Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ vii
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
2.1. Cơ sở lý luận 4
2.1.1 Các khái niệm cơ bản 4
2.1.2. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu 6
2.1.3. Thủ đoạn buôn lậu 8
2.1.4. Vai trò của việc nâng cao hiệu lực chống buôn lậu 10
2.1.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu lực chống buôn lậu hàng hóa nhập
khẩu 17
2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực chống buôn lậu hàng hóa nhập
khẩu 17
2.2. Cơ sở thực tiễn 19
2.2.1 Thực trạng buôn lậu ở một số quốc gia trên thế giới 19
2.2.2. Thực trang buôn lậu ở Việt Nam 21
PHẦN III. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
26
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv
3.1. Đặc điểm tỉnh Bắc Giang 26
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên tỉnh Bắc Giang 26
3.1.2. Điều kiện xã hội 28
3.2. Cơ quan Quản lý thị trường tỉnh Bắc Giang 35
3.2.1. Quá trình hình thành và phát triển 35
3.2.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn 35
3.2.3. Cơ cấu tổ chức của Chi cục Quản lý thị trường Bắc Giang 37
3.3. Phương pháp nghiên cứu 39
3.3.1. Khung nghiên cứu 39
3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu 40
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu 40
3.3.4. Phương pháp phân tích 41
PHẦN IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1. Thực trạng buôn lậu và hiệu lực chống buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang 42
4.1.1. Một số mặt hàng buôn lậu chủ yếu 42
4.1.2. Những thủ đoạn chủ yếu được các đối tượng buôn lậu sử dụng
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay 46
4.1.3.
Các biện pháp nghiệp vụ được Chi cục quản lý thị trường Bắc
Giang
áp dụng 49
4.1.4. Kết quả kiểm tra, xử lý của Chi cục Quản lý thị trường Bắc
Giang trong 3 năm gần đây 50
4.1.5. Phân tích và đánh giá hiệu lực hoạt động chống buôn lậu hàng
hoá nhập khẩu, giai đoạn 2011-2013 62
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực hoạt động chống buôn lậu
hàng hoá nhập khẩu 77
4.2.1. Định hướng nâng cao hiệu lực chống buôn lậu 77
4.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 78
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v
4.2.3. Quản lý hóa đơn, chứng từ 79
4.2.4. Đổi mới hoạt động công tác Quản lý thị trường 81
4.2.5. Xây dựng lực lượng chống buôn lậu trong sạch 81
4.2.6. Tăng cường công tác quản lý địa bàn 82
4.2.7. Tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức giác ngộ nâng cao đời
sống cho nhân dân 83
4.2.8. Tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành trong công tác chống
buôn lậu đồng thời phân định rõ chức năng nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan chuyên ngành 84
4.2.9. Trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho lực lượng chống buôn lậu
và gian lận thương mại 86
4.2.10. Một số giải pháp khác 86
PHẨN V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 87
5.1. Kết luận 87
5.2. Kiến nghị 88
5.2.1. Đối với Chính phủ 88
5.2.2. Đối với các bộ, ngành cơ quan chức năng khác 91
5.2.3. Đối với UBND tỉnh 91
5.2.4. Đối với các doanh nghiệp trong nước 92
5.2.5. Đối với quần chúng 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 31
Bảng 4.1 Hình thức buôn lậu và hành vi gian lận thương mại trong kinh
doanh xăng dầu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang 44
Bảng 4.2. Mặt hàng tiêu dùng nhập lậu đã bị tịch thu 46
Bảng 4.3 Kết quả xử lý vi phạm từng khu vực trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang 51
Bảng 4.4. Tổng hợp kết quả kiểm tra , xử lý năm 2011 53
Bảng 4.5. Tổng hợp kết quả kiểm tra, xử lý năm 2012 55
Bảng 4.6. Tổng hợp kết quả kiểm tra, xử lý năm 2013 56
Bảng 4.7. Tổng hợp kết quả kiểm tra, xử lý buôn lậu năm 2011, 2012,
2013 61
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 3.1. Con đường tiêu thụ thuốc lá qua địa bàn tỉnh Bắc Giang 43
Biểu đồ 4.1 Tỷ trọng loại hình vi phạm năm 2011 57
Biểu đồ 4.2 Tỷ trọng loại hình vi phạm năm 2012 58
Biểu đồ 4.3 Tỷ trọng loại hình vi phạm năm 2013 58
Biểu đồ 4.4 Số vụ vi phạm từ năm 2011 đến 2013 59
Biểu đồ 4.5 Tỷ lệ tiền xử lý vi phạm hành chính từ năm 2011-2013 59
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài những thành
tựu đáng mừng về sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, chúng ta cũng phải đối
mặt với sự gia tăng của nạn buôn lậu và gian lận thương mại. Buôn lậu đang là
một trong những trở ngại lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Chính vì vậy, trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh chống buôn lậu đã trở
nên vô cùng quyết liệt và luôn gặp phải nhiều trở ngại, khó khăn.
Khi xã hội càng phát triển thì người tiêu dùng càng được thỏa mãn các
nhu cầu của mình, cả về vật chất lẫn tinh thần. Ở Việt Nam, thành quả sau hơn
20 năm sự nghiệp đổi mới của Đảng đã chứng minh điều đó. Thị trường hàng
hóa phong phú, đa dạng, mua bán thuận tiện, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp
dân cư. Tuy nhiên do ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường, cũng như trên
thế giới, người tiêu dùng ở Việt Nam đã và đang phải đối mặt với các thách thức
của nạn hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng…
Cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, hoạt động buôn lậu, gian lận
thương mại những năm gần đây diễn biến rất phức tạp, nhất là tại những địa bàn
giáp ranh biên giới. Ngoài những mặt hàng quốc cấm như ma túy, vũ khí, động
vật quý hiếm… còn có thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, thuốc lá, hàng
tiêu dùng và hàng điện tử công nghệ cao.
Trước tình hình đó việc đẩy mạnh nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng là một
nhiệm vụ cấp thiết.
Tỉnh Bắc Giang với vị trí địa lý nằm trên hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cạnh tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), cách Thủ đô Hà Nội 50km; cách cửa khẩu Hữu
Nghị Quan sang CHND Trung Hoa 110 km; cách sân bay quốc tế Nội Bài 50
km; cách cảng biển Hải Phòng và cảng biển nước sâu Cái Lân - Quảng Ninh 130
km đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động buôn lậu có chiều hướng ngày càng gia tăng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2
Lực lượng Quản lý thị trường với chức năng kiểm tra chống buôn lậu, sản
xuất và buôn bán hàng giả, chống gian lận thương mại và các hành vi khác trong
hoạt động thương mại và dịch vụ, hoạt động của lực lượng quản lý thị trường
liên quan mật thiết đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng
cũng như góp phần tích cực vào việc xây dựng một thị trường phát triển theo
định hướng XHCN, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của các nhà sản xuất kinh doanh chân chính. Vì vậy việc tìm hiểu thực
trạng hoạt động của lực lượng quản lý thị trường nhất là công tác đấu tranh
chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay là điều hết sức cần
thiết (vì đây là hoạt động thường xảy ra nhiều vi phạm và gây ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường). Trên cơ sở đó đề ra những biện
pháp để nâng cao hiệu lực hoạt động trong công tác đấu tranh chống buôn lậu
hàng hóa nhập khẩu góp phần ổn định nền kinh tế thị trường là nhu cầu cấp
bách. Chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu lực hoạt
động chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục quản lý thị trường
tỉnh Bắc Giang” làm nội dung nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu lực hoạt động
chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc
Giang.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu lực chống
buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của đơn vị quản lý thị trường;
- Đánh giá thực trạng hiệu lực chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của
Chi cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Giang;
- Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu lực chống buôn lậu hàng hóa nhập
khẩu của Chi cục quản lý thị trường tỉnh Bắc Giang.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu lực và giải pháp nâng cao hiệu lực
chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc
Giang. Do vậy, các chủ thể liên quan tới quá trình thu thập số liệu thực hiện đề
tài gồm:
- Các chủ thể tham gia trực tiếp lưu thông hàng hóa nhập khẩu qua địa
bàn tỉnh Bắc Giang.
- Các mặt hàng nhập khẩu lưu hành trên thị trường tỉnh Bắc Giang.
- Các chủ thể có liên quan hoặc tham gia gián tiếp đến việc lưu hành hàng
hóa nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Các chính sách, Nghị định, Thông tư, Quyết định, Quy chế … ảnh
hưởng đến việc chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu tại Chi cục Quản lý thị
trường tỉnh Bắc Giang.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2011 – 2013.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng
chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu tại Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bắc
Giang, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực hoạt động
chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu trên địa bàn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
* Hiệu lực: Hiệu lực là một khái niệm tương đối trừu tượng, có thể hiểu
là tác dụng của việc bố trí, sắp sếp các nguồn lực một cách hợp lý để đem lại kết
quả tốt nhất.
Hay cụ thể hơn theo Từ điển kinh doanh (2013) định nghĩa hiệu lực là
mức độ thực hiện các hoạt động đã hoạch định và đạt được kết quả đã hoạch
định. Như vậy tính hiệu lực bao gồm mức độ tuân thủ thực hiện quy định và kết
quả đạt được.
* Buôn lậu: Thuật ngữ “buôn lậu” được sử dụng với những ý nghĩa rất
khác nhau. Từ góc độ của khoa học về ngôn ngữ, cụm từ "buôn lậu" có ý nghĩa
là buôn bán những hàng hoá trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế
thừa những hiểu biết xưa nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ
thông hiện nay.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy, từ “buôn lậu” được chia làm hai loại như sau:
- Trốn tránh hoặc tìm có cách trốn tránh nộp thuế/lệ phí theo quy định.
- Nhập khẩu, xuất khẩu hay cố tìm cách nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá
nằm trong những mặt hàng cấm theo quy định của pháp luật, các chính sách hay
hạn ngạch khác.
Từ xa xưa, trong "Quốc triều Hình luật" của triều Lê (1428 - 1788) được
xem là Bộ Luật hình sự hoàn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt Nam, tội
danh buôn lậu không được quy định. Mặc dù vậy "Quốc triều Hình luật" đã quy
định "những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng
hoá lên bờ thì bị xử biếm (cách chức), phạt gấp 3 lần tang vật để sung công …"
Những người bán ruộng đất ở bờ cõi, binh khí; các thứ chất nổ có thể chế hoả
tiễn, hoả pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém", "bán mắm muối ra
nước ngoài … thì bị xử đi Châu Xa". Các mặt hàng cấm xuất khẩu lúc đó được
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5
quy định gồm: thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng, vàng, da trâu, gỗ lim, vỏ quế, trân
châu, ngà voi … Những hành vi cụ thể, tách biệt nói trên trong tiềm thức xã hội
đều được gộp chung lại là hiện tượng buôn lậu chứ không có tội danh buôn lậu.
Trước năm 1985, thuật ngữ "tội buôn lậu" đã được đề cập trong một số
văn bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng
cảnh sát nhân dân (20/7/1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm
hàng giả, kinh doanh trái phép (30/6/1982). Song về cơ bản tội danh "buôn lậu"
lúc đó chưa được hướng dẫn nhận diện đầy đủ với các yếu tố cấu thành và dấu
hiệu pháp lý đặc trưng. Phần lớn người ta vẫn chịu ảnh hưởng của các quan
niệm truyền thống, cho rằng buôn lậu bao gồm các hành vi kinh doanh trái phép,
trốn thuế, đầu cơ tích trữ, làm hàng giả, buôn bán hàng cấm.
Từ năm 1985, Bộ luật Hình sự ra đời (27/06/1985) đã chính thức ghi nhận
tội danh buôn lậu. Điều 97 của Bộ Luật Hình sự tội buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định: "Người nào buôn bán trái
phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ,
kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm …". Bắt đầu từ đây, tội danh buôn lậu đã được xác định
với bốn yếu tố cấu thành tội phạm (các mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
thể, mặt chủ quan) và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nên đã có tác dụng
hướng dẫn nhận thức cũng như chỉ đạo thực phi pháp luật.
Từ năm 1986, đất nước chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, tình
hình buôn lậu có xu hướng gia tăng. Đến năm 1999, trước yêu cầu của thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 10,
ngày 21/12/1999, Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung, sửa đổi Bộ luật
hình sự, tại Điều 153 của Bộ luật, tội buôn lậu được quy định thành một tội độc
lập (đã tách tội vận chuyển trái hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được quy định tại
Điều 154 Bộ luật hình sự):
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6
Như vậy, về mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi
“buôn bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý hoặc
những vật phẩm có giá trị khác ”. Hành vi “buôn bán trái phép qua biên giới”
là cấu thành cơ bản của tội buôn lậu, được xác định như sau:
- Kinh doanh, buôn bán trái với quy định của pháp luật những hàng hóa,
tiền tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc hàng hóa là
các vật phẩm thuộc di tích, lịch sử văn hóa hay hàng cấm có số lượng lớn. Hành
vi đó thường được thể hiện dưới một số hình thức như: không khai báo, khai báo
gian dối; giả mạo giấy tờ dùng trong xuất, nhập khẩu; giấu hàng hoá tiền tệ
- Không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ của các cơ quan có thẩm quyền khi
thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh, vận chuyển hàng hóa.
* Hàng hóa nhập khẩu: Hàng hóa nhập khẩu là hàng hóa được sản xuất
tại một quốc gia nào đó được nhập khẩu về Việt Nam.
Đặc điểm của hàng hóa nhập khẩu:
- Chủng loại mẫu mã đa dạng, phong phú: Do hàng hóa nhập khẩu là hàng
hóa của nhiều nước trên thế giới do đó tùy theo đặc điểm của từng nước mà
hàng hóa nhập khẩu sẽ có nhiều đặc tính, công dụng khác nhau nhằm để thỏa
mãn nhu cầu của nhiều người tiêu dùng tại các nước khác nhau.
- Chất lượng tốt: Do ứng dụng công nghệ, kỹ thuật sản xuất cao nên đa
phần hàng hóa nhập khẩu thường có chất lượng tốt hơn so với hàng hóa sản xuất
trong nước. Vì vậy, đáp ứng được nhu cầu của nhiều người tiêu dùng trong nước.
- Giá bán cao: Chủ yếu do ảnh hưởng của chính sách thuế nhập khẩu nên
hiện nay giá bán hàng hóa nhập khẩu thường cao hơn so với hàng sản xuất trong
nước. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiện nay ngày càng nhiều
đối tượng buôn lậu nhằm đạt mục đích lợi nhuận từ việc trốn thuế.
2.1.2. Nguyên nhân xuất hiện buôn lậu
Buôn lậu là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện trong hoạt động lưu
thông hàng hoá cùng với sự ra đời của hàng rào thuế quan. Nếu như hoạt động
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7
lưu thông hàng hoá góp phần cân bằng quan hệ cung - cầu trên thị trường thì
những nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại và phát triển của tình trạng buôn lậu là
sự chênh lệch giá cả, nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau, do
hành vi kiếm lời bất chính, cạnh tranh trái pháp luật, không lành mạnh.
Doanh số bán lẻ trên thị trường xã hội là chỉ tiêu phản ánh nhu cầu tiêu
dùng thực đã được thực hiện của toàn xã hội. Còn chỉ số giá cả, và theo đó là sự
biến động của nó là chỉ tiêu phản ánh tương quan giữa hai đại lượng hàng hoá và
sức mua. Nói cách khác đó là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ cung cầu về hàng
hoá. Hiểu được bản chất kinh tế của vấn đề này, các nhà sản xuất tìm cách tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành trên cơ sở cải tiến mẫu mã hấp dẫn, phù hợp thị hiếu
sử dụng, nâng cao chất lượng sản phẩm, bán ra với giá thị trường chấp nhận,
nhằm quay vòng vốn nhanh, thu lợi nhuận cao. Để làm được những điều này
không phải là việc dễ dàng và lại nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện
nay. Một trong những hiện tượng cạnh tranh, kinh doanh để kiếm lời nhưng trái
pháp luật là lao vào "buôn lậu". Một số nhà kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế, dù ở mức độ khác nhau đã tìm đủ mọi cách luồn lách để thắng trong
cuộc chạy đua "một vốn bốn lời", chạy theo lối sống giàu sang nhưng lại không
đủ khả năng làm giàu hợp pháp mà kinh doanh một cách bất hợp pháp để kiếm
lời nhanh và dễ dàng. Lợi ích cá nhân của họ đặt lên quá cao mà không nghĩ đến
lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia. Từ đó mà buôn lậu ngày càng nảy sinh và phát
triển, hành vi buôn lậu ngày càng tinh vi, diễn biến ngày càng phức tạp là điều
bức xúc đối với xã hội hiện nay.
Nhu cầu sử dụng hàng hoá ở các vùng địa lý khác nhau và hàng hoá có
chất lượng cao, giá thấp hơn ở nơi này sẽ có xu hướng chuyển sang nơi khác có
hàng hoá với chất lượng thấp hơn, giá cao hơn. Đây cũng là quy luật cạnh tranh
trong lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên trong một số trường hợp để bảo vệ sản xuất
nội địa Nhà nước phải dùng đến hàng rào thuế quan (thậm chí thuế rất cao), gian
thương tìm mọi thủ đoạn để tàng trữ buôn bán, vận chuyển hàng hoá qua biên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8
giới, cũng như lợi dụng mọi khe hở để gian lận số lượng, chủng loại, đánh lẫn
hàng hoá … để trốn thuế kiếm lời bất chính. Một số loại hàng hoá nhà nước cấm
buôn bán vì lý do bảo vệ an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức
khỏe cộng đồng (ma túy, vũ khí, rác thải…), trên thực tế một số loại hàng hóa
cấm nhu cầu vẫn có nên giá cao, việc buôn bán trái phép những hàng hoá này
mang lại lợi nhuận rất cao lại càng thúc đẩy gian thương buôn bán để kiếm lời
bất chính. Hoặc có những loại hàng hoá buôn bán phải có phải được sự cho phép
của nhà nước (hàng hóa đã qua sử dụng, biệt dược,…) vẫn bị gian thương tìm
mọi cách để buôn bán kiếm lời.
Đối với mỗi quốc gia tuỳ thuộc quy định của pháp luật, chính sách quản
lý kinh tế, yêu cầu bảo hộ nền sản xuất nội địa và khả năng quản lý khác nhau
thì quy mô, tính chất, mức độ buôn lậu cũng khác nhau. Buôn lậu gắn bó rất chặt
chẽ với các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội khác. Trong xu thế
toàn cầu hóa hiện nay thì những tệ nạn này không ngừng gia tăng và diễn biến
ngày càng phức tạp.
2.1.3. Thủ đoạn buôn lậu
Lịch sử quan hệ buôn bán giữa các quốc gia từ trước đến nay, theo quy
luật vừa trao đổi nhưng cũng vừa cạnh tranh gay gắt, bên cạnh đó các đối tượng
buôn lậu luôn tìm mọi thủ đoạn để kiếm lời bất hợp pháp:
Một là, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; hoặc thông qua các
cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không, đường bưu điện nhưng giấu
diếm tinh vi, trốn tránh sự quản lý của cơ quan chức năng.
Hai là, khai báo không trung thực về hàng hóa thực xuất, nhập khẩu: trị
giá hàng hóa về số lượng, trọng lượng và chất lượng hàng hóa, xuất xứ hàng hóa.
- Áp sai mã số để hưởng thuế suất thấp
- Kê khai giá tính thuế nhập khẩu thấp hơn mức giá tối thiểu đối với hàng
nhập khẩu.
- Kê khai hàng không trung thực giá thực tế mua bán
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9
- Kê khai sai tên gọi các loại hình thanh toán dẫn đế số thuế khai báo thấp
hơn số thuế phải nộp.
- Gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng.
Ba là, xuất trình không đúng chủng loại hàng hóa.
Bốn là, xuất trình giấy tờ, chứng từ hàng hóa xuất, nhập khẩu không đầy
đủ, thiếu chân thực.
Ở Việt Nam, do những đặc điểm riêng, kinh tế mới phát triển, luật pháp
chưa hoàn chỉnh, quản lý kinh tế- xã hội còn bất cập nên các thủ đoạn buôn lậu
cũng có những đặc điểm riêng. Qua khảo sát những năm gần đây cho thấy bọn
buôn lậu dùng các phương thức thủ đoạn sau:
Trên tuyến thương mại, đối tượng thường lợi dụng chính sách cho phép
xuất nhập khẩu linh kiện CKD, IKD, SKD được hưởng thuế suất thấp; các
chính sách cho đem theo hàng hóa của những người học tập, lao động ở nước
ngài, tiêu chuẩn hàng hóa được phép mua đối với thuyền viên, chế độ quà biếu;
khai báo sai tên hàng, số lượng , chủng loại: xuất xứ hàng hóa: hoặc lợi dụng
quy định cho hàng hóa chuyển tiếp, hàng chuyển khẩu, chế độ kiểm hóa theo
yêu cầu của khách hàng; kiểm hóa theo tỷ lệ phần trăm; móc nối với một số
phần tử thoai hóa trong cơ quan chức năng như Biên Phòng, Hải quan vv
Trên tuyến biển, đối tượng buôn lậu hoạt động bán công khai chủ yếu là
các thủy thủ tàu viễn dương, lợi dụng các phương tiện của nhà nước để buôn lậu.
“ bọn buôn lậu triệt để tận dụng các phương tiện của nhà nước để vận chuyển
hàng hóa. Qua khảo sát cho thấy 80% số vụ buôn lậu có sự tham gia của các
doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang; trong đó 40% là trực tiếp
buôn lậu và 60% là do tư nhân núp bóng để buôn lậu”(56, tr. 443), hoặc lợi dụng
các chính sách quy định về hành lý, chế độ của những người thường xuyên làm
việc trên tàu biển để buôn lậu.
Khi bị truy bắt gắt gao chúng chuyển sang hoạt động bí mật; cụ thể các
tảu chở hàng lậu ở nước ngoài về thường trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10
các cơ quan chức năng, lén lút đưa hàng vào bờ; hàng hóa thường là hàng cấm,
hàng hóa có giá trị kinh tế cao, lãi suất lớn. Ngoài ra, chúng còn tổ chức lực
lượng ngầm theo dõi, năm quy luật hoạt động của các lực lượng công an, Hải
quan, Quản lý thị trường, Biên phòng vv. nắm giờ xuất phát và hành trình của
tàu tuần tra, chống buôn lậu của cơ quan chức năng để đối phó. Vì lợi nhuận, đối
tượng buôn lậu không từ thủ đoạn nào và chống đối ngày càng quyết liệt.
2.1.4. Vai trò của việc nâng cao hiệu lực chống buôn lậu
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập, tạo thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của đất nước song cũng tiềm ẩn yếu tố bất lợi, trong đó tình trạng xuất
hiện ngày càng nhiều thủ đoạn buôn lậu tinh vi, phức tạp, có tính chất xuyên
quốc gia là một minh chứng.
Nhận định của lực lượng Quản lý thị trường cũng như các cơ quan an
ninh đều cho thấy, tình hình buôn lậu, vận chuyển hàng hoá qua biên giới đang
ngày càng diễn biến phức tạp, phương thức thủ đoạn tinh vi hơn, vi phạm
nghiệm trọng hơn, hoạt động buôn lậu có tổ chức và chuyên nghiệp cao, lợi
dụng những bất cập về cơ chế, chính sách trong điều hành xuất nhập khẩu…
Nhiều vụ vi phạm bị phát hiện có sự câu kết của các đối tượng buôn lậu trong
nước với các đối tượng ở nước ngoài và một số cán bộ tha hóa, biến chất của các
lực lượng chức năng. Các mặt hàng vi phạm phổ biến là hàng cấm, hàng áp
dụng ưu đãi thuế quan, xuất xứ, hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành…
Tại một số cửa khẩu, để né tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan
chức năng, các đối tượng buôn lậu thường chia nhỏ, xé lẻ hàng hoá, thuê cửu
vạn mang vác hàng qua biên giới vào những giờ cao điểm. Sau đó dùng xe máy
vận chuyển hàng lậu vào các khu vực chợ, bến xe, giấu giếm trong các xe
container, xe tải, xe khách được gia cố hầm vách để đưa đi tiêu thụ ở các tỉnh.
Ngoài ra, các đối tượng buôn lậu cũng thường lợi dụng đường mòn lối mở để
vận chuyển hàng trái phép
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11
Những thực tế đó đang đòi hỏi cơ quan chức năng, trong đó có lực lượng
Quản lý thị trường cần nâng cao hiệu lực trong công tác chống buôn lậu.
* Hậu quả tiêu cực của buôn lậu
- Hậu quả đối với nền kinh tế:
Buôn lậu có tác hại rất lớn đối với nền kinh tế và những thành tựu của
công cuộc đổi mới mà đất nước đang tiến hành. Buôn lậu có nguy cơ kìm hãm
tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo thành một lực cản lớn đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hàng hoá nhập lậu là hàng gian lận, trốn thuế sẽ làm mất tính cân bằng
trong cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng thời làm thất thu
thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu cho ngân sách nhà
nước. Thuế quan đánh trên hàng hoá xuất, nhập khẩu, nhằm mục đích làm tăng
giá của hàng nhập khẩu, bảo vệ và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy, hàng nhập
lậu - gian lận trốn thuế đã phá vỡ cạnh tranh lành mạnh giữa hàng nội và hàng
ngoại nhập. Hàng ngoại nhập lậu vào thị trường do trốn thuế nhập khẩu nên giá
rẻ hơn, chất lượng cao hơn hàng nội do có công nghệ sản xuất tiên tiến, thiết bị
khoa học hiện đại. Trong khi đó, những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước
vẫn phải nhập khẩu và chịu thuế một số nguyên vật liệu, trong quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, họ còn phải nộp các khoản thuế khác như: thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Mặt khác, hệ thống công nghệ kỹ thuật
trong một số lĩnh vực sản xuất hiện vẫn còn đang lạc hậu, không đồng bộ, năng
suất và hiệu quả thấp, hàng hoá không phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, nên
không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại ngay trên chính thị trường của mình
Theo quy luật cung - cầu và giá trị hàng hoá trên thị trường thì cuộc cạnh tranh
giữa hàng nội và hàng nhập thì hàng nhập lậu do giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn,
làm cho hàng nội không tiêu thụ được trên thị trường dẫn đến đọng vốn, thiếu
nợ vốn. Điều này dễ làm cho các doanh nghiệp sản xuất đứng trước nguy cơ phá
sản, nhất là những doanh nghiệp và những ngành công nghiệp non trẻ, mới ra
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12
đời. Đây thực sự là mối đe dọa đời sống của hàng nghìn công nhân trong các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước.
Cạnh tranh không lành mạnh giữa hàng nội và hàng nhập lậu không chỉ
gây thiệt hại cho người sản xuất, mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Hàng
ngoại tràn ngập thị trường với giá rẻ tạo nên thị hiếu, tâm lý ưa dùng hàng ngoại.
Tuy hàng ngoại với giá rẻ hơn giá thành hàng nội là do trốn được thuế nhưng rất
bấp bênh vì không phải lúc nào nhập hàng cũng trốn được thuế. Mặt khác, các
hoạt động tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, gian thương mại của các lực
lượng chức năng sẽ làm cho nguồn hàng khan hiếm, vì vậy trong từng thời kỳ sẽ
nẩy sinh cơn sốt về giá, về hàng, làm đảo lộn sự ổn định giá cả trên thị trường.
Với cạnh tranh đó, kết cục tất yếu là hàng ngoại lấn át hàng nội địa, phá vỡ thế
bình ổn giá cả, sản xuất trong nước bị đình đốn. Nhập lậu hay xuất lậu cũng gây
thiệt hại như nhau về kinh tế, bởi nhập lậu ồ ạt biến nước ta thành thị trường tiêu
thụ hàng hoá của nước ngoài, đặc biệt là hàng dư thừa, ế ẩm. Còn xuất lậu hàng
hoá, đặc biệt là nguyên liệu, khoáng sản, nhiên liệu thô, các mặt hàng chiến
lược, hàng quốc cấm sẽ làm cho tài lực của đất nước cạn kiệt. Hậu quả rõ nhất
làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm chệch hướng phát triển của nền
kinh tế.
Mặt khác, buôn lậu còn làm cho đất nước thất thu lớn về thuế xuất, nhập
khẩu và các sắc thuế khác gây ảnh hưởng đến quá trình cân đối thu - chi ngân
sách của Nhà nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh ra ngoài biên giới.
- Hậu quả về mặt văn hoá - xã hội:
Buôn lậu gây nên những hậu quả phức tạp và nặng nề về mặt văn hoá - xã
hội. Đây là một trong những yếu tố làm gia tăng giữa giàu và nghèo, tạo đà cho
việc thuê mướn, bóc lột sức lao động. Một số tư thương đánh mất khuynh hướng
tạo việc làm, chỉ mải mê làm giàu thông qua buôn lậu, gian lận thương mại.
Hiện tượng buôn lậu xuất hiện đã lôi kéo một lực lượng lao động khá lớn tham
gia vào đội quân “cửu vạn” mang vác hàng qua biên giới. Lực lượng đó không
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13
chỉ bao gồm lao động tại chỗ, mà còn có cả lao động từ nơi khác đến làm cho
sản xuất bị buông lỏng, tình hình trật tự an toàn xã hội cũng bị biến động. Thành
phần lao động bị tiền thuê mướn cám dỗ, có cả trẻ em ở tuổi đến trường, bỏ sản
xuất, bỏ học hành làm “cửu vạn”. Đây là đội ngũ tiếp tay và bao che cho buôn
lậu, có những làng thuộc khu vực biên giới đường bộ người dân ở đây bỏ cả sản
xuất, coi việc mang vác, vận chuyển “thuê” hàng hoá nhập lậu là một nghề để
sinh sống.
Tệ nạn buôn lậu là nguyên nhân làm suy thoái đạo đức xã hội, ảnh hưởng
xấu đến thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá dân tộc. Những kẻ buôn
lậu không từ một thủ đoạn nào để thu được nhiều lợi nhuận bất chính, đồng tiền
bất chính đã làm hại những người đi buôn lậu, làm nẩy sinh các tệ nạn xã hội
như: cờ bạc, rượu chè… ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách con người, làm
cho đạo đức của nhiều kẻ bị tha hoá. Không chỉ có thế, buôn lậu bao giờ cũng
dẫn đến tiêu cực, tham nhũng dễ dẫn đến tha hoá một bộ phận cán bộ công chức
của Nhà nước. Thực tế cho thấy những ngành chức năng trong hoạt động chống
buôn lậu, gian thương mại trong điều hành, thực thi chính sách thương mại hoặc
liên quan đến hoạt động thương mại nếu không vững vàng sẽ bị lôi kéo, mua
chuộc và trở thành nô lệ của đồng tiền. Do bị lôi kéo bởi khoản lợi nhuận khổng
lồ, gian thương tìm mọi mánh khoé, mọi thủ đoạn để móc nối với một số cán bộ
Nhà nước bị tha hoá, biến chất. Do bị sự cám dỗ của đồng tiền mà họ đã lợi
dụng vị trí, quyền lực nhà nước giao cho để cấu kết với buôn lậu, tiếp tay và bao
che cho buôn lậu hình thành những đường dây phức tạp, khó phát hiện,
Hàng nhập lậu tuồn vào thị trường nội địa bất hợp pháp trong đó còn có
nhiều tài liệu phản động, văn hoá đồi trụy, thậm chí có cả vũ khí của những phần
tử thù địch từ nước ngoài chuyển về. Một bên là bọn buôn lậu hám lợi và phi
nghĩa, một bên là các thế lực thù địch luôn có ý đồ làm thay đổi bản sắc văn hoá
dân tộc, từ đó làm thay đổi bản chất của dân tộc được hình thành từ trong quá
trình đấu tranh chống lại áp bức bóc lột và phát triển sản xuất. Bọn buôn lậu lợi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14
dụng triệt để quá trình mở cửa để tăng cường chống phá ta trên mặt trận văn hoá
- xã hội bằng các thủ đoạn tuyên truyền lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền,
ấn hành các sản phẩm văn hoá, phủ nhận quá khứ của dân tộc, ca ngợi lối sống
hưởng thụ, chúng tuồn vào nước ta băng hình, tác phẩm văn hoá đồi truỵ, phản
động,…Cho nên những tác hại do buôn lậu gây ra không chỉ thuần tuý về kinh
tế, mà nó còn ảnh hưởng đến văn hoá - xã hội, xâm hại thuần phong mỹ tục của
đất nước.
- Hậu quả đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội:
Những hậu quả do buôn lậu gây ra đối với nền kinh tế và đối với nền văn
hoá xã hội đã dẫn đến những tác hại về mặt chính trị, gây khó khăn cho sự quản
lý Nhà nước. Hàng nhập lậu, gian lận trốn thuế làm cho thị trường hỗn loạn, đời
sống kinh tế của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển;
công bằng, văn minh xã hội không được thiết lập; nhà nước thất thu thuế nên
không cân đối được thu - chi ngân sách, một số quỹ phúc lợi bảo hiểm xã hội bị
giảm sút….
Buôn lậu và các chủ thể buôn lậu vì những khoản lợi nhuận khổng lồ đã
bất chấp pháp luật, bất chấp chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước với
những thủ đoạn tinh vi để thu lợi nhuận bất chính. Những khoản lợi nhuận này
tạo cho bọn buôn lậu giàu có và ăn chơi sa đoạ, phung phí, trong khi đại bộ phận
nhân dân làm ăn chân chính thì sống khó khăn và nghèo khổ. Chính sự bất công
đó đã làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, kèm theo
khủng hoảng cả hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Một trong những hậu quả nữa của buôn lậu gây ra về mặt chính trị là tác
hại của nó đối với chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay, hoà bình, hợp tác
để phát triển đang trở thành xu hướng của thời đại, sức mạnh quân sự đang được
thay thế bằng sức mạnh kinh tế. Với ưu thế về kinh tế khoa học, kỹ thuật, các
nước tư bản phát triển đã và đang thực hiện chiến lược “biên giới mềm” đẩy thế
giới vào cuộc chiến tranh không có khói lửa - chiến tranh kinh tế. Kinh tế thị
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15
trường là giải pháp hữu hiệu để tăng trưởng kinh tế, nên các nước chậm phát
triển đều có xu hướng phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ với nước
ngoài để thu hút vốn và khoa học kỹ thuật tiên tiến. Với chính sách mở cửa thì
cuộc chiến tranh giành thị trường nổ ra không kém phần gay go so với các hình
thức chiến tranh khác.
Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa với hình thức xâm lăng mới, đó là “diễn
biến hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”, hàng hoá đến đâu là biên giới
đến đó - dần dần các nước chậm phát triển từng bước phụ thuộc vào kinh tế và
cuối cùng phải phụ thuộc vào chính trị. Trên thực tế, biên giới nhiều quốc gia
vẫn còn nguyên vẹn, bộ máy nhà nước vẫn do những cán bộ trong nước điều
hành, nhưng thực chất độc lập, chủ quyền lãnh thổ bị mất. Vì vậy, bảo vệ an
ninh biên giới không chỉ là việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà thực chất là bảo
vệ các tiềm năng - yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo vệ an ninh quốc gia
góp phần bảo vệ vững chắc nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là phục vụ cho sự
phát triển của nền kinh tế và sự vững chắc của chế độ chính trị.
- Ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội:
Buôn lậu gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, văn hoá
xã hội, chính trị, đây là những hậu quả trực tiếp dễ nhìn nhận. Một hậu quả khác
không kém phần nguy hại là hậu quả của buôn lậu dưới góc độ cả về vĩ mô và vi
mô. Nó làm cho cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được tình hình xuất
nhập khẩu và liên doanh đầu tư với ngoài; công tác điều hành của cơ quan chức
năng gặp nhiều khó khăn và hoạt động kém hiệu quả.
Xét về góc độ quản lý vĩ mô, buôn lậu là một trong những nguyên nhân
làm hàng hoá nội địa bị đình trệ trong khâu phân phối và tiêu dùng, sản xuất
trong nước bị đình đốn. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa không cạnh
tranh nổi trên thị trường, nợ nần chồng chất dẫn đến phá sản, kéo theo sự gia
tăng của đội quân thất nghiệp. Buôn lậu còn là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián
tiếp dẫn đến dẫn đến các tệ nạn xã hội, đó là tham nhũng, tha hoá, rượu chè, cờ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16
bạc, trộm cắp…. Do đó, nó làm cho công tác quản lý của Nhà nước thêm khó
khăn, phức tạp. Mặt khác, buôn lậu trực tiếp dẫn đến thất thu về thuế xuất nhập
khẩu và các sắc thuế khác, đây là khoản thu lớn của ngân sách nhà nước. Điều
này ảnh hưởng đến các kế hoạch về kinh tế, tài chính khiến nhà nước mất cân
đối về thu - chi ngân sách. Buôn lậu còn phá vỡ sự bình ổn của thị trường, tạo
nên cơn sốt về hàng hoá và giá cả làm cho nhà nước không quản lý được hoạt
động xuất nhập khẩu; việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội bị sai lệch…
Những hậu quả của buôn lậu đối với quản lý vĩ mô đã trực tiếp và gián
tiếp ảnh hưởng đến quản lý vi mô. Hệ thống pháp luật của ta về quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, nếu không nói là chồng
chéo, mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, những chủ thể buôn lậu, gian đã lợi dụng kẽ
hở, những quy định thiếu chặt chẽ của nhà nước để thực hiện hành vi buôn lậu
trốn thuế. Từ đó việc quản lý của cơ quan nhà nước ở cơ sở gặp nhiều khó khăn
do sự lũng đoạn thị trường của hàng ngoại nhập lậu. Giải pháp đấu tranh chống
buôn lậu, tăng cường hiệu lực kiểm tra, kiểm soát của các ngành chức năng vẫn
chưa được giải quyết tận gốc, buôn lậu đã làm cho một số cơ quan quản lý lúng
túng, bị động, khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội.
Cũng dưới góc độ quản lý, trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hàng ngoại
nhập với lợi thế về giá cả rẻ hơn hàng nội do trốn được thuế, chất lượng tốt, mẫu
mã đẹp nên được tiêu thụ mạnh, tạo nên tâm lý ưa dùng hàng ngoại (như hàng
điện tử, gia dụng,…) trong nhân dân. Nhưng do nguồn hàng không ổn định, giá
cả không ổn định nên buôn lậu là nguyên nhân gây nên những cơn sốt về hàng,
về giá cả hàng hoá làm cho thị trường nội địa không thiết lập, lưu thông hàng
hoá bị rối loạn và gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
- Ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng:
Hành vi buôn lậu có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, giống nòi của cộng
đồng thông qua việc đưa hàng giả, hàng nhái hoặc những loại hàng kém phẩm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17
chất, không đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định của nhà nước tuồn vào tiêu
thụ trong nội địa đặc biệt là các loại hàng hoá phải đảm bảo tiêu chuẩn về vệ
sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về y tế, tiêu chuẩn chất lượng như: Tân
dược, đồ chơi trẻ em, mũ bảo hiểm, rượu, nước giải khát, thức ăn, gia súc, gia
cầm…
Tóm lại những hậu quả và tác hại do buôn lậu gây nên đó là: Làm mất ổn
định giá cả thị trường, kìm hãm sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến môi trường
đầu tư, gây thất thu cho ngân sách cho nhà nước, tạo nên sự cạnh tranh không
bình đẳng giữa hàng nội và hàng ngoại, là nguyên nhân phát sinh các tiêu cực
trong xã hội. Vì vậy tệ nạn buôn lậu phải được ngăn chặn một cách triệt để và là
nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó có lực lượng Quản lý thị trường.
2.1.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu lực chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu
Chỉ tiêu đánh giá hiệu lực và các giải pháp nâng cao hiệu lực chống buôn
lậu được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu sau:
- Sự bình ổn thị trường: Đó là bình ổn về giá cả, hàng năm không có sự
biến động lớn về giá, nhất là những tháng cuối năm gần dịp Tết Nguyên đán.
Mặt khác, chất lượng và chủng loại hàng hóa được kiểm soát tốt, nhất là đối với
hàng hóa yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Hoàn thành kế hoạch, chỉ tiêu định lượng hàng năm được giao như: Số
vụ kiểm tra, xử lý.
- Hoàn thành chỉ tiêu thu nộp ngân sách từ xử lý vi phạm hành chính và
bán hàng tịch thu trong công tác chống buôn lậu.
2.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu
Buôn lậu nảy sinh từ nền kinh tế hàng hóa và là mặt trái của nền kinh tế
thị trường. Tại mỗi quốc gia, mỗi khu vực, mỗi nền kinh tế, hoạt động buôn lậu
có những đặc thù và có những yếu tố tác động riêng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 18
a) Vị trí địa lý
Việt Nam có đường biển dài hơn 3.200 km trải dài từ Móng Cái đến mũi
Cà Mau với nhiều luồng, lạch, bãi ngang, đảo. Biên giới đường bộ dài hơn 3.700
km qua 24 tỉnh, thành phố và tiếp giáp với 3 nước lào, Campuchia và đặc biệt là
Trung Quốc với nhiều đường mòn, lối mở và các cửa khẩu qua lại, giao thương
hàng hóa. Có thể nói, địa hình nước ta thuận lợi cho hoạt động vận chuyển hàng
lậu, hàng giả, đồng nghĩa với việc khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của
các lực lượng chức năng.
Việt Nam lại nằm trong khu vực kinh tế hội nhập, năng động gồm: Trung
Quốc, Thái Lan và nhóm nước NICs (New Industry Countries) Hồng Kông, Hàn
Quốc, Singapore, Đài Loan, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập khu vực. Vì vậy
Việt Nam phải đối mặt với hàng nhập khẩu giá rẻ.
b) Thị trường Việt Nam
Thị trường Việt Nam là một thị trường có nhu cầu lớn và tương đối dễ
tính trong tiêu dùng. Tuy sức mua của người dân vẫn còn hạn chế (do thu nhập
không cao) nhưng với dân số khoảng 90 triệu người có nhu cầu tiêu dùng và đặc
điểm là dễ chấp nhận hàng lậu hay gian lận thương mại, hàng giả và không cần
hóa đơn, chứng từ khi mua hàng. Mặt khác, sản xuất hàng hóa ở nước ta trong
những năm gần đây có những bước phát triển đáng ghi nhận nhưng vẫn khó
cạnh tranh về mẫu mã, chất lượng và giá cả với hàng nhập khẩu.
c) Nhận thức của các doanh nghiệp trong nước
Nhận thức, vai trò, trách nhiệm và sự tham gia của doanh nghiệp trong
cuộc đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và đặc biệt là hàng giả còn
rất nhiều hạn chế. Có thể coi đây là một trong những nhân tố cơ bản dẫn đến
hàng lậu, hàng giả và gian lận thương mại đang xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường
nội địa.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 19
d) Trách nhiệm của các cơ quan chức năng
Ý thức trách nhiệm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện trong công cuộc
đấu tranh chống hàng lậu, hàng giả và gian lận thương mại của các cơ quan chức
năng, các cấp, các ngành ở một số nơi, một số lúc chưa tốt.
Cơ chế chính sách về hoạt động thương mại chưa hoàn chỉnh, còn nhiều
kẽ hở dễ bị lợi dụng; việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn nhiều bất
cập, hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác; lực lượng chức năng thực thi
công tác chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại còn yếu và thiếu, cơ
sở vật chất phục vụ cho hoạt động kiểm tra, xử lý còn nhiều hạn chế
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thực trạng buôn lậu ở một số quốc gia trên thế giới
a) Braxin
Theo đánh giá của liên hiệp mậu dịch toàn quốc Braxin thì số hàng ngoại
đổ vào thị trường nước này trong năm 1997 thông qua các con đường phi pháp
khác nhau đã dạt tới 15 tỉ USD, khiến cho việc thu thuế của Braxin thiệt 4 tỉ
USD. Còn theo con số thống kê gần đây mới được công bố bởi cơ quan chức
năng, hiện nay trong số 3.500.000 chiếc máy điện thoại di động đang được sử
dụng ở Braxin thì có 60% là hàng nhập khẩu phi pháp và trong số máy camera
hiện tiêu thụ trên thị trường có tới 2/3 là sản phẩm buôn lậu.
Theo đánh giá của Chính phủ Braxin kim ngạch buôn lậu vàng và đá quý
hàng năm ở nước này vào khoảng 500 triệu USD, buôn lậu động vật hoang dã
hàng năm vào khoảng 1,5 tỉ USD với khoảng 12 triệu động vật hoang dã đem
bán trong đó có 30% được buôn lậu ra thị trường nước ngoài.
b) Nga
Tình hình buôn lậu ở Nga diễn ra rất nghiêm trọng. Số vụ buôn lậu năm
sau thường tăng cao hơn so với năm trước. Ví dụ : năm 1994 có 43.442 vụ, năm
1995: 83.833 vụ, năm 1996: 160.690 vụ, năm 1997 có 234.442 vụ. 6 tháng đầu
năm 1998 tăng 11% so với cùng kỳ năm 1997.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 20
Mặt hàng nhập lậu chủ yếu vào thị trường Nga là ô tô du lịch, thuốc lá,
thực phẩm, thời trang, giầy dép, Mặt hàng xuất khẩu trái phép ra thị trường
nước ngoài là dầu thô, dầu thành phẩm, gỗ, gang, thép và ngoại tệ.
c) Mê hi cô
Mê Hi Cô là đất nước có hoạt động buôn lậu được liệt vào hạng thứ 7 trên
thế giới. Nhiều thương gia đã thông qua kênh mậu dịch thông thường, lợi dụng
thủ đoạn phi pháp như” báo cao”, “ báo thấp” hoặc “ báo giả” để trốn lậu thuế.
Hoạt động buôn lậu cao cấp này đã khoác lên mình cái áo” mậu dịch hợp pháp”
so với hoạt động buôn lậu phổ thông như nhập khẩu phi pháp thì trốn thuế còn
an toàn hơn và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Do vậy thiệt hại kinh tế mà nó gây
ra đối với Nhà nước cũng tăng rất nhiều. Điều tra của Bộ công thương Mê Hi Cô
cho biết: hiện nay trên 80% hàng nhập khẩu của Mê Hi Cô là có hành vi phi
pháp khiến cho ngân khố nước này mỗi năm thiệt vài tỉ USD gây mối đe doạ
nghiêm trọng tới sự phát triển của ngành công nghiệp truyền thống nước này.
d) Pháp
Theo thống kê của Bộ kinh tế - tài chính Pháp cho biết trong năm 1997
hải quan Pháp đã phá được 110.000 vụ buôn lậu, thiệt hại tài chính lên tới 920
triệu frăng trong đó có 39.000 vụ liên quan tới mậu dịch XNK và số tiền trốn
thuế là 716 triệu frăng.
e) Một số nước khác trên thế giới
- Bêlarút: Đây là đất nước mà ô tô được chọn làm mục tiêu của các tổ
chức buôn lậu, chúng dùng các loại xe container hạng nặng để vận chuyển các
loại xe du lịch. Tính riêng mặt hàng ô tô cũng khiến cho Bêlarút hàng năm thiệt
hại hàng vài trăm triệu USD. Ngoài ra buôn lậu thuốc lá và rượu cũng đang tấn
công vào thị trường nước này theo điều tra của cơ quan chức năng thì trong
thuốc lá nhập khẩu đang lưu hành trên thị trường nước này có tới 30% là nhập
lậu đặc biệt là loại thuốc lá Marllboro thì có tới 50% là buôn lậu. Trong số rượu
cao cấp nhập khẩu đang lưu hành trên thị trường thì có trên 75% là nhập lậu.