong trái tim của người nghệ sĩ sẽ
không chịu ở yên dù chỉ là trong một tấm ảnh. Giống như trươc đây Phùng đã từng cầm súng để
bảo vệ mảnh đất này, bây giờ Phùng vẫn đang tiếp tục chiến đấu bảo vệ cho lẽ công bằng, cho sự
bình yên của tâm hồn, của cuộc sống.
Hiện thực cuộc đời làm cho trái tim người nghệ sĩ rung động, nó trở thành sự ám ảnh, day
dứt, dằn vặt để đi tìm câu trả lời. H/a con thuyền và h/a người đàn bà hàng chài trong tấm ảnh bởi
vậy chính là sự hoà hợp, gắn bó mật thiết với nhau: giữa thnh và cuộc sống, giữa nghệ thuật và
cuộc đời, giữa vẻ bề ngoài và bản chất bên trong. Sự hài hoà ấy là biểu tượng của chân lí: bộc lộ sự
vỡ lẽ về nhận thức của người nghệ sĩ trong hành trình khám phá stạo để đi tìm "nhg hạt ngọc còn
ẩn dấu bên trong tâm hồn con người". Như vậy, có thể nói, h/a của con thuyền ở đây chính là hiện
thân của bức thông điệp tinh thần mà NMC muốn gửi tới người đọc: phải nhìn nhận sự sự việc, con

người, cđ…trg sự thống nhất của cả 2 mặt hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất, tốt và
xấu, thiện và ác, cao cả và thấp hèn… Với một người nghsĩ muốn làm được điều đó trước hết cần
có một cự li nhìn ngắm phù hợp, trải qua một hành trình tìm kiếm mới có thể khám phá ra vẻ đẹp
còn ẩn giấu trong cuộc đời này. Phải biết cách hành động để làm cuộc đời đẹp hơn, trước khi biết
phát hiện và ca ngợi cái đẹp. Nói cách kh, trc khi là một nghsĩ chân chính hãy là một con người
chchính.
* Đánh giá: (tự tìm hiểu)
III. KẾT BÀI
ĐỀ2: Tình huống truyện trong tp "CTNX" của NMC.
I. Giới thiệu chung
1. Nhà văn NMC
3
Nói về NMC nhvăn Nguyên Ngọc viết: "NMC thuộc trong số nhg nhvăn mở đường tinh anh
và tài năng nhất của văn học ta hiện nay". Sự tinh anh và tài năng ấy của NMC thể hiện rõ qua
qtrình đổi mới trg tư duy stác của chính nhv.
Trong VHVN trc 1975, do hoàn cảnh chtranh nên thước đo giá trị của con ng là ở sự cống
hiến, hi sinh cho c/m. Các tiêu ch đạo đức đc thể hiện chủ yếu ở trg mqh giữa đồng bào, đồng chí
và kẻ thù xâm lược. Sau 1975, văn ch trở lại với đời thường, các cây bút bắt đầu đi sâu khám phá sự
thật đời sống ở bình diện đạo đức-thế sự để qua đó phát hiện ra nhg mqh xh phức tạp nhg uẩn khúc
tâm lí, nhg bi kịch cá nhân ít nhiều đáp ứng đc sự nhìn nhận và hoàn thiện nhân cách con người.
Tác phẩm của NMC ở 2 giai đoạn trước và sau 1975 là một sự thể hiện đầy đủ xuất sắc nhg
nét đặc trưng cơ bản ấy. Ở giai đoạn sáng tác sau 1975, "CTNX" chính là tác phẩm xuất sắc của
NMC góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tư tưởng của tác giả và tài năng của ông.
2. Giải thích khái niệm
* Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan
hệ đời sống.
Tình huống trong "CTNX" là tình huống nhận thức
(Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn:
+ Tình huống hành động. Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình thế
(thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động.

+ Tình huống tâm trạng. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi vào một tình thế
làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm
+

Tình huống nhận thức. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật được đẩy tới một
tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề (về nhân sinh, về nghệ
thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ.)
II. Ptích từng biểu hiện
1. Tên gọi: Tình huống khám phá nhg nghịch lí để đi đến nhận thức
2. Tóm tắt diễn biến của tình huống
Để có đc tấm ảnh chụp thuyền và biển bổ sung vào bộ lịch của năm theo yêu cầu của trưởng
phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung, nơi từng là chiến trường cũ của anh và
bây giờ một người bạn chiến đấu của anh cũng đang làm chánh án ở đó. Thật bất ngờ, tại nơi ấy
Phùng đã lần lượt phát hiện, khám phá ra biết bao nghịch lí, những nghịch lí đã giúp P nhận thức ra
nhg điều hết sức quan trọng trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật.
a. Nghịch lí thứ nhất: tại bờ biển
- Phát hiện thứ nhất:
Sau mấy ngày phục kích nhg chưa tìm được bức ảnh ưng ý và thật bất ngờ vào buổi sáng hôm
ấy P đã bắt gặp “một cảnh đắt trời cho mà suốt đời cầm máy chưa bao giờ nhìn thấy": trc mặt tôi là
4
“một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”;“Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào
bầu sương mù màu trắng sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”;“Vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt
vào bờ”. Tất cả khung cảnh đều được nhìn qua những cái mắt lưới (…)“toàn bộ khung cảnh từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”, “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
Đứng trước bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp đó Phùng “bối rối”, cảm thấy “trong trái tim như
có cái gì bóp thắt vào” tưởng như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn…”, “phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Phùng rất hạnh phúc và đó là niềm hạnh phúc chân chính của người nghệ sĩ đích thực trong giây
phút thăng hoa của lao động sáng tạo. Ngay lập tức Phùng đã "bấm liên thanh một hồi hết 1/4 cuốn

phim".
- Phát hiện thứ hai:
Thế nhưng, ngay khi đang ở trên đỉnh cao của niềm hạnh phúc sáng tạo, cũng là lúc Phùng
phát hiện ra nghịch lí đầu tiên: con thuyền từ từ tiến vào bờ, khoảng cách giữa nó và Phùng dần thu
hẹp lại, khi Phùng có thể nhìn rõ nó cũng là lúc một cảnh tượng trớ trêu bày ra trc mắt: bước ra từ
"chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ" là một người đàn bà: khắc khổ, xấu xí, mệt mỏi và chỉ biết
“cam chịu đầy nhẫn nhục”, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, họ cùng bước lên bãi cát
đến bên bãi xe tăng hỏng. Người đàn ông rút dây lưng vừa quật tới tấp vào người đàn bà vừa rên rỉ,
chửi rủa. Người đàn bà không hề chống trả, không bỏ chạy, không kêu khóc, chỉ nhẫn nhục chịu
đựng.
Chứng kiến cảnh ấy P "chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt: “kinh
ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Vốn là một người lính,
Phùng không thể chấp nhận cảnh tượng ấy, vì vậy, ngay lập tức anh đã vứt máy ảnh xuống đất định
chạy lại để can thiệp. Thế nhưng thật bất ngờ, còn nhanh hơn cả anh, một thằng bé lao về phía
người đàn ông, giật lấy dây lưng và đánh trả. Nếu chỉ một khoảnh khắc trước đó Phùng còn vô
cùng hạnh phúc thì đến bây giờ Phùng sững sờ chết lặng, không nói được một lời nào. Lần thứ 2
gặp lại cảnh tượng ấy, kợong thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác, bất chấp nguy hiểm, Phùng
đã xông vào can ngăn và kết quả là bị người đàn ông đánh phải nhập viện.
* Ý nghĩa của nghịch lí thứ nhất: Nghịch lí trong 2 phát hiện này chính là sự đối lập giữa cảnh
đẹp của thnh và cuộc sống của con người, giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trg, giữa lãng
mạn thi vị và thực tế trần trụi. Nhận thức sự đối lập ấy chính là những chiêm nghiệm đầu tiên của
người nghệ sĩ trên hành trình khám phá và sáng tạo ra cái đẹp. Với sự đối lập ấy đã khiến ta cay
đắng nhận ra rằng chính những ngang trái xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là
một thứ thuốc rửa quái đản khiến những bức ảnh tuyệt đẹp mà anh phải dày công mới có được và
vô cùng sung sướng khi có được bỗng hiện nguyên hình với bản chất vốn có của mình: khủng
khiếp, kinh rợn! Vẻ đẹp kia hoá ra đâu phải là tận thiện, tận mĩ! Nó chỉ là thứ vỏ bọc che giấu bản
5
chất tàn nhẫn, đen tối bên trong. Nghịch lí đầu tiên trg qúa trình khám phá, phát hiện của Phùng
giúp ta nhận ra Phùng không chỉ là một nghsĩ có trái tim nhạy cảm biết rung động trước cái đẹp mà
Phùng còn là m chiến sĩ có trái tim biết xúc động trước những ngang trái bất công và sẵn sàng hành

động. Nếu ở phát hiện thứ nhất ta nhận ra sức mạnh kì diệu của cái đẹp, "cái đẹp có khả năng thanh
lọc con người", "cái đẹp cứu vớt thế giới" thì ở phát hiện thứ 2 ta nhận ra giá trị của cái xấu trong
đời sống: "cái xấu, cái ác thức tỉnh lương tri con người, giúp con người tự soi ngắm lại mình để
nhận ra chân giá trị".
b. Nghịch lí số 2: phát hiện tại toà ấn, qua câu chuyện của người đàn bà
Câu chuyện không dừng lại ở đó. Nghịch lí thứ nhất cũng là cơ sở để Phùng khám phá, phát
hiện ra nghịch lí thứ 2 qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại toà án huyện. Một ông chánh
án, người đại diện cho lẽ công bằng của cuộc đời, một ông nghệ sĩ người sáng tạo ra cái đẹp để
ngợi ca cuộc đời và một người đàn bà , nạn nhân cùng cực của cđ đã ngồi lại với nhau trong phòng
xử án với tình thương, sự cảm thông và cả nỗi bất bình của một người đại diện cho luật pháp, lẽ
công bằng. Chánh án Đẩu đã khuyên người đàn bà: "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng. Cả nước kh có một người chống nào như hắn (…). Chị không sống nổi với lão đàn ông vũ
phu ấy đâu!" Trong thâm tâm P cũng đồng ý với cách giải quyết của Đẩu. Thế nhg, thật bất ngờ,
người đàn bà khốn khổ ấy một mực từ chối sự giúp đỡ, kiên quyết không chịu bỏ ông chồng vũ
phu, tàn bạo. Chị từ chối bằng những lí lẽ mà nếu một nghsĩ chỉ biết vác máy ảnh đi chụp cảnh đẹp,
một ông chánh án nếu chỉ biết ngồi trong phòng ngập giữa đống Hồ sơ, giấy tờ thì sẽ không bao giờ
hiểu được. Với người đàn bà ấy, dù ông chồng ấy có vũ phu, tàn bạo vẫn vô cùng qtrọng.
Nguyên nhân
k thể bỏ chồng:
- chồng: + biết ơn;
+ hiểu đc bản chất của chg
- con: + chỉ cần con đc ăn no;
+ chỉ cần nuôi con
- mình: bằng lòng với csg
Chị không thể bỏ chồng vì bên cạnh sự cảm thông thấu hiểu của tình nghĩa vợ chồng mà ở
chị còn có sự hàm ơn với chồng chị; không thể bỏ chồng vì chị cần chồng để nuôi đàn con để cùng
chèo chống những ngày thuyền gặp sóng gió, khi biển động; đàn bà hàng chài phải sống vì con chứ
không phải vì mình. Chị không thể bỏ chồng vì trong đau khổ triền miên chị vẫn chắt lọc, nâng niu
nhg niềm hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường: "ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chg con cái chtôi
sống hoà thuận, vui vẻ…", "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đc ăn no". Thì ra đây là

nguồn gốc của sự cam chịu, nhẫn nhục tưởng chừng như vô lí kia. Câu chuyện của người đàn bà đã
khiến đẩu và Phùng vỡ lẽ ra nhiều điều. Ẩn đằng sau ngoại hình xấu xí, quê mùa, thất học là lấp
lánh tấm lòng của người mẹ, người vợ, là sự thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Nếu ở phần đầu câu chuyện
giọng Đẩu thật dứt khoát tỏ rõ uy thế của một đấng bề trên đang cúi xuống cứu vớt những người
6
đàn bà khốn khổ thì khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà cả Đẩu và Phùng đều im lặng
nhưng "Một cái gì vừa vỡ ra trong đầu".
c. Nghịch lí thứ 3
Câu chuyện kết thúc bằng tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, đó là một tấm ảnh đã
vượt qua số phận ngắn ngủi của một tấm ảnh lịch tết để trở thành một tác phẩm nghệ thuật mà
nhiều năm sau này nó vẫn được treo ở nhg phòng khách sang trọng của những người sành nghệ
thuật. Điều kì lạ ở chỗ, đây là một tấm ảnh đen trắng thế nhưng mỗi lần nhìn kĩ Phùng lại thấy " cái
màu hồng hồng của ánh sương mai". Là một tấm ảnh chụp cảnh tĩnh vật nhg mỗi lần nhìn lâu P lại
thấy h/ảnh người đàn bà hàng chài bước ra.
3.3. Đánh giá về ý nghĩa của tình huống
"Mỗi tp vh là một phát minh về hình thức và là một khám phá về nội dung" (Lêolit Lêolốp).
Tình huống truyện trg "CTNX" k chỉ là một k phá stạo của NMC so với các nhvăn khác mà còn là
m sự stạo ntrong qtrình stác cảu nh văn với PCNT: "đi tìm nhg hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con
người". Trc 1975, người đọc đã từng say mê bởi mối tình l.m tuyệt đẹp giữa Nguyệt và Lãm trng
"MTCR". Hành tr đi tìm cái đẹp của nhvăn trg tp này là htrình đi từ cái thực đến cái ảo để cuối
cùng cái đẹp hiên lên rạng rỡ. Đó là "cái đẹp đc bao bọc trg m bầu k khí vô trùng". Còn trong
CTNX, hành tr đi tìm cái đẹp của người nghsĩ thì ngược lại: từ ảo đến thực, từ một vẻ đẹp toàn
bích đến một hiện thực nghiệt ngã nhg trg hiện th nghiệt ngã ấy một "hạt ngọc" đã đc tìm thấy, đó
là hạt ngọc bắt nguồn từ csg bộn bề- hạt ngọc tâm hồn- hạt ngọc của lòng bao dung nhân hậu của
sức chịu đựng, hi sinh. Qua tình huống truyện trong CTNX, NMC muốn gửi đến người đọc nhg
thông điệp:
(1). Bản chất của cđ và cách nhìn nhận, đánh giá gtrị của cđ: Giống như 2 mặt của một tờ giấy, 2
cực của thanh Nam châm. Cđ kh hề đơn giản, xuôi chiều mà luôn chứa đựng nhg nghịch lí, luôn
tồn tại nhg mặt đối lập, hiện tượng- bản chất, tốt-xấu, cao cả- thấp hèn,…bởi vậy khi đánh giá mọi
sự việc, mọi hiện tg, hay con người, xh phải luôn luôn tỉnh táo, có cái nhìn đa chiều, cân bằng giữa

hiện tươg và bản chất.
(2). Thông điệp về mqh giữa nght và cđ. Giống như cánh diều dù bay cao bay xa đến đâu cũng
phải nối liền với mặt đất bằng m sợi dây. Nght chỉ là nght chân chính khi nó xuất phát từ cđ và
quay lai phục vụ cđ. Ngh ngsĩ chỉ có thể là người nghsĩ chân chính khi anh ta là một CON NGƯỜI
trước khi là một nghsĩ, nghĩa là phải biết yêu ghét, vui buồn với nỗi niềm của con người, biết đấu tr
cho csg tôt đẹp hơn trc khi biết rung động trc cái đẹp, ngợi ca cái đẹp.
Nhg thông điệp này vừa thể hiện sự vận động trg tư duy nght của NMC vừ đánh dấu sự
chuyển mình của thời kì văn học mới.
7
Đề3: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
I. Mở bài
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của Nguyễn Minh Châu,
được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng
chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, từng trải với tình yêu thương, đức hi sinh và lòng
vị tha cao cả.
II. Thân bài
1. Khái quát
a. HCST:Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh
Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác
thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều
mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập
"Bến quê" (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
b. Giới thiệu chung về nhân vật: Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm
điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của
Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở toà án
huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ
không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.
2. Phân tích đặc điểm chung của hình tượng
2.1. Số phận: khốn khổ, đáng thương, cđ chịu nh bất hạnh.

- Ngoại hình: xấu xí
- Cuộc sống:
+ vật chất: khó k, thiếu thốn
+ tinh thần: > thể xác bị đáh đập
> tâm hồn
k bvệ đc con (…)
mặc cảm vì m có lỗi (đẻ nhiều),…
nỗi sợ (gđ tan vỡ),
Trong "Chiếc thuyền ngoài xa", hình tượng người đàn bà hàng chài là một hình tượng ám
ảnh, góp phần thể hiện tập trung tư tưởng chủ đề của tác phẩm cũng như triết lí suy tư của nhà văn
về con người, cđ và nght.
Mở đầu tp, ngay khi vừa mới xuất hiện, tác giả đã miêu tả người đàn bà với những chi tiết
đầy ám ảnh: "trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với
những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái
8
ngắt”, tấm lưng áo bạc phếch, ránh rưới Chị không có tên, tác giả gọi một cách phiếm định: khi
thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta Chừng ấy chtiết đủ để nói lên
một cuộc đời đầy sóng gió, chìm nổi trong đói nghèo cực nhọc và hé lộ phần nào tâm lí chán
chường, mệt mỏi trước cuộc sống nhiều khổ đau.
Thuộc hệ thống hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của NMC nhưng nhân vật này thật
khác biệt. Nếu Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" có vẻ đẹp lí tưởng, toàn thiện thì người đàn bà
hàng chài trong tác phẩm này ngược lại: chị có ngoại hình rất xấu. Sự khác nhau ở 2 nhân vật này
cho thấy sự thay đổi trong cảm hứng nghệ thuật của NMC. Trước 1975, ngòi bút của NMC thiên về
ngợi ca vẻ đẹp lí tưởng, ngợi ca chủ nghiã anh hùng của tuổi trẻ VN trong chiến tranh còn bây giờ,
nhà văn lại hướng ngòi bút của mình vào sự thật trần trụi của cuộc đời, vào chính nhg góc khuất trg
số phận con người thời hậu chiến.
Chính sự thiệt thòi về dung nhan đã khiến chị vốn là con gái một gia đình khá giả ở phố trở
thành vợ anh hàng chài. Thuyền chật, con đông, việc kiếm sống trên sông nước luôn phải phụ thuộc
vào thiên nhiên, luôn phải đối mặt với bất trắc vì vậy cuộc sống của họ vô cùng đói khổ, thậm chí
cả tháng giời gia đình họ chỉ ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Tuy vậy, nỗi bất hạnh lớn nhất

của chị là thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ tàn nhẫn. Hành động đánh vợ của lão đàn ông
vũ phu ấy khiến chúng ta rùng mình kinh sợ: mặt đỏ gay, thở hồng hộc, vừa dùng thắt lưng quật tới
tấp vào người vợ vừa nghiến răng nguyền rủa. Cứ thế đều đặn, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
một trận nặng”. Cảnh bạo lực trong gia đình không phải đến "Chiếc thuyền ngoài xa " chúng ta
mới gặp nhưng có thể nói phải đến truyện ngắn này chúng ta mới thực sự thấm thía nỗi đau tận
cùng của bi kịch ấy. Nếu Mị trg "Vợ chồng A Phủ" chấp nhân việc bi A Sử đánh đập một cách thản
nhiên là bởi vì Mị đã nguội lạnh, tâm hồn như đã chết- đó là sự chấp nhận trong trạng thái hoàn
toàn bị tê liệt về ý thức thì ở đây người đàn bà hàng chài chấp nhận việc chồng thường xuyên đánh
đập là bởi sự nhẫn nhục, cam chịu. Chị chấp nhận đòn roi coi như đó là môt phần cuộc sống của
mình. Nói cách khác, đó là sự chấp nhận có ý thức.
Không chỉ bị hành hạ bởi nỗi đau thể xác, người đàn bà còn bị dày vò bởi nỗi đau tinh thần.
Chị đau đớn khi để con cái phải chứng kiến bi kịch gia đình của bố mẹ. Khi con lớn, chị xin chồng
được đưa lên bờ đánh bởi niềm mong muốn những đứa con thơ dại không phải chứng kiến những
cảnh tượng đau lòng kia. Đây là cách ứng xử giàu nhân văn, nhân bản.
Bị chồng đánh chị không hề khóc nhưng khi thấy thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ thì
chị đã khóc, "ôm chầm lấy con vái lấy vái để". Chị đau đớn bởi chị đang phải chứn kiến thằng Phác
bắt đầu có những dấu hiện vũ phu giống như bố nó. Giọt nước mắt và cái vái lạy của chị có thể hiểu
là lời van xin đứa con đừng thù ghét cha mình, đừng vũ phu tàn nhẫn như cha mình. Đó cũng có thể
là lời xin lỗi của người mẹ bởi làm mẹ mà không che chở, bảo vệ được cho con, thấy con đang dần
tha hoá, chìm sâu vào bạo lực mà mẹ đành bất lực. Bên cạnh nỗi đau không thể bảo vệ được con,
9
người đàn bà ấy còn đau đớn về mặc cảm chính mình đã đẩy chồng con vào cảnh nghèo đói: "giá
tôi đẻ ít đi", "cái lỗi là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà th lại chật".
Đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần nhưng người đàn bà vẫn phải mang thêm một nỗi lo sợ
khác: sợ gia đình đổ vỡ. Chính vì nỗi lo sợ ấy mà chị đã bằng mọi giá giữ gìn sự yên ổn cho gia
đình mình: chấp nhận chồng đánh, chấp nhận cầu khẩn van xin quý toà để "đừng bắt con bỏ nó"!
Như vậy, có thể thấy, từ ngoại hình đến hành động, người đàn bà hàng chài chính là hiện
thân của nỗi thống khổ, bất hạnh. Thân phận ấy của chị gợi lên trong ta những dư vị xót xa về số
phận con người, đặc bệt là số phận người phụ nữ, về nỗi lo âu trứơc sự dốt nát đói nghèo, trước bạo
lực gia đình, một trong những nguyên nhân gây ra bi kịch cá nh.

2.2. Vẻ đẹp của phẩm chất, tính cách
- Lòng vị tha nhân hậu
- Tình ythg dành cho các con
- Từng trải, khôn ngoan, sắc sảo
Tuy nhiên, điều để lại ấn tượng sâu sắc nhất ộnng lòng độc giả, và nguyên cớ sâu xa tác
động mạnh mẽ tới nhận thức của 2 người đàn ông- chánh án Đẩu và nghệ sĩ P không phải là ở số
phận đau khổ bất hạnh mà ở những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ, đáng trân trọng của người phụ nữ
này.
Trứơc hết, ẩn bên trong ngoại hình xấu xí thô kệch, ẩn đằng sau nhg hành đông cam chịu
nhẫn nhục tưởng vô lí kia là một sức chịu đựng phi thg, một trái tim vị tha nhân hậu. Bị chồng đánh
đập hành hạ rất thô bạo thế nhg chị không hề oán trách, không hề kết tội chồng mà vẫn đầy sự thấu
hiểu cảm thông. Chị hiểu nguyên nhân đã biến một người con trai cục tính nhưng hiền lành, không
bao giờ đánh vợ trở thành một gã đàn ông vũ phu tàn bạo là do hoàn cảnh. Đó là việc trốn lính, việc
vợ đẻ nhiều, cuộc sống ngày càng trở nên túng quẫn, tất cả đã khiến ông ta thay đổi tính nết. Chị
còn hiểu ông ta đánh vợ chỉ là cách để xả những uất ức trg lòng mà thôi: "bất kể lúc nào thấy khổ
quá là lão xách tôi ra đánh".
Như vậy, khác hoàn toàn với cách nhìn nhận của nhg người còn lại trong câu chuyện, trong
con mắt của chị, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh. Ông ta đáng giận nhưng
cũng đáng thương, đáng được cảm thông. Chịu đựng những trận đòn của chồng bởi vậy cũng chính
là cách chị giúp chồng trút bớt ghánh nặng đau khổ trong lòng. Đằng sau những hành động nhẫn
nhục tưởng vô lí của chị ta nhận ra tấm lòng của một người vợ nhân hậu bao dung.
Đẹp nhất trong tâm hồn người phụ nữ này phải kể đến tình mẫu tử, tình thương con vô bờ,
đức hy sinh cao cả-tấm lòng của một người mẹ.
Đối với cách nhìn nhận sự việc thông thường, chánh án Đẩu đã giải quyết vụ việc bằng cách
khuyên người đàn bà nên li hôn: "tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão
10
đàn ông vũ phu ấy đâu!", "Cả nước không có m người chồng nào như hắn". Nhưng thật bất ngờ,
trái ngược với dự tính của cả Đẩu và Phùng, chị một mực từ chối, cầu xin để không phải bỏ chồng.
Trong rất nhiều lí do đưa ra, lí do cảm động nhất là vì đàn con. Chị không thể bỏ chồng dù bị chồng
hành hạ một cách tàn bạo bởi chị cần ông ta để chèo chống làm ăn nuôi đàn con trên dưới chục đứa.

Lẽ sống của chị thật đáng khâm phục: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con
cho đến khi khôn lớn', "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho
mình". Trong cuộc đời dằng dặc đau khổ, niềm vui lớn nhất với chị là được ngồi nhìn đàn con ăn
no. Có thể thấy, chị đã đặt cuộc sống, niềm vui, hp của các con lên trên cả cđ của mình.
Và cũng chỉ vì thương con, sẵn sàng hy sinh cho con nên chị tìm mọi cách để che giấu nỗi
đau của bản thân, không muốn các con phải chứng kiến bi kịch của mình. Xin chồng đưa mình lên
bờ để đánh, gửi thằng Phác lên rừng nhờ ông ngoại nuôi, đó là cách ứng xử giàu gía trị nhân văn
không chỉ có ở một người vợ. Ở người phụ nữ này đẹp hơn còn là tấm lòng của một người mẹ, bên
cạnh tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh cao cả, người đàn bà hàng chài còn để lại ấn tượng
sâu sắc bởi sự khôn ngoan, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời.
Từ những điều Phùng tận mắt chứng kiến ngoài bãi biển cho đến tư thế, cách nói năng
khúm núm sợ sệt tại toà án, ấn tượng của chúng ta về chị là sự yếu ớt, nhẫn nhục một cách ngờ
nghệch thậm chí là nhu nhược nhưng thật bất ngờ, ẩn đằng sau cái vẻ ngờ nghệch ấy là một sự từng
trải, sắc sảo khôn ngoan.
Sự sắc sảo khôn ngoan ấy bộc lộ trước tiên là ở cách xưng hô, điệu bộ. Trước sự cương
quyết của Đẩu về giải pháp li hôn, chị đã làm một cuộc hoán đổi ngoạn mục từ "Con lạy quý toà"
đến "Chị cảm ơn các chú". Đó là sự hoán đổi giữa ngây thơ, non nớt, và già dặn trải đời giữa lí
thuyết suông và thực tế trần trụi. Sự thay đổi về cách xưng hô đã kéo theo sự thay đổi về vị thế giữa
các nhân vật.
Tuy vậy, sự sắc sảo của chị thể hiện đậm nét nhất ở những suy nghĩ. Trong câu chuyện mà
chị đã rất chân thành tâm sự với Đẩu và Phùng khác hoàn toàn với cách nhìn nhận sự việc của 2
người đàn ông này. Chị, một người phụ nữ quê mùa thất học đã cứâp nhận bi kịch cuộc đời mình
thật tỉnh táo khôn ngoan, hợp lí hợp tình bởi trong mối quan hệ với chồng chị đã nhìn chồng bằng
con mắt đầy cảm thông, thấu hiểu. Không trách móc, không kết tội, thậm chí còn tự nhận lỗi về
mình.
Trong mối quan hệ với đàn con, chị đặt lên trên tất cả là bổn phận, trách nhiệm, tình yêu
thương của người mẹ.
Trong mối quan hệ với chính mình, ít nhất chị cũng thấy thoả mãn, tự bằng lòng với những
niềm vui, niềm hạnh phúc bình dị, nhỏ nhoi, thiêng liêng mà chị luôn biết nâng niu, chắt lọc: "Trên
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái được hoà thuận, vui vẻ".

11
Trước khi nghe những lời tâm sự của người đàn bà, Đẩu, Phùng và cả chúng ta nữa đều
ngạc nhiên, khó hiểu trước sự cam chịu nhẫn nhục vô lí của chị. Tuy nhiên, câu chuyện của chị, câu
chuyện của một người đàn bà quê mùa, ít học đã ít nhiều mang đến cách nhìn nhận mới: "Phải, bây
giờ thì tôi đã hiểu"- câu nói ấy của Đẩu chứng tỏ không phải Đẩu đang giúp người đàn bà kia mà
chính chị đã giúp Đẩu, Phùng và cả chúng ta nữa hiểu hơn về cuộc đời, về con người.
Như vậy, không chỉ tái hiện ở vẻ nhếch nhác, lam lũ, số phận cay đắng, đau khổ, ngòi bút
của NMC còn đi sâu khám phá, phát hiện nâng niu những phẩm chất, tâm hồn vô cùng đẹp đẽ ở
người phụ nữ này. Những phẩm chất ấy ở chị gợi cho ta niềm xúc động, cảm phục lớn lao, một
niềm tin mãnh liệt vào cuộc đời, vào con người: dù sống trong hoàn cảnh đầy khổ đau thì người
phụ nữ, nói rộng ra là người lao động VN bao đời nay vẫn dũng cảm vượt qua, vẫn không để mất đi
những phẩm chất, những đức tính cao đẹp của mình.
2.3. Nght xd nhvật người đàn bà hàng chài
- Đặt nhvật trg nhg tình huống éo le để nhvật có thể bộc lộ số phậncũng như vẻ đẹp tính
cách.
- Mtả nhvật từ nhiều điểm nhìn, soi chiếu nhvật từ nhiều mqh: vợ chồng, mẹ con, xã hội,
- Lựac chọn, xây dựng đươc nhg chtiết nght đặc sắc:
- Kh đặt tên cho nhv, nght điển hình hoá,
2.4. Ý nghĩa của hình tg nhvật
a. Gtrị tp
- Hiện thực: + Hthực
+ Nhđạo
b. Qđ nght của NMC
Không phải ngẫu nhiên khi t/g mtả cảnh bạo hành trong gia đình người đàn bà hàng chài
bao giờ cũng diễn ra bên chiếc xe tăng hỏng, tàn tích của cuộc chiến tranh xâm lược để lại. Cảnh
tượng ấy thực sự là một cuộc đối chứng âm thầm mà quyết liệt giữa 2 thứ bạo lực: bạo lực thời
chiến và bạo lực thời bình- một đã bị tiêu diệt, một vẫn đang hoành hành. Bạo lực thời chiến khủng
khiếp là thế nhưng đã bị đánh gục còn bạo lực thời bình hoá ra dai dẳng và đáng sợ hơn nhiều bởi
bạo lực thời chiến diễn ra từ phía địch còn bạo lực thời bình nằm ngay trong ta. Bạo lực thời chiến
tiêu diệt con người còn bạo lực thời bình lại hủy diệt thứ khác khó thấy hơn đó là chất Người, phẩm

giá Người! Cuộc chiến chống bạo lực thời bình bởi vậy còn khốc liệt hơn những cuộc chiến chống
kẻ thù xâm lược. Hình tượng người đàn bà hàng chài trong cuộc chiến khốc liệt ấy chính là hiện
thân cho số phận và phẩm chất của con người VN thời hậu chiến. Từ hình tượng người đàn bà hàng
chài tác giả đã phản ánh được bức tranh hiện thực rộng lớn của đất nước ta trong những năm vừa
12
bước ra khỏi cuộc chiến tranh, đối mặt với lạc hậu, đói nghèo, với nữnhg cuộc chiến để mưa sinh,
để giữ gìn phẩm giá.
Hình tượng người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tấm ảnh: "Mụ bước những bước ( )
chắc chắn, hoà lẫn vào đám đông". Có người đã hiểu đó là một kết thúc lạc quan bởi bước chân ấy
thể hiện sức mạnh bên trong- biểu thị của lòng tự tin, hứa hẹn. Tuy nh, nếu lật giở lại những trang
đầu ta cũng sẽ thấy, khi tả dáng đi của lão chồng vũ phu, NMC cũng viết: "Lão đi chữ bát, bước
từng bước chắc chắn". Như vậy từ "chắc chắn" đơn thuần chỉ đặc tả dáng đi của người miền biển,
dáng bước chắc chắn hoà lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài bởi vậy không phải là một
tín hiệu lạc quan mà trái lại, thể hiện niềm lo âu của tác giả bởi đó là sự khái quát cuối cùng; tình
trạng khốn khổ này không hề cá biệt, cả đám đông kia ai cũng là một người đàn bà như thế! Hình
tựơng người đàn bà hàng chài vì vậy không chỉ góp phần thể hiện gtrị hiện thực rộng lớn cho tác
phẩm mà còn góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả. Đó là nỗi lo âu, trăn trở, cảm
thương trứơc những số phận bất hạnh, đó là thái độ trân trọng, ngợi ca những phẩm chất đẹp đẽ,
phê phán những hiện tượng tiêu cực để từ đó hé mở những giải pháp mang tính xã hội.
Htg người đàn bà hàng chài thể hiện qniệm nght của NMC: Con người và cuộc sống vốn
phong phú phức tạp, ẩn chứa nhiều nghịch lí, chúng ta phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều để
không thể chỉ thấy được vẻ bên ngoài mà còn thấy cả bản chất bên trong, không chỉ thấy được
những vẻ nên thơ mà còn phải cảm nhận được cả những điều xót xa, đau đớn, không chỉ thấy
những số phận bất hạnh mà còn phải nhận ra được cả “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con
người”. Đó khchỉ là thiên chức cao cả của người nghệ sĩ chân chính, sứ mệnh thiêng liêng của nghệ
thuật chân chính mà còn là trách nhiệm của tất cả chúng ta.
ĐỀ4: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn ông, Đẩu và
Phùng.
1. Nhân vật người đàn ông
- Ngoại hình: NMC mtả ngoại hình của nhvật này với nhiều chi tiết gây ác cảm "Tấm lưng rộng và

cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát bước từng bước chắc chắn, hàng
lông mày cháy nắng", "hai con mắt độc dữ",…Có thể thấy, từ hình dáng đến diện mạo người đàn
ông này đã hiện lên với diện mạo của người đàn ông vùng biển, có cuộc sống lao động vất vả nặng
nhọc gắn liền với sông nước, với biển, với sóng gió. Qua một vài chi tiết về ngoại hình cũng hé mở
nét tính cách: sự thô bạo, dữ dằn.
- Tính cách vũ phu, tàn bạo
+ Với vợ
13
Ông ta đánh vợ như cơm bữa, như thói quen dù người vợ chẳng phạm lỗi gì, cứ thế đều đặn:
"Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" suốt bao nhiêu năm trời, bất kể lúc nào thấy khổ
quá là ông ta lại lôi vợ ra đánh.
Đáng sợ hơn ở hành động tàn bạo này là thái độ của ông ta khi đánh vợ: "lão vừa đánh vừa
thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, vừa dùng dây lưng quất vào người vợ vừa nguyền
rủa"…Hđ tàn bạo này của ông ta khiến ta nhớ tới hành động phi nhân tính của A Sử mỗi khi đánh
Mị trong "VCAP" (TH). Không chỉ dữ dằn tàn ác với vợ mà ngay cả với con ông ta cũng không hề
nương tay.
+ Với con
Khi thằng Phác lao vào như một viên đạn, giật lấy cái thắt lưng từ tay ông ta để bảo vệ mẹ,
người đàn ông này đã dang thẳng tay tát nó 2 cái khiến nó lảo đảo ngã xuống.
→ Sau khi đánh vợ con lão ta bỏ đi không hề quay mặt lại, hoàn toàn vô cảm, dửng dưng
trước những gì vừa gây ra.
+ Với người ngoài: Khi có một người lạ xuất hiện và can thiệp ông ta đã đánh cho bị thương phải
nhận viện.
→ Như vậy, từ ngoại hình đến hành động, người đàn ông đã hiện lên với tất cả những gì xấu
xa nhất: "Cả nước không có người đàn ông nào như hắn". Câu kết luận ấy của Đẩu lí giải cho ta vì
sao Đẩu nhất mực khuyên người đàn bà li hôn.
Tuy nhiên, cuộc sống con người không hề đơn giản như thế. Trong con mắt của Đẩu, Phùng,
thằng Phác người đàn ông ấy hoàn toàn bị lên án, bị ruồng bỏ. Nhưng trong con mắt của người đàn
bà - người vợ, thông qua câu chuyện đầy chân thành chị kể ông ta lại hiện lên với một chân dung
khác. Có những nét tính cách khó hiểu, dường như ở ông ta cũng đang chất chứa những nỗi đau

không thể giải toả, những uẩn khúc không dễ sẻ chia. Ông ta vốn là một người cục tính nhưng hiền
lành, không bao giờ đánh vợ. Chỉ vì nghèo đói, vì túng quẫn bởi trốn lính nguỵ, bởi đông con mà
thuyền lại chật và nghiêm trọng hơn còn là sự mông muội về ý thức làm người, về giá trị của cuộc
sống con người mà dần dần ông ta trở nên tha hoá. Hễ lúc nào thấy khổ là lôi vợ ra đánh để xả giận.
Nếu A Sử đánh Mị bằng thái độ thản nhiên, vô cảm biểu thị bản chất phi nhân tính thì ở đây trong
tác phẩm khi đánh vợ người đàn ông nghiến chặt răng, "giọng rên rỉ đau đớn". Thì ra đánh vợ
không phải vì ông ta ghét bỏ vợ mà đó chỉ là cách ông ta xả bớt những uất ức, cùng cực trong lòng.
Nhân vật người đàn ông vừa đáng trách, đáng lên án nhưng cũng rất đáng thươg, đáng được cảm
thông bởi xét cho cùng, ông ta vừa là thủ phạm nhưng ông ta cũng là nạn nhân. Điều này lí giải vì
sao người đàn bà dù bị chồng hành hạ tàn nhẫn vẫn không hề oán trách, không hề kết tội, vẫn dành
cho chồng sự thấu hiểu cảm thông và kiên quyết không chịu li hôn.
Hình tượng người đàn ông ộnng truyện gợi ta liên tưởng đến những nhân vật quen thuộc như
Chí Phèo, Hộ,…Họ vốn cũng là những con người hiền lành, có những ước mơ đẹp đẽ nhưng do sự
tác động của hoàn cảnh mà thay đổi tính nết. Tuy vậy, nếu Chí Phèo và Hộ bị hoàn cảnh chi phối
14
nhưng cuối cùng bằng bản tính tốt đẹp vốn có của mình họ đã vượt qua và chiến thắng được hoàn
cảnh thì với người đàn ông trong truyện ngắn này sự tha hoá ấy của ông ta không có hy vọng thay
đổi nếu không có giải pháp xã hội cụ thể, thiết thực, kịp thời. Sự tha hoá của người đàn ông trong
câu chuyện này cho thấy hậu quả của chiến tranh thật vô cùng dai dẳng, nặng nề. Qua nhân vật
người đàn ông, NMC muốn gửi đến người đọc một nhận thức quan trọng: cuộc chiến chống kẻ thù
xâm lược đã lùi xa từ lâu nhưng trên mảnh đất này (và không chỉ trên mảnh đất này) vẫn còn đó
những cuộc chiến khác, cuộc chiến khủng khiếp khốc liệt, thậm chí còn khốc liệt hơn cuộc chiến
chống kẻ thù xâm lược, đó là cuộc chiến để mưu sinh, cuộc chiến để bảo vệ nhân tính, thiên lương,
bảo vệ phẩm giá con người.
Ở phương diện này NMC đã kế thừa rất xuất sắc tư tưởng nhân văn nhân đạo của văn học
truyền thống và nâng nó lên để phù hợp với yêu cầu của nền văn học mới, thời kì văn học dám nhìn
thẳng và nói thật.
2. Nhân vật Đẩu
Là một chánh án, Đẩu đc coi là vị "bao công của phố biển", anh bảo vệ luật pháp bằng sự
công bằng cho cuộc sống của người dân nơi đây, bằng sự thông hiểu sách vở và bằng cả nhiệt huyết

của trái tim. Bởi vậy, trước bi kịch bị ngược đãi một cách bất công của người đàn bà hàng chài Đẩu
đã giải quyết bằng cách khuyên người đàn bà nên li hôn. Ban đầu anh hoàn toàn tin vào giải pháp
ấy của mình.
Thế nhưng, trước câu chuyện, đặc biệt là trước lí lẽ hết sức sâu sắc của người đàn bà quê
mùa, thất học thì lòng tốt và kiến thức của Đẩu học từ sách vở bỗng trở nên vô nghĩa và phi thực tế!
Với anh, người đàn ông vũ phu, tàn bạo kia đáng bị lên án, đáng bị ruồng bỏ, thế nhưng, với người
vợ, người đàn ông ấy lại là chỗ dựa, là trụ cột của cả gia đình. Sự yên ấm và tương lai của cả đàn
con lại phụ thuộc hoàn toàn vào ông ta-bố của chúng. Vả lại, cuộc sống của họ đâu phải lúc nào
cũng đau khổ "trên thuyền cũng có lúc vợ chg con cái sống hoà thuận, vui vẻ"! Lí lẽ sâu sắc của
người đàn bà đã làm "vỡ ra" trong đầu vị bao công phố biển ấy biết bao điều: "Phải, phải, bây giờ
thì tôi đã hiểu". Nếu sự vỡ lẽ của Phùng thuộc về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật thì sự vỡ
lẽ của Đẩu lại thuộc về mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tế, giữa số phận cá nhân và những giải
pháp xã hội. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã khiến Đẩu bàng hoàng nhận ra. So với cách
lựa chọn của chị, giải pháp của Đẩu thật nông nổi, chỉ giải quyết được nguy cơ trước mắt mà không
hề tính đến hậu qua lâu dài.
Cách giải quyết của Đẩu khiến ta nhớ đến cách giải quyết của Đế Thích trước bi kịch bị chết
oan của Trương Ba trong kịch của Lưu Quang Vũ. Đẩu giải quyết sự việc bằng cách ấy đơn giản
bởi Đẩu đã đem nguyên vẹn lối nghĩ của thời chiến để giải quyết một việc ở thời bình. Bởi là một
chánh án nhưng Đẩu chỉ làm việc trong một căn phòng chất ngất những chồng hồ sơ giấy tờ và giải
quyết sự việc bằng mớ lí thuyết mang tính sách vở đó.
15
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã giúp Đẩu nhận ra rằng: cuộc sống con người
không hề đơn giản, xuôi chiều mà luôn luôn chứa đựng những mâu thuẫn, những nghịch lí. Có bao
việc tưởng như vô lí nhưng xem ra lại có lí riêng. Có nhiều chuyện nghĩ đơn giản nhưng lại hết sức
phức tạp, khó lường. Không thể đem thiện chí và ý chí đơn thuần để giải quyết cho xong bởi lòng
tốt và luật pháp đều vô cùng cần thiết nhưng không thể đặt ào ào vào bất cứ đối tượng nào, trong
bất cứ h/cảnh nào. Nếu có một lòng tốt hời hợt, nếu vận dụng luật pháp một cách máy móc, cứng
nhắc chỉ càng khiến cho cuộc sống thêm tồi tệ hơn. Và như vậy Đẩu đã "vỡ ra…": để giúp người
dân thoát ra khỏi bi kịch đau đớn của người đàn bà hàng chài buộc phải có nhg giải pháp cụ thể, kịp
thời và mang tính đồng bộ xã hội chứ không phải là cách giải quyết mang tánh chất cá nhân như

Đẩu đã đễ xuất.
Như vậy, có thể nói Đẩu và Phùng chính là 2 nửa của NMC: cùng bày tỏ một mối lo âu chung
về cuộc đời, cùng nói lên một nhận thức quan trọng về con người đặc biệt là số phận con người thời
hậu chiến.
3. Nhân vật Phùng
Nxchung: Phùng là nhân vật trung tâm có mặt trong suốt chiều dài của thiên truyện, là hạt
nhân, là sợi dây liên kết các nhân vật, các sự kiện chính trg tác phẩm lại vs nhau. Ngoài ra cốt
truyện của truyện ngắn còn phát triển theo đúng diễn biến tâm trạng và quá trình thay đổi nhận
thức của chính Phùng. Phùng vì vậy chính là kiểu nhân vật tư tưởng bộc lộ trực tiếp quan niệm,
cách nhìn nhận của nhà văn Nguyễn Minh Châu về con người, cuộc đời và ngt.
Biểu hiện
a, Phùng là một người nghệ sĩ tài hoa, biết rung động trc cái đẹp
b, Là một người csĩ biết bảo vệ cái đẹp
c, Phùng là một con người theo đúng nghĩa của nó
- Giàu lòng ythg
- Thấu hiểu sâu sắc lẽ đời để từ đó thấu hiểu sâu sắc ngt
3.1. Phùng là một người nghệ sĩ tài hoa, biết rung động trc cái đẹp
Phùng trc hết là một nghệ sĩ tài hoa có tâm hồn nhạy cảm, say mê trước cái đẹp và tâm huyết
vs nghề nghiệp. Để có đc tấm ảnh bổ sung vào lịch tết theo ycầu của trưởng phòng Phùng đã lặn lội
về một vùng biển miền Trung nơi từng là chiến trường cũ của anh. Tại đó ròng rã cả một tuần lễ
Phùng phục kích ngoài bãi biển từ mờ sớm, giữa lúc trời lác đác mưa có khi phải rúc vào bên bánh
một chiếc xe tăng hỏng để trú. Tất cả chỉ với một hi vọng sẽ chụp được 1 tấm ảnh ưng ý. Nếu
không có t/yêu đối với cái đẹp, nếu không thực sự tâm huyết với nghề chắc chắn không dễ gì Phùng
có thể có được sự kiên nhẫn như thế.
Khi bất ngờ gặp được cảnh toàn bích: "một bức tranh mực tàu của danh hoạ thời cổ mà từ
đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp. Phùng ngập tràn niềm vui và hp "Trái tim như có gì
bóp thắt vào". Đó là niềm hạnh phúc chân chính của một người nghệ sĩ đích thực trong giây phút
16
thăng hoa của cảm hứng sáng tạo. Bằng sự nhạy cảm của trái tim người nghệ sĩ Phùng đã nhận ra
đó là 1 cảnh "đắt" trời cho bởi vậy ngay lập tức Phùng đã lấy máy ảnh bấm liên thanh một hồi hết

cả một phần tư cuốn phim. Không chỉ hp trước cái đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhiên Phùng còn cảm
thấy như mình vừa khám phá ra cái chân lí của sự toàn thiện, "Khám phá thấy cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn."
Như vậy, chính tình yêu và niềm say mê khám phá cái đẹp đã thanh lọc nâng đỡ tâm hồn của
người nghệ sĩ và cũng chính tình yêu và sự tâm huyết với nghề nghiệp ấy đã giúp Phùng có được
nhưng sản phẩm sáng tạo nghệ thuật có gtrị. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, tấm ảnh
chiếc thuyền ngoài xa đã vượt lên trên số phận ngắn ngủi của 1 tấm ảnh lịch tết để sống cuộc đời
của một kiệt tác nghệ thuật. Mãi nhiều năm sau này bức ảnh ấy vẫn được treo trong phòng khách
sang trọng của những người sành nghệ thuật đó chính là niềm hp lớn lao nhất, là phần thưởng xứng
đáng nhất dành cho những nỗ lực cho tình yêu sáng tạo cho những người nghệ sĩ chân chính như
Phùng .
3.2. Là một người chiến sĩ biết bảo vệ cái đẹp
Thế nhưng, ngay khi đang ở trên đỉnh cao của niềm hp sáng tạo, cũng là lúc Phùng phát hiện
ra nghịch lí đầu tiên: con thuyền từ từ tiến vào bờ, khoảng cách giữa nó và Phùng dần thu hẹp lại,
khi Phùng có thể nhìn rõ nó cũng là lúc một cảnh tượng trớ trêu bày ra trước mắt: bước ra từ "chiếc
thuyền ngư phủ đẹp như mơ" là một người đàn bà: khắc khổ, xấu xí, mệt mỏi và chỉ biết “cam chịu
đầy nhẫn nhục”, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, họ cùng bước lên bãi cát đến bên bãi
xe tăng hỏng. Ngươì đàn ông rút dây lưng vừa quật tới tấp vào ng đàn bà vừa rên rỉ, chửi rủa.
Người đàn bà không hề chống trả, không bỏ chạy, không kêu khóc, chỉ nhẫn nhục chịu đựng.
Chứng kiến cảnh ấy P "chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt: “kinh
ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Vốn là một người lính,
Phùng không thể chấp nhận cảnh tượng ấy, vì vậy, ngay lập tức anh đã vứt máy ảnh xuống đất
định chạy lại để can thiệp. Thế nhưng thật bất ngờ, còn nhanh hơn cả anh, một thằng bé lao về phía
người đàn ông, giật lấy dây lưng và đánh trả. Nếu chỉ một khoảnh khắc trước đó Phùng còn vô
cùng hp thì đến bây giờ Phùng sững sờ chết lặng, không nói được một lời nào.
Lần thứ 2 gặp lại cảnh tượng ấy, không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác, bất chấp
nguy hiểm, Phùng đã xông vào can ngăn và kết quả là bị người đàn bà đàn ông đánh phải nhập
viện.
Trong cuộc gặp gỡ tại toà án huyện trc giải pháp của Đẩu khuyên người đàn bà nên li hôn
Phùng cũng rất đồng tình. Thái độ của họ đều xuất phát từ lòng tốt từ sự mong muốn chân thành.

Người phụ nữ ấy có thể được giải thoát khỏi những bi kịch những đắng cay. Chính bởi niềm mong
muốn ấy nên trước lời van xin của người đàn bà :"Đừng bắt con bỏ nó!" Phùng bỗng cảm thấy căn
phòng lồng lộng gió biển của Đẩu bỗng trở nên ngột ngạt như bị hút hết không khí. Không chịu
17
được cảm giác bức bối ấy Phùng đã vén màn từ trong bước ra. Sau khi nghe người đàn bà tâm sự về
hoàn cảnh gia đình. Phùng đã bật lên đầy phẫn nộ. Không thể nào hiểu được.
Bởi vậy có thế thấy trước khi cầm máy ảnh Phùng đã cầm súng Phùng chính là người có trái
tim nhạy cảm dễ rung động trước cái đẹp và cũng chính là 1 người chiến sĩ sẵn sàng đấu tranh
chống ngang trái bất công bảo vệ cái đẹp của cuộc đời.
3.3. Phùng là một con người theo đúng nghĩa của nó
a- Giàu lòng yêu thương
Từ thái độ há hốc mồm kinh ngạc cho tới hành động vứt máy ảnh chạy tới đánh nhau với lão
đàn ông, khi bất ngờ chứng kiến cảnh bạo hành gia đình Tất cả đều là biểu hiện của tình yêu
thương của thái độ không chấp nhận bi kịch con người bị hành hạ một cách tàn nhẫn.
Không chỉ thể hiện ở hành động, tấm lòng ấy của Phùng còn thể hiện ở cả ngôn ngữ. Trước câu
chuyện của người đàn bà tại toà án thái độ của Phùng đầy quan tâm thấu hiểu chia sẻ. " Lão ta
trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không? "Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không?" "Cả
đời chị có lúc nào thật vui không?" Chỉ là một người đàn bà tình cờ gặp, câu chuyện của chị cũng
chẳng mấy liên quan đến anh thế nhg Phùng đã quan tâm thực sự, đã chia sẻ chân thành, đã phẫn nộ
xót xa, đã yêu thg và sẻ chia niềm vui, niềm hp và cả nỗi đau của người đàn bà bất hạnh ấy.
Câu chuyện về chị kết thúc bằng chi tiết cuối cùng: Phùng vác chiếc máy ảnh đi lang thang
đến tận khuya, rồi ngồi xuống bên bếp lửa dõi mắt nhìn ra giữa phá- nơi con thuyền đang một mình
chống chọi với dông bão, đó là ánh mắt của sự day dứt, lo âu và nỗi băn khoăn trước bi kịch của
con người. Ánh mắt ấy lí giải vì sao nỗi ám ảnh về sự đáng thương của người đàn bà hàng chài
không phải chỉ trôi qua trong khoảnh khắc mà còn lưu lại trong anh cho đến mãi sau này: cứ mỗi
lần nhìn kĩ Phùng lại thấy hình ảnh người đàn bà hàng chài bước ra.
b- Thấu hiểu sâu sắc lẽ đời để từ đó thấu hiểu sâu sắc nghệ thuật
Không phải ngẫu nhiên khi thực hiện yêu cầu của trưởng phòng Phùng lại đến vùng biển
này-chiến trường cũ của anh. Có lẽ trong ý thức của Phùng lúc ấy, cuộc sống của vùng quê này đẹp
lắm, bình yên lắm, nơi ấy sẽ có nhiều vẻ đẹp để anh thoả sức sáng tạo. Thế nhưng, chuyến đi này

đã đem lại cho Phùng những thay đổi không ngờ. Một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp hoá ra chỉ là một
thứ vỏ bọc, lấp đi sự xấu xa bên trong. Bản chât ấy Phùng đã nhận ra. Và nếu Phùng chỉ từ xa mà
ngắm, và nếu Phùng bằng lòng với việc chỉ đứng bên ngoài mà chụp ảnh thì Phùng sẽ không bao
giờ hiểu được. Chứng kiến câu chuyện của người đàn bà ở toà án, sự "vỡ lẽ" ấy của Phùng còn
thấm thía hơn nữa. Thì ra đằng sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì, vô cảm của người vợ, là sức chịu
đựng kiên cường, là tấm lòng nhân hậu hi sinh. Phía sau dáng vẻ quê mùa thất học của người đàn
bà bất hạnh là một phụ nữa sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời. Khuất đằng sau hành vi vô đạo, côn đồ của
một đứa con dám đánh lại bố và dám giết bố là tình yêu sâu nặng dành cho người mẹ. Tuy nhiên,
bất ngờ lớn nhất của Phùng chính là nhận thức về gã đàn ông- cái gã chồng vũ phu mà "Cả nước
không có người đàn ông nào như hắn". Ban đầu, với nhận thức giản đơn ở thời chiến, Phùng đã
18
đinh ninh cái xấu, cái ác ở gã có nguồn gốc từ địch: "Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính nguỵ
không?" Thế nhưng, người đàn bà đã khẳng định: không những lão ta không đi lính nguỵ mà còn
trốn lính. Hay nguồn gốc là tệ nạn xã hội, nghiện rượu? Cũng không. Thậm chí bà vợ còn ao ước:
giá mà lão uống rượu thì tôi còn đỡ khổ. Vậy hay là do bản tính? Cũng không. Lão ta vốn là một
anh con trai cục tính nhưng hiền lành và không bao giờ đánh vợ. Và bây giờ, mỗi khi đánh vợ gã
không hề mang bộ mặt hả hê lạnh lùng như thường thấy ở những kẻ có bản chất tàn ác mà ngược
lại gã còn rên rỉ, đau đớn.
K phải từ phía địch, không phải do tệ nạn xa hội, cũng không phải do bản tính, vậy nguồn gốc
sự tha hoá ở người đàn ông ấy là do đâu? Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã giúp Phùng
nhận ra nguyên nhân chỉ có thể là từ tình trạng mông muội về ý thức làm người, ý thức về giá trị
người, gía trị của sự sống do bị tù hãm trong một đời sống quẩn quanh, quay lưng lại với thế giới
bên ngoài, bị cầm tù trong một tập quán lạc hậu thế nên họ không hề biết đến quyền làm người, giá
trị người. Hp lớn nhất đối với họ chỉ là được ăn no và khi đau khổ họ cho mình quyền được hành hạ
người khác. Phùng đã hiểu tại sao người đàn bà không chịu li hôn. Phùng đã hiểu trong bi kịch này
người đàn ông ấy vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, vừa đáng trách, đáng lên án nhg cũng rất đáng
thương, đáng được cảm thông.
Và như vậy, những nghịch lí trong câu chuyện của gia đình thuyền chài kia đã giúp Phùng
"vỡ ra" nơi mảnh đất tưởng đã bình yêu kia, vẫn tồn tại những cuộc chiến đấu khốc liệt, thậm chí
còn khốc liệt hơn cả cuộc chiến với kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu với đói nghèo và sự tha

hoá nhân cách để mưu sinh và để giữ lấy thiên lương. Nhận thức ấy giúp Phùng hiểu sâu săc hơn
gtrị của cuộc sống con người và nghệ thuật. Con người và cuộc sống không hề đơn giản, xuôi chiều
mà luôn tồn tại những nghịch lí, luôn chứ đựng nghịch lí mâu thuẫn. Đánh giá cuộc sống con người
luôn phải có cái nhìn đa chiều, đa diện, hài hoà cả hiện tượg và bản chất. Với tư cách là một nghệ sĩ
Phùng còn hiểu rằng không được chạy theo cái đẹp bề ngoài. Người nghsĩ chân chính phải luôn
dũng cảm nhìn vào hiện thực và nhìn sâu vào số phận mỗi con người để cùng thấu hiểu, chia sẻ,
cảm thông, góp phần thay đổi nhg mảnh đời bất hạnh. Nói cách khác, người nghệ sĩ không thể đứng
ngoài để chụp ảnh hiện thực, chỉ khi nào đặt trọn vẹn cái tâm của mình vào cuộc đời, sẵn sàng dấn
thân vào cuộc đời mới làm tròn trách nhiệm của mình- của những người chèo lái cuộc sống trước số
phận con người.
19

×