Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 11 – BAN CƠ BẢN HỌC KỲ I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.54 KB, 129 trang )

I. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam
1. Phân tích bức tranh đời sống phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ” và
phát biểu cảm nghĩ của anh/chị ?
Bài làm
Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thúy.
Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột
gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình
lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương
vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi
nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa,
tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa
thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ
nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi,
nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và nỗi buồn mơ hồ với những khao
khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ.
Chuyện hầu như chỉ có thế.
Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh
tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có
khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm,
có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu
dàng, nhân ái.
Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo
với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.
Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại…
như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác
phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một
“đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị
tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con
đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm
đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn,


khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối…
Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào
đêm tối”… Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những
mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình
thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ
con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt
đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn,
những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi…
… Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số
phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp,
ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế:
nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối
nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những
cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ
dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.
Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của hai
đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là
tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút,
thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn của
mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém,
sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của
Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả
thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê
thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ
khắc của “ngày tàn””. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ,
nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man
mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là
người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc
em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm

hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây,
bình dị.
Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ
và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và
bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm
khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao
ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em
gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố…” Liên trông thấy
“mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi”
nhưng “chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó…”. Trời nhá nhem tối,
bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên
lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi đi lẫn
vào bóng tối… “Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những
người về muộn từ từ đi trong đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào
Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của
quang cảnh phố
xung quanh”… Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không
sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “không sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên
tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày
đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối
rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có
một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây.
Nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu
nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát
ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ông dõi theo Liên và An
ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con
vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong
truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như
đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về
mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà

văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi.
Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc.
Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như hế, chúng
càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng
đến từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên
nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa
xăm”, “Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê
đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng trưng”; chúng còn nhìn theo
cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi…
Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo
ảnh.
Không thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không
có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi
thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi
tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như
vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời
thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống
đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ
nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam
chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt
và những kỷ niệm sáng tươi…
Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật
tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế,
bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.
Đọc Hai đứa trẻ ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố
huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con
người sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác
của đồng quê vào một “chiều mùa hạ êm như ru” và “một đêm mùa hạ êm như
nhung và thoảng qua gió mát”… Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh

thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm
“êm mát và sâu kín”.
2. Vì sao hai chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua phố huyện.
Thể hiện tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác giả muốn nói điều gì với
người đọc ?
Bài làm
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sáng tác của ông thiên về phản ánh hiện thực đời sống của tầng lớp người nghèo
ở các phố huyện nhỏ và làng quê nghèo. Đọc những truyện ngắn “Gió lạnh đầu
mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”… nhất là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta dễ dàng
nhận ra một lối viết thật tinh tế cùng tấm lòng rất mực nhạy cảm và nhân hậu. Ở
đó, ông chủ yếu đi sâu thể hiện những xúc cảm mong manh mơ hồ trong thế giới
nội tâm nhân vật vì thế truyện ngắn của ông còn được ví như “một bài thơ trữ
tình đượm buồn”.
Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc
biệt được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối mòn
đó, truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam chỉ là
một chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng quên được
tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên. Ngày lại ngày khi đêm về khuya, chuyến
tàu từ Hà Nội về đi qua phố huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải thao
thức và nhẫn lại, hồi hộp chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi vọng.
Câu truyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi
nghe tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện. Tiếp đó, màn đêm buông
xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm trùm lên tất cả
phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó những “hột
sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi trong
đêm… Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật: chiều tàn,
chợ tàn, chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa trẻ nhặt rác,
mẹ con chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên và hai
chị em Liên và An với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ xác. Cuộc sống của

hai chị em thật lay lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi lặp lại thật đơn điệu
và buồn chán. Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh đất cằn cỗi, bạc
phếch.
Nhưng con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi
vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố
huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố
huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng
ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được
nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ
một thế giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng
bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng
bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn
ngủ díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống
vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.
Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một
cách tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi
đêm đã về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở
đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên
“Dậy đi, An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm
tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi
vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị
em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng,
xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Chuyến tàu đêm nay không đông và kém
sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội
sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một
thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội
của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ
trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường
in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta

vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi
nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ được uống những
cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ như in “một vùng
sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác Siêu thật hấp dẫn
nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó
cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của
tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì
Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện
nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”. Liên gối đầu lên tay
và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ mờ đi trong mắt chị”.
Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh
không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết
như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là hình ảnh
gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé Liên. Nhưng đâu
chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng khi tàu về như
“mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ thường ngày
của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội
về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi
tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”. Dường
như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện tại vẫn
le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi sáng của
ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp
của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa
dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của
Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và
hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh
còn hiện tại thì đầy bóng tối. Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong
manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của
Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu
từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ

nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt
sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu
sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của
hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau một ngày dài đầy buồn tẻ.
Không một chi tiết éo le, truyện hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi
hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu
không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố
huyện nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi”
là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé,
tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước
cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng
của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang sách
cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn
vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng
thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân trọng biết
bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước mơ và hi
vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong tương lai.
Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể
vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh
nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng
kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối
này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc.
Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh
(tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã
lùi sâu vào dĩ vãng của ông.
Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế
giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm
trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết
văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng
còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để

ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ
đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến
tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã
mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái gì
tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của bài
thơ trữ tình đượm buồn này.
Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ
trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận
ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng
người đọc.
3. Phân tích tâm trạng chị em Liên đêm đêm cố thức để được nhìn chuyến
tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ - Thạch Lam.
Bài làm
Hai đứa là trẻ một trong những truyện ngắn thường được nhắc tới nhiều nhất
của Thạch Lam. Hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua một phố huyện nghèo thời
trước đã được Thạch Lam miêu tả rất khéo léo, đã nổi lên thành một hình ảnh
đầy ý nghĩa, bộc lộ chủ đề của tác phẩm.
Trước hết, bối cảnh cho chuyến tàu đêm xuất hiện là cuộc sống buồn tẻ, đơn
điệu, đáng thương nơi phố huyện. Thạch Lam đã chọn được thời điểm để làm
nổi bật những tính chất ấy. Truyện bắt đầu từ tiếng trống thu không dội xuống
phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mỏi mòn, giữa lúc trên bầu trời, ánh ngày
đang dần nhường chỗ cho bóng hoàng hôn, phương tây đỏ rực lên như lửa báo
hiệu một ngày đang tắt. Đêm tối sẽ đem tới cho phố huyện những gì? Chỉ có
bóng tối, sự im lặng, mà tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng muỗi kêu trong nhà,
lại khiến cho nó càng trở nên vắng lặng, hoang vu, buồn bã hơn.
Thế ra, giữa thế kỷ hai mươi, thế kỷ của những đô thị đầy ấp ánh sáng, vẫn
có những miền đất, nhiều miền đất, sống trong sự tăm tối của cuộc sống hàng
trăm, hàng ngàn năm về trước như vậy đấy.
Phiên chợ chiều đã vãn, những ồn ào tấp nập của buổi chợ đã tan đi, để lại
phố huyện với thực chất của nó: cái nghèo nàn, cái tiêu điều xơ xác. Những

đứa trẻ con lom khom tìm kiếm trên cái nền chợ xơ xác ấy, giữa những rác
rưởi mà phiên chợ bỏ lại, mong tìm được chút gì đỡ cho cuộc sống. Thật là
một chi tiết đầy ý nghĩa và rất gợi cảm về cái nghèo.
Rồi đêm xuống. Cuộc sống có xôn xao động đậy được chút nào chăng? Quả
cũng có xôn xao một chút đấy, nhưng không vì thế mà vẻ nghèo, vẻ buồn của
cuộc sống lại bớt đi. Bắt đầu là ngôi hàng nước của con chị Tí, với chiếc võng
con, vài ba cái bát, một điếu hút thuốc lào bày ra rồi lại thu vào vì vắng
khách. Tiếp đến là gánh phở có ngọn lửa bập bùng của bác Siêu, cũng vắng
khách vì đó là thứ quá xa xỉ (phở mà trở thành xa xí phẩm, thật là một nhận xét
hóm hỉnh và đầy xót xa của Thạch Lam!).
Chính giữa cảnh tiêu điều như vậy của phố huyện, Thạch Lam đã miêu tả tâm
trạng khắc khoải chờ đợi chuyến tàu của hai chị em cô bé Liên. Đó là hai đứa
trẻ đã từng có những ngày sống ở một nơi không đến nỗi nghèo khổ và tối tăm
như thế. Với chúng, nhất là với bé Liên, nơi ấy Hà Nội luôn đọng lại như một
kỷ niệm xa xôi và mơ hồ nhưng bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ và rực rỡ ánh
sáng. Còn giờ đây, nơi phố huyện, cuộc sống của chúng thiếu hẳn ánh sáng và
niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, chúng chờ bán cho người ta
nhưng món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ,
mấy bánh xà phòng Chiều chiều, trong bóng chập choạng của hoàng hôn và
trong tiếng muỗi vo ve, hai chị em cặm cụi kiểm đếm số tiền bé nhỏ bán được
trong ngày. Chi tiết về chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được Thạch Lam đưa vào
đây thật là đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ mới lớn lên sao mà đã sớm
già nua tàn tạ! Cả chi tiết bà lão hơi điên đến mua rượu uống, cũng gợi lên bao
nỗi buồn. Cái thế giới mà các em Liên và An tiếp cận ngày này qua ngày khác
chỉ có thế. Đây là niềm vui, biết lấy gì mà hy vọng?
May mắn thay, hai đứa trẻ đã tìm được chút niềm vui để mong đợi. Mỗi đêm
chuyến tàu từ Hà Nội sẽ đi qua phố huyện trong mấy phút. Mỗi đêm, hai đứa
trẻ lại chờ đợi chuyến tàu. Hẳn các em đã chờ đợi nó qua suốt một ngày buồn
tẻ của mình. Nhưng nỗi đợi chờ bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều đổ
xuống. Rồi trong đêm tối, những ngọn đèn thắp lên ở đằng kia, bóng hai mẹ

con chị Tí trên đường, ngọn lửa bập bùng của gánh phở bác Siêu, tiếng hát của
vợ chồng bác xẩm mù Với các em, đó là những cái mốc điểm bước đi của
thời gian đang cho các em xích gần lại với chuyến tàu. Mỗi đêm, chỉ có một
chuyến tàu đi qua phố huyện. Các em không thể bỏ lỡ nó. Bởi thế, đã buồn ngủ
ríu cả mắt, An và Liên vẫn cố chống lại cơn buồn ngủ. Cho đến khi, vì chờ đợi
quá lâu trong cái không khí buồn tẻ của phố huyện, bé An không thể thức được
nữa. “Em gối đầu lên tay chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: “Tàu đến
chị đánh thức em dậy nhé!”. Thật là một cảnh chờ đợi thiết tha như mọi sự chờ
đợi thiết tha ở trên đời!.
Trên phố huyện ấy, giữa tâm trạng chờ đợi ấy của hai đứa trẻ, chuyến tàu
đêm được Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và trang trọng làm sao! Chuyến tàu được
báo trước từ xa, với hình ảnh hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài,
vẻ xôn xao của những người chờ tàu, rồi ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất như
ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm khuya kéo dài ra theo
ngọn gió xa xôi. Chuyến tàu đã đến cùng với tiếng còi đã rít lên. Đoàn tàu vụt
qua trước mặt. Bé An đã thức dậy và tâm hồn cả hai đứa trẻ đều bị cuốn hút
bởi chuyến tàu. Các toa đèn đều sáng trưng những toa hạng trên sang trọng,
lố nhố người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Đoàn tàu đã đi qua
nhưng tâm hồn chị em Liên thì vẫn gửi hút theo nó mãi, nhìn nó để lại trong
đêm tối những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh xa xa mãi rồi đi khuất sau rặng tre. Giờ đây, sự tương phản giữa
hình ảnh đoàn tàu với cuộc sống nơi phố huyện càng trở nên rõ rệt trong tâm
trí của đứa trẻ: đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đồng ruộng mênh mang và
yên lặng.
Đọc xong truyện Hai đứa trẻ, người đọc không thể không ngẫm nghĩ về ý
nghĩa sâu xa của hình ảnh chuyến tàu đêm mà Thạch Lam đã cố tình miêu tả
nó để làm nổi lên thật rõ cuộc sống buồn tẻ đáng thương của hai chị em Liên?
Với các em, chuyến tàu ấy là tất cả niềm vui và hi vọng. Đó là Hà Nội trong
quá khứ êm đềm xa xôi. Đó là niềm vui duy nhất để giải toả cho tâm trí sau
một ngày mệt mỏi, đơn điệu và buồn chán. Đó là âm thanh, ánh sáng, vẻ lấp

lánh, của một cuộc đời mà các em hi vọng, một cuộc đời khác, hoàn toàn
không giống với cuộc đời nghèo nàn và tẻ nhạt nơi đây. Có lẽ, qua truyện ngắn
này, Thạch Lam đã muốn nói với chúng ta: có những cuộc đời mới đáng
thương sao, có những ước mơ bé nhỏ, tội nghiệp nhưng chân thành tha thiết và
cảm động làm sao! Nhưng dẫu sao, sự chờ đợi của các em cũng cho chúng ta
một bài học: trong cuộc đời, phải biết vượt lên cái tẻ nhạt, cái vô vị hàng ngày
để mà hi vọng, vì còn có hi vọng, dẫu cho hi vọng rất nhỏ bé, thì mới có thể
còn gọi là sống.
Hai đứa trẻ không thuộc loại truyện hấp dẫn người đọc vì sự ly kỳ hay gay
cấn của cốt truyện. Sức mạnh và sức sống của nó nằm trong vấn đề mà nó đặt
ra và cả trong thái độ của Thạch Lam đối với cuộc sống: một thái độ ấp iu đầy
lòng nhân ái. Chính thái độ ấy cũng ảnh hưởng đến cách viết của Thạch Lam:
tỉ mỉ và trân trọng. Truyện tuy hơi buồn nhưng nó giúp cho con người thêm
yêu thương con người.
4. Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong không gian phố huyện (Hai đứa
trẻ - Thạch Lam)
Bài làm
Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 như một làn "gió đầu
mùa" tinh khiết, êm nhẹ. Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình
người đằm thắm trong một giọng văn tha thiết. Cái đẹp tự lan toả, "tiềm tàng
trong mọi vật bình thường" khiến cho "lòng người thêm trong sạch và phong phú
hơn". Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm hồn từ ngay những mảng
đời chìm trong bóng tối.Truyện ngắn Hai đứa trẻ - câu chuyện về hai chị em ở
phố huyện nghèo - như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế giới trẻ thơ gợi lại
cho mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về
thân phận con người.
Trong văn xuôi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được
những nét đẹp tiềm ẩn trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn
Tự lực Văn đoàn, những anh em của Thạch Lam cũng hay nói về cảnh nhà quê,
người nhà quê nhưng đã tước đi vẻ hồn nhiên tươi tắn chân thực của cuộc sống

ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả, đôi chút khinh miệt. Có lẽ,
trong số anh em họ Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu nặng hơn cả
với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà văn, phố huyện Cẩm Giàng
(Hưng Yên) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến
cho ông khi viết về hình ảnh phố huyện vẫn còn vẹn nguyên những ấn tượng sâu
đậm của tuổi thơ. Hai chị em Liên và An chính là những gì Thạch Lam yêu mến,
gắn bó thuở thiếu thời.
Người đọc không thể nào quên ấn tượng về một không gian phố huyện chuyển
dần vào bóng đêm. Những âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương
tây cháy rực gieo vào lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một phiên chợ chiều tàn, dăm
đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương vãi xung quanh chợ không chỉ đánh động
tình thương củacô bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn khiến chúng ta cũng bồi hồi vì
những nét thân thuộc của quê hương, một "mủi riêng của đất, của quê hương
này". Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra cái hồn quê hương dìu
dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người
phố huyện. Tất cả những gì nhà văn mô tả đều hết sức bình thường trong một câu
chuyện không có cốt truyện. Khung cảnh và những con người đều như hướng vào
một chủ đích của nhà văn: khắc hoạ những nét bình dị, lặng lẽ trong một không
khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của cuộc sống quẩn quanh không
lối thoát.
Những nhân vật phố huyện: mẹ con chị Tý với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia
đình bác Xẩm từng ấy nhân vật đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện. Đó là
những con người đang lầm lũi trong cuộc mưu sinh, tâm trạng lúc nào cũng lo
toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi, không phải là những người khách mà chính
là đang mòn mỏi hy vọng . Những cuộc đời trong bóng tối ấy, cũng giống như
không gian phố huyện kia, dày đặc tăm tối nhưng vẫn loé lên ánh sáng của một
thế giớ khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng không hề lịm tắt.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sống phố huyện gắn với ba thời
điểm nối tiếp: hoàng hôn - tối - khuya. Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát
vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hoàng

hôn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống
của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn những dư vị của bóng tối.
Đó là thời điểm bắt đầu những lo toan của thế giới người lớn nên "bóng tối ngập
đầy dần" đôi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những con người "đi lần vào bóng
tối", "từ từ đi vào bóng đêm" và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những
bóng đời chập chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là
"nguồn sáng" xa lạ của những vì sao trên trời. Là những "khe sáng", "quầng
sáng", "hột sáng" mong manh của những con người cùng sống nơi phố huyện
nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được
những ám ảnh bóng tối. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ. Những ngày
tháng êm đềm của chị em Liên khi cảnh nhà chưa sa sút. "Vùng sáng rực và lấp
lánh" của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng của Liên: "Đêm
tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa". Đó là sự chấp nhận, là thực tế
đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ. Hoàn cảnh
không cho phép hai chị em Liên - An được sống bình thường như bao đứa trẻ
khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có ánh sáng, đang cằn cỗi
dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc ẩn trước
"mấy đứa trẻ con nhà nghèo", còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi
đùa, nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh nghèo dễ khiến tạo ra mặc
cảm, dù cho là những đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muốn để cho những
cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận những con người nghèo khổ, bằng thái độ
trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao
đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong manh nhất: "Chừng ấy
người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng
ngày của họ"
"Một cái gì tươi sáng hơn", bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những
trông ngóng mơ hồ. Nhà văn không thể chỉ ra "con đường sáng" cho những con
người nghèo khổ ấy. Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo tưởng như những cây bút
Tự lực Văn đoàn khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để mong chờ một
thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một tình thương bố thí nửa vời. Ông cũng

không trông chờ nhiều vào hoạt động của "Hội Ánh sáng" do các anh em của ông
tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực giác và sự nhạy cảm của tâm
hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn lên
của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng
hình tượng chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện.
Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để
cho những người bán hàng đêm như chị em Liên mong "may ra còn có một vài
người mua". Nhưng vượt lên cuộc sống thường nhật mà nỗi thất vọng lớn hơn
niềm hy vọng, là sự háo hức trông đợi chuyến tàu "mang ánh sáng của một thế
giới khác đi qua" để con người không đánh mất niềm tin vào sự sống . Vì vậy
Thạch Lam đã dành những câu văn thật tinh tế để diễn tả cảm giác đợichờ ở Liên
và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở người đọc. Không
chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô
bé Liên có tự hào về chiếc chìa khoá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ
làm người đọc buồn và thương cảm cho một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà
Thạch Lam làm cho người đọc yêu mến nhân vật chính là khoảnh khắc ông giúp
phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: "Liên khẽ quạt cho em, vuốt lại mái
tóc tơ ( ) Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm
bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai
Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những
cvảm giác mơ hồ không hiểu". Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt
ngào của tình cảm nhà văn dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc.
Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳng không thể để tâm hồn ngập dần trong bóng tối.
Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến tàu đêm khác hẳng mọi
người: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui vẻ và
huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Ánh sáng rực rỡ
của con tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về tương lai, đánh thức sức sống
mãnh liệt của tâm hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà
đêm nào cô cũng được sống trong những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng
mạn bao giờ cũng là cơ sở của hành động. Thạch Lam đã đem đến một thông

điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân văn của tác phẩm: hãy tin
tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như
không gian phố huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng
vẫn hướng về ánh sáng. Cảm quan lãng mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn,
nhưng cũng giúp cho người đọc thêm yêu mến những con người nghèo khổ đầy
hy vọng.
Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sống dậy
những tình cảm gắn bó với quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân
thương. Có thể xem đó là một khía cạnh kháccủa tâm hồn nhân ái Thạch Lam.
Ông nói về những cảm nhận của hai chị em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn
kết giữa con người với mảnh đất. Dường như những hương vị bình thường, mùi
đất, mùi chợ cũng là một phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng là sự tha
thiết trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất Cẩm Giàng từng lưu dấu tuổi thơ.
Những chi tiết bình thường nhất nơi phố huyện còn lan toả cảm giác ấm áp ân
tình của Thạch Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể
lãng quên và không được phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà
văn thương mến nhất.
Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng "Thạch Lam
là một người Việt Nam thành thực nhất", có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và
những con người nghèo khổ qua những trang văn thấm đượm tình người, những
trang văn "rất nhiều Thạch Lam trong đó". Độ chân cảm từ những trang văn
Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc còn bồi hồi xúc động./.
5. Nêu cảm nhận về bức tranh phố huyện trong tác phẩm "hai đứa tr ẻ"?
Bài làm:
Nếu như các nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả
những gì đẹp nhất ,tronh sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi
riêng.Dưới con mắt của ông , đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả
trời đất ,quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau .Ngòi bút Thạch Lam
hoà cùng cuộc sống ,lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ
đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà

ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực ,lẩn quẩn của con người.
Bức tranh đời sống phố huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với
cảnh chờ tầu của chị em Liên và mọi người.Toàn bộ bức tranh là bóng tối
,bóng tối lan toả ,bao trùm lên cảnh vật ,tạo nên bầu không khí nặng nề ,u
uất.Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một mầu đen xám xịt .Bóng tối ở rặng
tre ,bóng tối ở góc quán ,bóngtối ở ánh sáng lập loè của đom đóm. Tất cả ,tất
cả đều chìm vào bóng tối .Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không
sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm , đè nặng lại càng trở nên côi cút ,lẻ loi
đến tội nghiệp . Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng vào lúc
nửa đêm .Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách
.Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh Những hình ảnh lẻ loi , đơn chiếc ấy
cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc ,lan toả đang
dần đẻ lên cuộc sống của họ -những con người mà số lượng có thể đếm được
trên đầu ngón tay “mấy chú” , “mấy người” .Bóng tối cùng người bạn đồng
hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người .Thời gian bỗng chốc
trở nên im lặng , uất ức đén kỳ lạ. Không gian bị thu hẹp còn vài mảnh đời
nho nhỏ .Không khí nặng nề như dồn nén bao nhiêu uất nghẹn của kiếp
người .Bửctanh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
Nhưng Thạch Lam -người nghệ sĩ của tâm hồn ấy ,không dừng lại ở khắc hoạ
bóng tối.Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng
sợ hơn .Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo . Đó là gia đình chị em Liên ở
do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên;là gia đình bác
Xẩm ;là gánh hàng chị Tý ;là quán phở của bác Siêu Những mảnh đời nghèo
khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào.Cả một sự
tẻ nhạt đén kinh khủng hiện ra .Chỉ qua một chi tiết nhơ:Chị em Liên không
ngoái lại cũng biết tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi ,nhìn đốm sáng xanh
lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu .Dường như bao
năm ,bao tháng rồi họ chỉ một công việc lặp đi lặp lại đó.Một công việc nhàm
chán ,tẻ nhạt như chính cuộc đời họ.Nhưng sự việc ấy làm cho cuộc sống của
họ thêm tù túng ,ngột ngạt ,không có lối thoát ,không biết đi đâu . Đối với

họ,tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn,quẫn bách .Trước
mắt họ ,tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hy vọng điều gì ,không
ngóng đợi ai .Hiện tại chỉ là những nghèo khó,cơ cực ,tù túng cùng những
công việc nhàm chán .Bức tranh ấy xoay lên nỗi đau trong tâm hồn độc giả ,bật
lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.
Tất cả những hành động ,sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo
đều lặp lại và nhàm chán.Duy chỉ có con tàu tuy vẫn lặp lại nhưng không nhàm
chán . Con tàu là hiện thân của ước vọng ,của tương lai đối với mọi người .Ho
tìm kiếm với con tàu ,chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ
một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu .Con tàu đó
với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn u uất lặng nề, với ánh sáng chói
lọi ,rực rrỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ .Với chị
em Liên ,con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung
túc ở Hà Nội ,là chút gì mới mẻ ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai.Hình
ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của cuộc sống để lại ước
mơ - một ước mơ hết sức tội nghiwpj cho mõi con người
Nếu như nhà văn thuộc Tự Lực Văn Đoàn đã xa rời thực tại ,thi vị hoá cuộc
sống thì Thạch Lam lại gắn chặt với ngòi bút với đời sống ,dù ông là thành
viên củ cốt của văn đàn ấy.Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say
đắm ,khi đâu đớn ,lúc xô bờ (Hồn bướm mơ tiên, trăng sáng ,tình tuyệt
vọng )thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay
động đến cõi sâu thẳm của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi
đau.Với phong cách vừa lãng mạn ,vừa hiện thực ,ngòi bút Thạch Lam thực sự
xuất xắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ ,cùng nỗi đau âm thầm
,nhẹ nhàng nhưng khi sắp sách lại ta không sao quên được. Không phải là
những nụ cười đến thắt ruột ,cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan ,không
phải là cái xót xa đến tận xương tuỷ như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ
nhàng ,tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và
cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời , đem
đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

Dù chưa mạnh mẽ và nhất quán ở hành động như một số nhà văn giàu tính
cách mạng, nhưng với quan niệm nghệ thuật sâu sắc và đúng đắn :Văn chương
không phải là một cách để thoát ly hay lãng quên ,mà trái lại ,văn chương
“phải thực sự là thứ vũ khí thanh cao và đắc lực”,là tiếng kêu thương thoát ra
từ những kiếp lầm than ,khổ cực ,Thạch Lam đã khác xa với những nhà văn
lãng mạn cùng thời và bức phù điêu quý giá ấy của ông nơi Hai đứa trẻ sẽ còn
mãi xúc động đối với người đọc.
II. Tác phẩm “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân
1. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử
tù”
Vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là phong trào văn học lãng mạn(1930-1945) toả ngát
những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một
bông hoa ngát hương: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân-tác phẩm viết về một
thời đã qua nay chỉ còn vang bóng trong Vang bóng một thời truyện ngắn Chữ người
tử tù có một giá trị thiêng liêng, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động
cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất
khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao (HC), HC là kết tinh, là hội
tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì
tinh khiết nhất, cap đẹp nhất.
HC là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người
có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. HC phảng
phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc,
là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám
đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối
nát, bỉ ổi. Phải chăng, Nguyễn Tuân(NT) đã mượn HC để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt
khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quá lên một hình tượng HC mà cái đẹp của tài hoa
quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy
gian khổ, coi khinh cái chết. Tư thế của HC hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền
đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng HC trước hết phải nhắc đến cái
tái. HC là một người viết chũa đẹp. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung

Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý và chơi chữ đẹp là
biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống
dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao,
thèm muốn. Ngào ra, HC còn có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không
người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung
hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình PK mục nát. Tất cả những
tài năng đó làm thành một HC có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một
trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để
chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội PK bóc lột người, nhân tài như lá mùa
thu ấy thì HC hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải-
một anh hùng thời cổ:
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn
Song vị hùm thiêng HC này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng HC vẫn kiên cừơng, bất
khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra HC là một người có tài mà
ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền, trước một cái chết treo
lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của HC, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân
trọng cái tâm của HC. Bởi Cái tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du).
Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đày sức chinh phục như nét chữ của ông
vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây.
Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữu mình
theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không!
HC không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà
làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị
bát, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc
nuối, hối hận. HC- ngôi sao Hôm chính vị ấy- bước vào ngục trong tư thế thật hiên
ngang, khí phách ung dung. Trong con mắt của bọ lính ông thật cao thượng, bất khuất,
khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn
ngang tàn, lạnh lùng. HC ung dung, lãnh đạm dỗ gông trước mạt bọn lính, không thèm
chấp mấy lời đe doạ. Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, coi như
mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mát

nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không
run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ
dám làm dám chịu.
Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt cuả quản ngục: Ngươi hỏi ta
muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.
Con người khuấy nước trọc trời chẳng biết nể sợ ai. Nừu trong đời thương trừ chỗ tri
kỷ, ông ít chịu cho chữ, nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình
viết câu đối bao giờ, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt
của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được
ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con
người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời, ngang tàn đó phải chăng
làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Hc đã mang đén chốn lao tù, cho cái địa
ngục sống này một ánh sáng ký ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm
người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên bầu
trời đầy u ám của nhà tù.
HC- vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một
con người có trài tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của quản ngục, HC đã rất cảm động.
Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng
với hai người bạn bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: Ta cảm cái tấm lòng biệt
nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người thầy quản đay lại có cái sở
thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữ ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Sự
biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng.
Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao quý, hướng về văn minh,
văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ biệt
nhỡn liên tài của HC đối với quản ngục không phải sự liên tài sự trả ân đối với người
đã đối xử tử tế, biết chơi chữ của mình, mà là sự trân trọng, cảm đọng trước một nhân
cách Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Quản ngục sống giưũa bùn nhơ nhớp mà
vẫn giữu được thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp. Đó đúng là một đoá sen
trong bùn.
Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh HC cho chữ. Nó bộc lộ

trọn vẹn nhất vẻ đẹo nhân cách HC. ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào
hết. Dưới ngòi bút của NT, một cảnh tượng đày kịch tính diễn ra, một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có. Đó là sự tương phản giữa một bên là một buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt, tương đày mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián với một bên là tấm lụa
trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba
đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch nguyên vẹn.
Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền
văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái
đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa đê tiện và cái trong trẻo cao
thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với
trình độ nghệ thuật điêu luyện, sức sảo, gần đạt đến sự hoàn mĩ( Vũ Ngọc Phan ).
Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực-bó đuóc của trí tuện, của niềm tin, của hy vọng và
trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, HC dồn hết tâm linh, sinh
lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa xa, bẩn thỉu đang
tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào một sự vật :tấm lụa bạch nguyên vẹn.
Đúng thế, ở đay chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính tấm lụa trắng
tinh này mà ông HC đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức

×