Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 192 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


Trần Thị Thanh Thảo



ĐẶC ĐIỂM CỦA TIÊU ĐỀ VĂN BẢN
TRONG THỂ LOẠI TIN TỨC



Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRỊNH SÂM



Thành phố Hồ Chí Minh – 2009


MỞ ĐẦU



1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Hiện nay, báo chí và ngôn ngữ báo chí đóng một vai trò thông tin
quan trọng trong đời sống xã hội. Một trong những yếu tố có tính chất khêu
gợi, đánh vào sự chú ý của người đọc, đó là tiêu đề văn bản (TĐVB).
Có khá nhiều cách đặt tiêu đề (TĐ) cho văn bản (VB) báo chí. Tuy
nhiên, lựa chọn cách này hay cách khác lại lệ thuộc vào từng tình huống, hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể. Song, dù thế nào thì mỗi TĐ nên vừa nêu được thần thái
của bài viết vừa gợi trí tò m
ò cho độc giả.
Bộ phận TĐ luôn giữ một vai trò quan trọng trong một VB. Nó là yếu
tố đầu tiên, là cánh cửa để người đọc mở vào VB. Người đọc có lựa chọn VB
này không là nằm ở TĐVB có thu hút, có hấp dẫn hay không. Đối với một
VB tin tức, vai trò của TĐ lại càng đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, từ trước
đến nay, nghiên cứu về đặc điểm của TĐVB báo chí về phương diện ngôn
ngữ và kí hiệu vẫn chưa được quan tâm
nhiều.
Xuất phát từ nhiều phương diện khác nhau, luận văn này chọn TĐVB
trong thể loại tin tức làm đối tượng khảo sát.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đặc điểm của TĐVB tin tức. Trên cơ sở kế
thừa những nghiên cứu đã có, đồng t
hời dựa trên những khảo sát TĐ báo chí
(trong đó giới hạn đối tượng ở báo viết, không đề cập đến báo hình, báo nói
và báo điện tử) ở thể loại tin tức (giới hạn như đã nêu ở tên đề tài), luận văn
cố gắng khái quát một số đặc điểm của TĐVB tin tức.

2
2.2. Phạm vi nghiên cứu

TĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tiếp nhận bài báo của người
đọc. Bài báo có trở nên thu hút hay gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho người
đọc hay không được quyết định bởi TĐ bài báo. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu, khảo sát về các đặc điểm của TĐVB tin tức là công việc có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, trong phạm vi có thể, luận văn nghiên cứu đặc điểm chung
về báo chí, về TĐVB báo chí, trong đó đi sâu vào đặc điểm TĐ tin tức. Qua
khảo sát 1000 đơn vị TĐVB tin tức điển hình và 1000 đơn vị TĐVB tin tức
không điển hình, nỗ lực mà luận văn hướng tới là nhận diện các đặc điểm về
hình thức, nội dung, ngữ dụng và chức năng giao tiếp của TĐVB tin tức.
3. Lịch sử vấn đề
Những năm gần đây, khi m
à báo chí đã phát triển vượt bậc và ngày
càng chứng tỏ được thế mạnh cũng như vị trí, tầm quan trọng đối với đời sống
xã hội thì ngày càng có nhiều nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí nhằm nâng cao
hơn nữa nghiệp vụ báo chí. Có khá nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận ngôn ngữ
báo chí từ nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ chuyên môn nghiệp vụ báo
chí, cũng như là bài giảng dành cho sinh viên báo chí, Vũ Quang Hào 2004
(“Ngôn ngữ báo chí”,

Nxb ĐHQG Hà Nội) đưa ra nhiều ý kiến rất có giá trị,
nhưng xét về thuần tuý ngôn ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu làm nổi rõ đặc
điểm ngôn ngữ báo chí. Tác giả cùng những sinh viên khoa báo chí như
Nguyễn Đức Thắng 1995 trong luận văn “Tính hấp dẫn của tít báo Việt ngữ”,
Nguyễn Thu Hà 1994 trong luận văn “Về những khiếm khuyết của một số tít
báo… tiếng Việt, theo cách nhìn của ngôn ngữ học”, Nguyễn T
hị Mai 1998
trong báo cáo khoa học sinh viên “Về đặc trưng ngôn ngữ của tít báo và
những thủ pháp đặt tít thông thường” đã cho thấy được tầm quan trọng của
ngôn ngữ tít báo. Tuy nhiên những bài viết chỉ tập trung nhiều ở lĩnh vực báo


3
chí. Thuật ngữ tít, theo Vũ Quang Hào 2004, còn được gọi là đầu đề, tiêu đề,
nhan đề… nhưng tác giả đề nghị và chấp nhận dùng thuật ngữ tít. Tác giả cho
rằng đây là một thuật ngữ báo chí, lại vừa một từ nghề nghiệp, được dùng phổ
biến và có tính quốc tế. Ngoài ra, thuật ngữ này có khả năng phái sinh cao,
tiện lợi cho việc gọi tên các khái niệm phái sinh, và tiện lợi cho việc gọi tên
các thao tác xử lý tít.
Nguyễn Tri Niên 2003, cũng xem
xét vấn đề này dưới quan điểm của
báo chí học. Tuy nhiên, tác giả này lại có sự phân biệt rạch ròi giữa ngôn ngữ
báo chí và ngôn ngữ (“Ngôn ngữ báo chí”, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, tr.13).
Xuất phát từ bản chất của thông tin báo chí, tác giả đã chỉ ra được ba đặc
điểm của ngôn ngữ báo chí nhưng chưa xuất phát từ bản chất nội tại của ngôn
ngữ. Hoàng Anh 2003, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí xuất
phát từ góc độ chức năng và nhận định nét đặc trưng bao trùm
của ngôn ngữ
báo chí là có tính sự kiện (“Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí”,
Nxb Lao Động). Tuy nhiên, cũng như phần lớn các nhà nghiên cứu dưới quan
điểm của báo chí học, tác giả chưa làm nổi bật được tính chất ngôn ngữ của
báo chí.
Dưới góc độ của một nhà văn, Hà Minh Đức 2000 t
rong “Cơ sở lý
luận báo chí. Đặc tính chung và phong cách”, (Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội) đã có sự so sánh ngôn ngữ báo chí với ngôn ngữ văn học “Ngôn ngữ báo
chí và ngôn ngữ văn học là những hình thái ngôn ngữ được phổ biến rộng, và
có tính chuẩn mực cao”. Theo tác giả, ngôn ngữ báo chí chủ yếu là ngôn ngữ
chính luận, đảm nhiệm chức năng thông tin. Những vấn đề tác giả đưa ra là
những gợi mở vô cùng bổ ích cho việc nghiên cứu ngôn ngữ báo chí.
Dưới góc độ ngôn ngữ, Trần Thanh Nguyện năm 2004, trong luận văn

thạc sĩ khoa học Ngôn ngữ (Trường Đại học Sư phạm, T.P
. Hồ Chí Minh) về
đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ của các văn bản báo chí” đã phần nào làm sáng tỏ

4
những đặc điểm ngôn ngữ của báo chí. Nguyễn Đức Dân từ lâu đã quan tâm
đến ngôn ngữ báo chí và có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này. Trong bài
viết “Dấu ngoặc kép trong những đề báo” đăng trên báo Kiến thức ngày nay,
số 218, 1996, tác giả chú ý đến vai trò quan trọng của dấu ngoặc kép trong
những đề báo. Trong một số bài nghiên cứu khác, tác giả xét hàm ý của TĐ
báo chí ở phương diện ngữ dụng, chú ý về mặt sử dụng những TĐ báo chí có
dẫn những lời trong bài hát và tục ngữ, thành ngữ (“Ý tại ngôn ngoại, những
thông tin chìm trong ngôn ngữ báo chí”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, 2004, “Vận
dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên báo chí”, Tạp chí Ngôn ngữ, số
10, 2004).
Trong tác phẩm “Ngôn ngữ báo chí. Những vấn đề cơ bản”(Nxb
Giáo dục, 2007), Nguyễn Đức Dân hệ thống hoá và đề cập đến những vấn đề
cơ bản nhất của ngôn ngữ báo chí. Tác giả đi sâu vào tìm
hiểu đặc điểm và
khả năng hoạt động của tiếng Việt trong báo chí, giúp ích cho những người
làm báo phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt một cách hiệu quả nhất trong
lĩnh vực chuyên môn của mình.
Nghiên cứu TĐVB báo chí không thể không đề cập đến ngôn ngữ báo
chí vì TĐ, dù là bộ phận hữu cơ hay độc lập với nội dung văn bản (NDVB)

vẫn phải tuân theo những quy tắc của ngôn ngữ. Đặt TĐ có ý nghĩa rất quan
trọng, quyết định số phận bài báo, cho nên công việc này do những biên tập
viên kinh nghiệm, có nhiệm vụ đặt TĐ sao cho lôi cuốn, thu hút độc giả. Nói
cách khác, TĐ có thể nâng tầm hay hạ thấp giá trị bài báo. Và TĐ hay dở
cũng liên quan đến việc độc giả có quyết định đọc hay không đọc bài báo.

Tuy nhiên, cho đến nay, nghiên cứu về TĐVB báo chí vẫn còn khá ít
ỏi vì
lĩnh vực này còn mới mẻ. Có thể kể đến Cao Xuân Hạo 2006 (“Tiếng Việt- Sơ
thảo ngữ pháp chức năng”, Nxb Khoa học xã hội, tr.388) tuy đề cập đến vấn
đề một cách gián tiếp nhưng có một nhận định đáng lưu ý “Xét về chức năng
thông báo, tiêu đề là một thứ chủ đề mà phần thuyết là cả bài văn, bài báo

5
kia”. Bùi Khắc Việt 1978 đã khảo sát TĐVB trong bài “Phong cách ngôn ngữ
trong tên các bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Hồ Lê 1982 phân tích
nguyên nhân hấp dẫn trên cứ liệu TĐVB các bài báo của Hồ Chí Minh qua
bài viết “Nhờ đâu những tiêu đề bài viết có sức hấp dẫn” (Ngôn ngữ S.P, số 1
năm 1982). Nguyễn Thị Tuyết Ngân 1992 lại chú ý đến mặt sử dụng TĐVB ở
việc ngắt dòng không đúng chỗ trong việc trình bày mĩ thuật của TĐ trên
trang báo (“Cách ngắt dòng trong việc trình bày đầu đề ở các văn bản”, Ngôn
ngữ và đời sống, 1982). Hoàng Anh t
rong tác phẩm “Một số vấn đề về sử
dụng ngôn từ trên báo chí” (Nxb Lao Động, 2003) xuất phát từ một góc nhìn
tổng thể về các phương diện ý nghĩa- chức năng, đã thử phân loại TĐ báo chí
thành một số kiểu cơ bản.
Rải rác trên các tạp chí chuyên ngành có các bài nghiên cứu về TĐ
báo chí, nhưng chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu một vài khía cạnh nào đó và

phần lớn đều có sự so sánh với TĐ báo chí nước ngoài như báo tiếng Anh,
Nga. Có thể kể đến bài viết “Một số nhận xét về đặc điểm ngôn ngữ của các
đầu đề trong báo chí tiếng Anh hiện đại” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 9+10, 2001)

của Nguyễn Thị Thanh Hương, khảo sát khá khái quát và toàn diện về đặc
điểm ngôn ngữ của các đầu đề trong báo chí tiếng Anh hiện đại. Mặc dù tác
giả khảo sát TĐ báo tiếng Anh, nhưng những vấn đề tác giả đưa ra phần nào

chỉ dẫn cho việc vận dụng vào tiếng Việt. Cũng tác giả này trong bài viết
“Trích dẫn trong báo tiếng Anh”, (Tạp chí Ngôn ngữ, số 14, 2002) đã đề cập
đến một loại TĐ trích dẫn trong báo tiếng Anh. Cùng hướng nghiên cứu về
TĐ trích dẫn, Trần Thanh Nguyên có bài “Về kiểu tiêu đề mô phỏng trên các
văn bản báo chí” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 10,

2003) đã nêu vấn đề
này một cách chi tiết và sâu rộng hơn, giúp làm phong phú thêm diện mạo của
TĐVB báo chí. Nguyễn Thị Vân Đông “Đôi điều nên biết về tiêu đề báo chí
tiếng Anh và tiếng Việt”, (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 11, 2003) tập

6
trung chủ yếu vào một số nét về đặc điểm của TĐ và một số kinh nghiệm viết
TĐ báo của báo chí phương Tây với các dẫn chứng trong báo tiếng Anh và
tiếng Việt. Cũng tác giả này, năm 2005 có bài viết “Tiêu đề báo tiếng Anh và
tiếng Việt dạng ngữ cố định” ( Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1+2, 2005)
cho rằng việc sử dụng ngữ cố định để đặt TĐ cho các bài báo được các nhà
báo khai thác triệt để nhằm thực hiện một cách có
hiệu quả những yêu cầu về
chức năng và đặc điểm của báo chí. Trong một bài báo “Từ trái nghĩa trong
các tiêu đề trên báo chí Nga” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 2007), Vũ Thị Chín
nhận định việc sử dụng từ trái nghĩa là một trong những thủ pháp yêu thích và
được sử dụng rộng rãi trong các TĐ trên báo chí Nga. Trong một bài nghiên
cứu gần đây “Đặc điểm ngôn ngữ báo chí nhìn từ hoạt động báo chí
ở thành
phố Hồ Chí Minh” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 12, 2008), Trịnh Sâm
đã nêu đặc điểm ngôn ngữ báo chí nhìn từ hoạt động báo chí ở thành phố Hồ
Chí Minh. Điểm mới trong bài nghiên cứu này là tác giả khái quát một số mô
hình VB báo chí dựa vào mô hình kim tự tháp giúp nhận diện thông tin hạt
nhân và thông tin vệ tinh được phân bố trong VB báo chí. Lê Đình 2009 trong

một bài viết góp ý về cách đặt TĐ một số bài báo đã nhấn mạnh mối quan hệ
giữa TĐ với nội dung bài báo là “mối quan hệ giữa phần tóm
lược, phần tổng
thể với phần miêu tả và thuyết minh về nó” (“Mèo Trạng Quỳnh ăn rau”
không phải là “Mèo ăn rau” (góp ý với cách đặt tiêu đề một số bài báo)”,
Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1+2, 2009). Tác giả phê phán sự lẫn lộn
giữa các kiểu định danh xuất hiện khá nhiều trong các TĐ báo, từ đó góp ý về
cách đặt TĐ phản ánh đúng hiện thực khách quan trong phần nội dung bài
báo, tránh làm
cho độc giả nhận thức lệch lạc về xã hội.
Nghiên cứu về TĐ báo chí đã ít, nghiên cứu riêng về thể loại tin tức
càng hiếm hoi hơn. Trịnh Sâm trong một công trình nghiên cứu TĐVB tiếng
Việt “Tiêu đề văn bản tiếng Việt” (Nxb Giáo dục, 2000)

đã đáp ứng một cách

7
đầy đủ và toàn diện về lĩnh vực TĐVB, trong đó tác giả đã khảo sát khá
phong phú các TĐ của nhiều thể loại thuộc phong cách báo chí. Tuy nhiên, ở
thể loại tin tức, tác giả chỉ dừng lại ở việc khái quát đặc điểm chung của
TĐVB tin tức. Nguyễn Thị Việt Thanh “Về một số hiện tượng ngôn ngữ đặc
trưng của văn bản tin tiếng Việt” đăng trong Ngôn ngữ số 11 năm
2001 có đề
cập đến TĐVB tin. Tuy nhiên ở bài viết của mình, tác giả chỉ xét đầu đề (cách
gọi của tác giả-LV) với tư cách là một bộ phận hữu cơ của VB có quan hệ
nhất định với bộ phận nội dung chính.
Nghiên cứu TĐVB nói chung và TĐVB thể loại tin tức nói riêng có
thể từ nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này, hướng tiếp cận của chúng
tôi chủ yếu ở phương diện ngôn ngữ học.
Tuy nhiên, để có thể nêu một cách

hệ thống, bài bản về đặc điểm của TĐVB trong thể loại tin tức, chúng tôi sẽ
tiếp cận linh hoạt nhiều phương diện có quan hệ giao nhau với ngôn ngữ học
như phương diện xã hội học và kí hiệu học.
4. Phương pháp nghiên cứu và sưu tầm tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng một cách linh hoạt nhiều phương pháp khác nhau.
* Phương pháp phân tích ngữ dụng, chú ý đến đặc trưng ngữ cảnh.
* Phương pháp ngữ nghĩa- cú pháp:
là phương pháp đặc trưng để
nghiên cứu cấu trúc - chức năng của các quan hệ.
* Phương pháp mô hình hoá: sử dụng phương pháp này dưới dạng các
bảng biểu, sơ đồ nhằm trình bày nội dung một cách giản lược và tiết kiệm.
* Phương pháp thống kê, phân loại: thống kê số lượng TĐVB, phân
loại ngữ liệu theo chủ điểm
nghiên cứu. Trong việc khảo sát TĐVB tin tức,
phân loại theo tin tức điển hình và tin tức không điển hình.
Các học giả như Lakoff G. 1986, Brown C.H. 1990, Tversky B. 1990...
đều định nghĩa điển dạng như là “thí dụ đạt nhất của một phạm trù”, “thí dụ

8
nổi bật”, “trường hợp rõ nhất trong các thành viên phạm trù”, “đại diện tiêu
biểu nhất của các vật được bao hàm trong một lớp”, “thành viên trung tâm và
điển hình” [65].
Trong cách gọi khái niệm điển hình, luận văn cũng dựa trên cách hiểu
điển hình là đại diện tiêu biểu nhất của các vật được bao hàm trong một lớp,
là thành viên trung tâm, rõ nhất trong các thành viên phạm trù.
+ Trong nhận thức của chúng tôi, tin tức điển hình là những tin tức đề
cập đến những nội dung t
hời sự chính trị quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn
trong và ngoài nước.

+ Tin tức không điển hình là những tin không mang tính thời sự chính
trị quan trọng, mà chỉ đề cập đến một lĩnh vực nào đó như tin về an ninh trật
tự, văn hoá- văn nghệ, thể thao, đời sống xã hội trong và ngoài nước.
Từ khái niệm tin tức điển hình, tin tức không điển hì
nh, trong luận
văn này, chúng tôi phân loại các đề tài của bản tin thời sự-chính trị, ngoại
giao, khoa học-kĩ thuật, kinh tế quân sự trong và ngoài nước xếp vào VB tin
điển hình; bản tin an ninh- trật tự, văn hoá- văn nghệ, thể thao, đời sống xã
hội trong và ngoài nước xếp vào VB tin không điển hình.
4.2. Sưu tầm tư liệu
Số lượng TĐVB thu thập bao quát được loại tin tức điển hình và tin
tức không điển hình. Trong đó có quan tâm
đến các loại báo tiêu biểu, được
phát hành nhiều nhất ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn thu thập số lượng lớn các TĐ ở một thời điểm nhất định,
qua so sánh đối chiếu sẽ làm lộ rõ đặc điểm của TĐVB thể loại tin tức trong
phong cách thông tấn báo chí. Người viết cố gắng thu thập TĐVB thuộc nhiều
loại báo khác nhau trong khả năng có thể.
Cách ghi nguồn gốc dữ liệu: ghi TĐVB, tên báo (viết tắt) và thời gian
xuất bản.

9
5. Đóng góp của luận văn
Bản thân người viết luận văn nhận thấy đây là một đề tài rất thú vị và
hữu ích. Đề tài có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn.
5.1. Về mặt lý luận, luận văn góp phần nhận diện và làm rõ thêm
những đặc điểm của TĐVB tin tức không những về mặt ngôn ngữ mà còn về
mặt kí hiệu và các thủ pháp trình bày TĐVB.
5.2. Về mặt thực tiễn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc xây dựng
TĐVB tin tức, hữu ích cho những người làm công tác báo chí trong việc ứng

dụng những đặc điểm của TĐVB tin tức vào nghiệp vụ của m
ình.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn
được cấu trúc thành hai chương:

Chương một: Đặc điểm ngôn ngữ báo chí và TĐVB báo chí.
Chương hai: Đặc điểm của TĐVB tin tức.














10
Chương 1
ĐẶC ÐIỂM NGÔN NGỮ BÁO CHÍ VÀ TIÊU ÐỀ
VĂN BẢN BÁO CHÍ


1.1. Đặc điểm chung của báo chí
Báo chí ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức

của con người. Báo chí luôn là một công cụ hoạt động quan trọng của con
người và các giai cấp trong cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ và văn minh của nhân
loại. Tìm hiểu về đặc điểm báo chí sẽ giúp chúng ta nhận diện rõ các cơ chế
hoạt động của báo chí, qua đó khái quát được đặc điểm ngôn ngữ báo chí.
1.1.1. Báo chí - loại hình hoạt động thông tin chính trị-xã hội
Báo chí là một hoạt động đặc thù của xã hội, phản ánh văn hoá,
chính trị của mỗi xã hội hay mỗi quốc gia.
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo
thực hiện mục đích của m
ình. Thông tin trong báo chí vừa có tính xã hội cao
vừa có tính tư tưởng và khuynh hướng rõ rệt. Báo chí là một hoạt động thông
tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất đã tạo ra cách tiếp cận đặc th
ù để
phản ánh hiện thực. Hiện thực được tái hiện trên báo chí phải phản ánh được
một cách trung thực đời sống xã hội, xây dựng thế giới quan khoa học, tâm tư
tình cảm của con người. Báo chí phải mang tính chiến đấu cao vì đó là tiếng
nói của một tổ chức, một cơ quan, một đảng phái có nhiệm vụ tuyên truyền và
tác động đến công chúng theo một mục tiêu nào đó.
1.1.2. Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng, thực hiện chức
năng cơ bản là thông tin và tác động
Với tính chất là những phương tiện truyền thông đại chúng hoạt động
trên quy m
ô toàn xã hội, báo chí là kênh chủ yếu cung cấp kiến thức thông tin

11
về thế giới xung quanh rộng lớn cho mọi người, là bộ phận không thể thiếu
trong đời sống xã hội.
Báo chí tác động đến độc giả trên nhiều lĩnh vực nhận thức, giáo dục,
thẩm mĩ. Chức năng tác động còn có tác dụng định hướng và hướng dẫn dư
luận.

Tin bài là bộ phận tiêu biểu trong phong cách báo chí. Tin tức mà
báo chí cung cấp phải mang tính thời sự, khách quan và hấp dẫn.
Thời sự là những gì
xảy ra hàng ngày (tin tức cập nhật), hàng buổi
(báo buổi sáng, báo buổi chiều,...), hàng giờ (báo điện tử). Sự kiện được thông
tin nhanh, kịp thời (thông tin tức thời càng tốt) được gọi là thời sự. Trong thời
đại đầy ắp thông tin, các sự kiện được đưa tin phải có tính thời sự khẩn trương
(là những vấn đề đang được xã hội quan tâm) mới tạo được thông tin mới mẻ,
thu hút người đọc.
Tính hấp dẫn không chỉ ở sự mới lạ mà còn bởi mức độ li
ên quan
đến lợi ích, nhu cầu, sở thích của công chúng.
Dựa trên các nguyên tắc sau để xác lập những thông tin quan trọng
(thông tin theo các vòng tròn đồng tâm), trong đó lấy mỗi cá nhân là tâm
điểm:
+ Nguyên tắc quan hệ: TÔI – GIA ĐÌNH – HỌ HÀNG – BÈ BẠN –
NGƯỜI LẠ.
+ Nguyên tắc khoảng cách: TÔI – HÀNG XÓM – LÀNG XÃ –
HUYỆN – TỈNH – TRONG NƯỚC – NGOÀI NƯỚC.
Ngoài ra, tầm quan trọng còn bao gồm tính hiếu kỳ, kích cỡ sự việc,
sự vụ, tính thời gian, nhu cầu của mỗi cá nhân, mỗi thành phần xã hội.

12
1.1.3. Báo chí luôn bám sát sự kiện, phản ánh chính xác sự kiện,
lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh
Chức năng phản ánh đòi hỏi báo chí phải chính xác, trung thực và
hấp dẫn. Tính chất khách quan trong việc thông tin sự kiện, sao cho chính các
sự kiện được thông tin một cách tự nhiên, không cố ý và không hàm chứa ý
kiến chủ quan của một cá nhân hay tập thể nào đó.
Tính chính xác trong thông tin báo chí là bám sát các sự kiện có thực

và phản ánh một cách nguyên dạng, không méo mó.
1.1.4. Báo chí sử dụng ngôn ngữ làm
phương tiện chủ yếu để
chuyển tải thông tin
Ngôn ngữ báo chí phải mang tính chất chuẩn mực, thể hiện trong
cách dùng từ, đặt câu, cách tổ chức VB, văn phong phù hợp với khả năng tiếp
nhận và khả năng giải mã của người thụ ngôn.
Trong báo chí có những nguyên tắc về cách trình bày, cách tổ chức
mà thông qua đó thể hiện được tính khách quan của sự kiện. Cách trình bày
như dùng những câu trích có đóng ngoặc kép (từ lời khách ngôn), sắp xếp cấu
trúc bài viết hoặc cách thức dàn trang giúp độc giả phân biệt lời bình của
người viết với những sự kiện tự thân nó lên tiếng.
Cách tổ chức thường thấy là đưa những sự kiện, những con số được
cung cấp chính thức từ cơ quan chức năng có thẩm quyền, từ

các nguồn tin
hợp pháp của chính quyền, thường là các quan chức chính phủ cấp cao và một
số tương đối nhỏ các chuyên gia đáng tin cậy. Từ các nguồn tin này, thông tin
báo chí được chọn lọc và diễn đạt ngắn gọn theo các đặc trưng của ngôn ngữ
báo chí.
Tính định lượng trong các VB báo chí thể hiện ở chỗ chặt chẽ về số
lượng câu, chữ trong một giới hạn diện tích nhất định. Số trang báo có hạn m
à

13
thông tin sự kiện thì phong phú, cho nên định lượng về mặt ngôn từ sẽ giúp tờ
báo cung cấp được nhiều thông tin đến độc giả.
1.1.5. Tính tương tác giữa báo chí và công chúng
Càng ngày báo chí càng tỏ rõ vai trò quan trọng của mình trong đời
sống xã hội. Từ đó, báo chí thu hút sự quan tâm của nhiều giới độc giả. Thông

qua những vấn đề được đăng tải trên báo, những vấn đề mà công chúng và dư
luận quan tâm, báo chí tác động đến nhận thức của độc giả, định hướng dư
luận. Báo chí mở ra nhiều vấn đề kích thích, mời gọi độc giả quan tâm
, hưởng
ứng, có thể tham gia các diễn đàn, các bài phản ánh, các chuyên mục bạn đọc
viết.
Có thể nói, đặc điểm này đã nâng vị trí, tầm quan trọng của báo chí
lên một bước cao. Báo chí không chỉ đơn thuần là nơi cung cấp, đưa tin một
chiều mà còn là “chiếc cầu nối giữa báo chí và dư luận xã hội” [58]
. Chính vì
vậy, trong báo chí, tính chất “kiểm thông”, tức chức năng kiểm tra mạch
truyền thông, giữ mối liên hệ và tìm cách thu hút sự chú ý của độc giả là
phương diện ngày càng được nhiều báo quan tâm. Báo chí đã có sự cộng
hưởng từ phía độc giả, từ xã hội. Để duy trì được mạch truyền thông này, báo
chí phải luôn đưa ra những vấn đề thời sự mới mẻ, có tầm tác động rộng lớn,
hay những vấn đề gần gũi, thiết thân của đời sống hàng ngày mới thu hút sự
quan tâm
của đông đảo độc giả. Báo chí luôn biết cách không còn đơn thuần
là nơi cung cấp thông tin một cách đơn điệu mà luôn tạo cách thu hút, mời gọi
độc giả. Để thực hiện được điều này, báo chí có nhiều phương thức như cách
đặt TĐ (cách bố trí TĐ chính, TĐ phụ, TĐ bộ phận, cách bố trí không gia
n
trên tờ báo cho các TĐVB), cách sử dụng ngôn ngữ (theo từng đặc trưng thể
loại), các đoạn trích, đoạn mở đầu được đóng khung, khổ và vị trí của hình
ảnh, cách dàn trang bắt mắt nhấn mạnh chủ đề chính, các mục nằm ở vị trí
quen thuộc dễ tìm kiếm...

14
1.2. Đặc điểm chung của ngôn ngữ báo chí
Từ những đặc điểm chung của báo chí dẫn đến đặc điểm chung của

ngôn ngữ báo chí.
1.2.1. Tính sự kiện
Báo chí với chức năng thông tin, phản ánh hiện thực qua các sự kiện
tồn tại khách quan, do vậy, tính sự kiện là đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ báo
chí.
Tính cụ thể, khách quan và chính xác giúp sự truyền đạt và xử lí
thông tin sự kiện một cách chặt chẽ. Báo chí là loại hình hoạt động t
hông tin
chính trị-xã hội, luôn bám sát sự kiện, phản ánh chính xác sự kiện. Báo chí
dùng công cụ là ngòi bút để viết đúng sự thật, không những chính xác về nội
dung mà còn về câu, chữ. Tính khách quan làm tăng sự hấp dẫn của bài báo vì
bản thân sự kiện vốn tồn tại khách quan chứ không phải là sự áp đặt chủ quan
của người viết. Thông tin trên báo chí đến trực tiếp với độc giả, càng rõ ràng,
cụ thể càng tốt để người đọc khi tiếp nhận thông ti
n có thể giải mã ngay, tránh
sử dụng những hình thức ngôn từ, cách diễn đạt khó hiểu.
Để phục vụ yêu cầu truyền tải thông tin đến độc giả một cách hiệu
quả và mau chóng, ngôn ngữ báo chí phải bảo đảm tính ngắn gọn. VB báo chí
sử dụng số lượng từ ở mức thấp nhất mà vẫn nêu được nội dung nhiều nhất,
chọn lọc từ ngữ biểu đạt phong phú nội
dung, chọn kiểu câu có kết cấu ngắn
gọn. Cách tổ chức VB hạn chế ở mức thấp nhất về số câu, số chữ, chọn mô
hình cấu tạo phù hợp với cách diễn đạt thông tin. Độc giả sẽ ghi nhớ một câu
gồm nhiều từ ngắn tốt hơn một câu gồm các từ dài.
Ngôn ngữ có tính sự kiện trong báo chí là ngôn ngữ động, chủ yếu sử
dụng nhiều động từ, ít tính từ, danh từ.

15
1.2.2. Tính đại chúng
VB báo chí có số lượng độc giả rộng rãi trong các tầng lớp xã hội, vì

thế tính đại chúng là một trong những đặc điểm của ngôn ngữ báo chí khác
biệt so với các phong cách ngôn ngữ khác. Ngôn ngữ báo chí hàng ngày
thường xuyên thanh lọc theo tiêu chí tiếp nhận của công chúng, dễ đọc, dễ
hiểu nhưng không đi ngược với chuẩn mực của ngôn ngữ.
Tính đại chúng biểu hiện trong cách dùng từ đơn, phổ thông hơn là từ
ghép, từ vay mượn; dùng từ ngữ dễ hiểu, phổ biến hơn là từ ngữ chuyên m
ôn
sâu, từ ngữ địa phương, tiếng lóng; tránh sử dụng các kiểu câu cầu kỳ, không
phù hợp với yêu cầu ngắn gọn.
Ngôn ngữ báo chí đòi hỏi sự mạch lạc, hướng đến mọi đối tượng độc
giả, thuộc nhiều thế hệ, có trình độ và sở thích khác nhau, cung cấp những gì
độc giả dễ tiếp nhận. Cho nên ngôn ngữ báo chí
là ngôn ngữ công luận, là
tiếng nói chung cho cả cộng đồng.
1.2.3. Tính chuẩn mực
Ngôn ngữ báo chí phải là ngôn ngữ chuẩn mực, thống nhất trong toàn
quốc, đòi hỏi cách chọn lọc từ ngữ và câu chữ, cách tổ chức VB đúng yêu cầu
ngữ pháp, cách thể hiện văn phong mang tính chính xác cao, cô đúc và chuẩn
mực, cách trình bày thu hút. Chính đặc điểm này giúp báo chí phổ biến rộng
rãi đến công chúng và công chúng tiếp nhận báo chí dễ dàng hơn.
Tính chuẩn mực trong ngôn ngữ báo chí có tác dụng chuyển tải thông
tin, đạt hiệu quả cao trong gi
ao tiếp và định hướng ngôn ngữ cho đông đảo
công chúng, bạn đọc, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
1.2.4. Chính xác
Chính xác là yếu tố quan trọng đối với bất kỳ bài báo nào. Chính xác
trong nội dung thông tin sẽ giúp người đọc nắm bắt được bản chất của vấn đề-
sự kiện. Chính xác trong cách dùng ngôn ngữ, từ cách viết đúng chí
nh tả,


16
cách dùng từ, dùng câu, cho đến cách dùng câu trích dẫn, và thậm chí ngay cả
cách ngắt dòng trên TĐ cũng phải hợp lí để không mất đi tính chính xác của
nội dung. Tính chính xác sẽ giúp tính chuẩn mực của ngôn ngữ báo chí tồn tại
bền vững.
Bên cạnh đó, tính tương tác giữa báo chí và công chúng ngày càng rõ
nét, thông tin trên báo càng phải đạt yêu cầu cao về độ chính xác, tin cậy, cần
loại bỏ những gì có thể dẫn tới những cách hiểu khác đi, dễ gây ngộ nhận cho
độc giả.
1.2.5. Tính hấp dẫn
Ngôn ngữ được sử dụng t
rong VB báo chí phải có tính hấp dẫn trong
việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện từ vựng, ngữ pháp và cách thức tổ
chức VB sao cho thu hút người đọc, qua đó thực hiện tốt chức năng tác động
và khả năng cạnh tranh thông tin.
1.2.6. Tính thời đại
Ngôn ngữ chịu sự ảnh hưởng và tác động của thời đại nên dù có cơ
cấu nội tại vững chắc ngôn ngữ vẫn có sự biến đổi
. Ngôn ngữ báo chí có thể
sử dụng rộng khắp, tần suất cao ở thời điểm, giai đoạn này nhưng thời gian
sau lại đi vào quên lãng. Trong thời đại thông tin, ngôn ngữ báo chí luôn có
hướng hiện đại hoá, thường xuyên tiếp nhận có chọn lọc nhiều vốn từ mới,
mở rộng sự giao lưu với quốc tế nhưng vẫn phải giữ bản sắc dân tộc.
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí
1.3.1. Đặc điểm về ngữ âm và chữ viết
Phương tiện giao tiếp trên báo chủ yếu bằng VB, không t
hực hiện
bằng ngôn bản, cho nên nếu có một cơ sở chính tả hợp lý và thống nhất, chữ
viết sẽ giúp cho việc giao tiếp được thuận lợi và hiệu quả.
Do ảnh hưởng của thời đại, hiện nay, trên báo chí xuất hiện nhiều từ

ngữ vay mượn tiếng nước ngoài. Đây cũng là một trong những đặc điểm của

17
báo chí, là xu thế chung của toàn xã hội, vấn đề là phải sử dụng những từ ngữ
vay mượn này theo những quy tắc thống nhất trong cách đọc, cách viết, cách
phân giới âm tiết sao cho phù hợp với loại hình ngôn ngữ tiếng Việt.
Viết hoa là một phần của chuẩn chính tả tiếng Việt. Viết hoa tăng
thêm khả năng giá trị khu biệt, tạo ra sự đối lập giữa cách viết chữ thường và
viết chữ hoa thể hiện mặt cú pháp, tu từ, ngữ nghĩa, từ đó nhấn mạnh thông
tin cần truyền tải.
Viết tắt là một dạng trình bày được chấp nhận và thường gặp trong
VB báo chí. Phương thức viết tắt giúp cách trì
nh bày ngắn gọn, tiết kiệm được
không gian trên báo. Thông tin càng nhiều càng phải sử dụng dạng tắt để
lược bỏ những lượng dư không cần thiết. Chính vì vậy, viết tắt cũng cần có
những quy tắc vừa thể hiện tính khách quan, dễ chấp nhận, dễ hiểu vừa thể
hiện sự tiện lợi. Trong xu t
hế hội nhập và toàn cầu hoá, báo chí ngày càng
xuất hiện nhiều từ viết tắt tiếng nước ngoài. Dạng viết tắt thuộc lĩnh vực ngôn
ngữ, vì thế sử dụng dạng tắt, nhất là trên báo chí, càng phải cẩn trọng để
không mất đi tính trong sáng của tiếng Việt.
Có thể nói báo chí ngày nay rất quan tâm
đến vấn đề kỹ thuật trình
bày. Trình bày không phải chỉ là việc trang trí tờ báo mà còn có hiệu quả
thông tin tác động đến người đọc. Nắm bắt được nhu cầu đó, các báo đều chú
trọng đến khâu khai thác các đặc điểm tu từ của văn tự.
1.3.2. Đặc điểm về từ vựng
Mỗi loại phong cách ngôn ngữ qui định lớp từ vựng riêng. Trong
phong cách ngôn ngữ báo chí, xem
xét đặc điểm từ vựng ở khả năng lựa chọn

và sử dụng các lớp từ ngữ. Cách dùng từ, lựa chọn từ ngữ chính xác, trong
sáng, đúng phong cách, đúng quy tắc chính tả tiếng Việt một mặt diễn đạt
chính xác điều cần diễn đạt, mặt khác là cách tôn trọng độc giả.


18
1.3.2.1. Xét về mặt nguồn gốc
VB báo chí, bên cạnh vốn từ ngữ thuần Việt còn tiếp nhận nhiều đơn
vị từ vựng có nguồn gốc từ tiếng Hán và tiếng vay mượn nước ngoài. Tuy
nhiên, mức độ sử dụng mỗi loại khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát
triển xã hội- ngôn ngữ, tuỳ vào từng thể loại phản ánh.
Từ cổ ít xuất hiện trên các VB báo chí, càng hiếm xuất hiện trên cá
c
TĐVB tin tức do tính chất lỗi thời, chỉ có giá trị lịch sử, không còn phù hợp
với khả năng tiếp nhận của xã hội ngày nay. Trái lại, cùng với sự vận động
không ngừng của xã hội, lớp từ mới xuất hiện từ nhiều nguồn, phát triển theo
hướng tích cực có, tiêu cực có. Tuy nhiên, trong các VB báo chí có sự sàng
lọc nghiêm ngặt, hầu như chỉ tiếp nhận những từ ngữ tích cực.
1.
3
.
2.2. Xét về mặt phạm vi sử dụng
Phong cách báo chí sử dụng phổ biến lớp từ vựng toàn dân. Lớp từ
vựng này đáp ứng được điều kiện truyền tải thông tin mau chóng, chính xác,
dễ hiểu đến rộng rãi các tầng lớp công chúng ở nhiều địa phương khác nhau.
Đây cũng là lớp từ vựng cơ bản, quan trọng nhất trong tiếng Việt.
Xuất hiện những từ nghề nghiệp, những thuật ngữ thuộc các lĩnh vực
khác nhau trên các bài báo. Mức độ nhiều hay í
t còn phụ thuộc vào tờ báo
dành cho đối tượng nào. Trong một chừng mực, các thuật ngữ chuyên môn

hẹp ít được sử dụng trên các VB báo chí, bước đầu chỉ phục vụ trong các
chuyên ngành, nhưng dần dần có xu hướng hoà nhập vào lớp từ vựng toàn
dân, phù hợp với khả năng tiếp nhận của công chúng và ngày càng trở nên
phổ biến, thông dụng.
Lớp từ ngữ chính trị- xã hội phổ biến trên các VB báo chí. Điều này
cũng dễ hiểu vì đặc điểm
báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị- xã
hội. Lớp từ ngữ chính trị- xã hội có khả năng tác động xã hội, thích hợp với
chức năng, nhiệm vụ của báo chí.

19
Trên các VB báo càng ít xuất hiện tiếng lóng và tiếng địa phương do
không đáp ứng được yêu cầu của tính toàn dân.
1.3.2.3. Xét về mặt phong cách
Bảng phân loại các phong cách chức năng trong tiếng Việt:
Phong cách
khoa học


Phong
cách
sinh
hoạt
hàng
ngày
Phong
cách
báo chí
Phong
cách

quảng
cáo
Phong
cách
văn
chương
Phong
cách
chính
luận
Phong
cách
hành
chính
Nghiên
cứu
khoa
học

Phổ
biến
khoa
học
(Giáo trình bài giảng 2007, Trịnh Sâm)
Ngôn ngữ trên báo phải chuẩn, đó là yêu cầu bắt buộc. Chính vì thế
lớp từ ngữ mang phong cách đặc trưng sách vở, là những gì được xã hội chấp
nhận, thông dụng, phổ biến và được đại đa số công chúng tiếp thu dễ dàng.
Ngôn ngữ báo chí cũng sử dụng lớp từ ngữ có màu sắc biểu cảm.
Chính đề tài và thể loại trình bày sẽ quy định lớp từ ngữ mang màu sắc biểu
cảm, giúp diễn đạt t

hông tin một cách cụ thể, sinh động, tạo ấn tượng thích
thú, dễ tiếp thu đối với người đọc.
Tin trên báo không chỉ là những vấn đề thời sự chính trị nóng hổi
mang màu sắc trang trọng mà còn là thông tin những vấn đề văn hoá, xã hội,
đời sống, an ninh trật tự... cho nên để làm “mềm hoá” thông tin, sử dụng từ
ngữ mang màu sắc biểu cảm là phù hợp với sự nhận t
hức của người đọc.
1.3.3. Đặc điểm về ngữ pháp
Thông tin trên báo chí thường là những thông tin ngắn gọn, chính xác
cho nên trong báo chí thường gặp loại câu đơn hai thành phần Đề- Thuyết.

20
Câu đơn chỉ có phần Thuyết (thường là được tỉnh lược thành phần Đề để tăng
cường độ tập trung thông tin, gây ấn tượng đối với người đọc) là xu hướng
phổ biến hiện nay ở các TĐVB báo chí. Kiểu câu này đáp ứng được yêu cầu
ngắn gọn tới mức tối đa mà chuyển tải được nhiều nội dung.
Hầu hết câu được dùng trong các VB báo chí là câu tường thuật. Câu
cảm, câu cầu khiến, câu nghi vấn xuất hiện trên báo với số lượng ít.
Việc tổ chức câu theo khuôn mẫu biểu cảm là đặc điểm t
hường gặp
trong phong cách báo chí. Khuôn biểu cảm có tính năng động cao, như một
mô thức tiện lợi cho người viết tổ chức thông tin và người nhận dễ dàng nắm
bắt thông tin.
1.3.4. Đặc điểm về tổ chức VB
1.3.4.1. Khuôn hình VB
VB báo chí có khuôn hình thông dụng, thường được cấu tạo theo kiểu
gồm có
phần TĐ, phần mở đầu, phần thân và phần kết.
TĐ của VB có chức năng đánh dấu đầu vào của VB và nêu nội dung
cô đọng nhất của VB. Bộ phận TĐ giữ vai trò quan trọng trong VB.

Chức năng của phần mở đầu VB là làm rõ nội dung của TĐ và giải
thuyết cho sự phát triển nội dung ở phần thân. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại V
B
khác nhau cách thức mở đầu cũng khác nhau.
Sa-pô (đề dẫn) (tiếng Pháp là chapeau, tiếng Anh là lead) là phần
đứng giữa TĐ và phần còn lại của VB, đảm nhiệm nhiều chức năng khác
nhau như: hoàn thiện TĐ, nêu chủ đề bài báo, tóm tắt thông tin chủ yếu, giải
thích hoàn cảnh bài báo, tạo sự liền mạch chủ đề nếu bài báo có nhiều kỳ,
thông báo bố cục,... Sa-pô có nhiều dấu hiệu hình thức để phân biệt với phần
VB: kiểu chữ đậm
, nghiêng, cỡ chữ to hay nhỏ, được đóng khung hoặc trang
trí khác biệt, được phân đoạn tách biệt với phần VB. Sa-pô là một yếu tố thu

21
hút mắt độc giả, mời đọc bởi việc lựa chọn từ ngữ và cấu trúc câu tạo sức hấp
dẫn người đọc.
Phần thân của VB có chức năng triển khai theo hướng mở rộng hoặc
cụ thể hoá nội dung đã được xác định ở phần trên. Phần thân là phần quan
trọng nhất trong cấu tạo chung của VB.
Phần kết có chức năng khái quát hoá hay tổng kết những thông ti
n
chính đã được trình bày ở trước.
1.3.4.2. Cấu trúc nội dung VB
Cấu trúc nội dung của một VB bao gồm phần Đề (Theme), phần
Thuyết (Rheme), phần Hoạ đề (Interpretation) được tổ chức theo nhiều mô
hình khác nhau trong các VB báo chí. Cấu trúc diễn dịch có mô hình (T→ R)-
I trình bày nội dung theo hướng những thông tin quan trọng được đặt ở phần
trên VB, xây dựng nên VB chặt chẽ, có tính khoa học và logic. Cấu trúc quy
nạp có mô hình I- (T→ R) trình bày thông tin theo hướng tăng dần thông tin
quan trọng. Cấu trúc m

óc xích có mô hình T→ I → R được tổ chức trong VB
theo hướng duy trì hoặc phát triển chủ đề. Cấu trúc song song chứa nhiều
thông tin về những sự kiện khác nhau mang giá trị thông báo như nhau, có mô
hình T→ R
1
. (T) → R
2
. (T) → R
3
hoặc T
1
→ R
1
. T
2
→ R
2
. T
3
→ R
3
. Cấu trúc
tối giản có mô hình T→ R khi cần thông tin nhanh một vấn đề. Cấu trúc trung
tâm có mô hình I – (T→ R) –I (mô hình viên kim cương) trình bày những nội
dung quan trọng được đặt ở giữa VB. Ngoài ra, trong việc tổ chức VB báo chí
còn gặp cấu trúc đồng hồ cát có mô hình T
1
→ R
1
.


I. T
2
→ R
2
(mô hình đồng
hồ cát), trong đó những chi tiết quan trọng được đặt ở đầu và cuối VB.

22
1.4. Đặc điểm chung của TĐVB báo chí
1.4.1. Những yếu tố quy định đặc điểm của TĐVB báo chí
1.4.1.1. Chức năng
Cuốn Handbook for Journalists of Central and Eastern Europe (Sổ
tay dành cho các nhà báo Đông và Trung Âu) của Malcolin F.Mallette đã chỉ
ra rằng TĐ báo có bốn chức năng:
- Tổng kết thông tin
- Phân định mức độ quan trọng của câu chuyện
- Yếu tố nổi bật trong nhận diện
- Gây cảm tình đối với người xem (giúp họ quyết định trở thà
nh độc
giả).
Chức năng chủ yếu của TĐ là thể hiện được cốt lõi nội dung bài báo
thông qua hình thức hấp dẫn. Chức năng này cho thấy vai trò quan trọng của
TĐ trong việc thu hút sự chú ý vào trang giấy, giúp độc giả lựa chọn bài và
khiến độc giả muốn đọc. Muốn thực hiện được điều đó, TĐ báo thường phải
tuân theo những yêu cầu:
- Truyền đạt được nội dung chí
nh của bài báo
- Ngắn gọn để dễ dàng trang trí và sắp xếp trong khuôn khổ có hạn
của trang báo

- Có tính nghệ thuật cao về mặt ngôn ngữ
- Hấp dẫn, gây sự chú ý và tò mò đối với người đọc.
1.4.1.2. Đặc trưng thể loại
Theo Dương Xuân Sơn (2004), thể loại báo chí có những đặc trưng
riêng và các tiêu chí riêng để phân định thể loại như đối tượng phản ánh trong
từng thể loại, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của tác phẩm b
áo chí, mức độ
nắm bắt hiện thực, ở các kết luận và khái quát hoá vấn đề cần phản ánh trong
tác phẩm, tính chất của phương tiện phản ánh hiện thực, văn phong, ngôn ngữ

23
cho nên nội dung của những đặc trưng riêng phải được thể hiện cụ thể trong
từng thể loại.
Chính đặc trưng phong cách và thể loại chi phối mặt tổ chức ngôn
ngữ của VB và cả TĐVB.
1.4.1.3. Độc giả
Bài báo được viết ra chủ yếu hướng vào độc giả. Không có độc giả thì
báo chí sẽ không tồn tại. Vì vậy, số lượng độc giả quyết định sự sống còn của
tờ báo. “Độc giả bị lôi cuốn bởi sự hấp dẫn của tờ báo và đặc biệt là bởi đầu
đề bài báo” [39, tr.62]. Do đó, nội dung bài báo, cách trình bày, diễn đạt và
nhất là TĐ bài báo phải phù hợp với tâm
lý tiếp nhận của độc giả.
1.4.2. Đặc điểm chung của TĐVB báo chí
1.4.2.1. Thông tin cao
TĐ được xem như là một thông điệp đầu tiên mà bài báo, tác giả gửi
tới cho người đọc, gần như quyết định đến tâm lý của người đọc, liệu họ có
tiếp tục đọc tiếp bài báo hay không.
“ Chức năng cơ bản của tiêu đề là đem lại cho người ta một quan
niệm về thực chất của bài viết” [
27]. TĐ phải rõ ràng và dễ hiểu, người đọc

khi tiếp xúc lần đầu có thể hiểu ngay.
“TĐ thực chất là một thứ “nhãn hiệu” của VB” [56, tr.37]
có tính chất
đại diện cho VB nhằm để thông tin về nội dung, cho nên TĐ phải chính xác
và mang tính thông tin cao. TĐ thường thể hiện những quan hệ nhất định với
bộ phận nội dung của VB, có tác dụng định hướng cho người đọc, giúp người
đọc thông qua TĐ có thể nắm bắt được nội dung quan trọng nhất của VB.
TĐ khái quát được nội dung hoặc nêu bật được nội dung chính của
bài báo, nhấn mạnh thông tin mới, quan trọng và hấp dẫn để độc giả có thể
lựa chọn ngay khi xem
lướt qua tờ báo. TĐ thể hiện được một cách trọn vẹn ý
nghĩa bài báo, nêu được thông tin phù hợp với nội dung bài báo.

24
1.4.2.2. Chuẩn mực
Chuẩn mực được hiểu ở đây là vừa mang yếu tố đại diện vừa mang
yếu tố tiêu biểu. Nếu như ở các phong cách chức năng, ở các thể loại trong
cùng một phong cách chức năng, đặc điểm này thể hiện ở chỗ nó mang dấu ấn
và phong cách của thể loại đó thì ở đây nó phải hoặc là tương ứng với loại
điển hình hoặc không điển hình. Nói rõ hơn, các yếu tố như trang trọng,

nghiêm túc, nén kín đều là thuộc tính điển hình thì các đặc tính đối lập thuộc
về không điển hình.
1.4.2.3. Ngắn gọn
Khuynh hướng chung trong ngôn ngữ báo chí là viết các câu ngày
càng ngắn đi. Tính cô đọng trong các TĐ báo được đẩy tới mức cao nhất. Một
TĐ ngắn chỉ cần độc giả nhìn thoáng qua là đập ngay vào mắt, không phải tốn
nhiều thời g
ian để dừng lại đọc nữa. “Những công trình nghiên cứu đã chỉ ra
rằng trung bình người ta nhớ được mười hai từ trong mỗi câu.... độc giả

thường nhớ phần nửa đầu của một câu.”[39, tr.46-47]. Như vậy, phần cuối
của một câu dễ bị quên mất. Cho nên một TĐ dài kém lợi thế hơn một TĐ
ngắn gọn, súc tích, dẫn đến nội dung bài báo có thể bị bỏ qua.
Bằng một hình thức cô đúc ngắn gọn nhất, TĐ báo chuyển tải được
một lượng thông tin tối đa. Chính tính chất nhiều ý nghĩa và nói chưa hết lời
của TĐ thu hút độc giả.
1.4.2.4. Hấp dẫn
Tính hấp dẫn thể hiện trong việc thiết kế TĐ ngắn gọn để dễ dàng
trang trí và sắp xếp t
rong khuôn khổ có hạn của trang báo, có tính nghệ thuật
cao về mặt ngôn ngữ và nội dung có yếu tố khêu gợi, gây sự chú ý và tò m
ò
đối với người đọc.
TĐ vừa là hình thức vừa là nội dung đầu tiên tiếp cận với độc giả. TĐ
hấp dẫn vì nội dung của sự kiện, vì kết cấu TĐ gây bất ngờ, vì độc giả rút ra

×