Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MÀN HÌNH MÁY TÍNH CÁ NHÂN VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO S.C.A.M.P.E.R

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 25 trang )

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MÀN HÌNH MÁY TÍNH
CÁ NHÂN VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO
S.C.A.M.P.E.R.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: VŨ THÁI
MÃ SỐ: CH1201061
LỚP: Cao học khóa 7
TP. HỒ CHÍ MINH
Tháng 4/2013
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN














Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 2
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
LỜI NÓI ĐẦU
Sau khi tham dự môn học về “Phương pháp nghiên cứu khoa học” tại trường


Đại học Công nghệ thông tin do thầy GS.TSKH. Hoàng Kiếm giảng dạy,
tôi đã có cái nhìn rõ hơn về các nguyên lí sáng tạo. Việc vận dụng các nguyên lí
sáng tạo vào nghiên cứu khoa học là rất quan trọng. Nó giúp chúng ta ứng dụng
sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả trong công việc, trong nghiên cứu, mang lại những
kết quả tốt nhất; đồng thời chống lại thói quen suy nghĩ theo lối mòn.
Trong phạm vi đề tài này, tôi muốn chia sẽ những thông tin, hiểu biết, đánh
giá của bản thân về nội dung tôi đã tìm hiểu, cùng các phương pháp lí luận sáng
tạo mà tôi nhận thấy trong quá trình nghiên cứu, sáng tạo và phát triển ra các thế
hệ màn hình máy tính từ trước đến nay. Mong rằng sẽ được sự đóng góp ý của
thầy và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy. Với sự giảng dạy của thầy, em đã có cái nhìn
mới, rộng và sâu hơn về những thành tựu khoa học hay những sản phẩm rất
quen thuộc quanh ta. Nó sẽ là tiền đề cho em nói riêng và các bạn cùng học nói
chung bước đầu vào các hướng nghiên cứu mới.
Em kính chúc thầy nhiều sức khỏe, để tiếp tục đào tạo nên những thế hệ mới,
góp phần cho sự nghiệp kiến thiết con người, kiến thiết đất nuớc.
Tp.HCM, ngày 24 tháng 4 năm 2013
Học viên thực hiện: VŨ THÁI
Mã số học viên: CH1201061
Lớp: CH07
Email:
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 3
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
MỤC LỤC
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 4
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Chương 1: Lịch sử phát triển của màn hình máy tính cá nhân
Lịch sử màn hình máy tính trải qua 70 năm phát triển từ thuở sơ khai là các
băng giấy hay bìa đục lỗ cho đến các ống CRT và công nghệ LCD hiện đại như
ngày nay.

1. “Màn hình” bằng các đèn nhấp nháy
Thiết bị cuối ZUSE 23 (1941) chỉ bao gồm các đèn báo để biểu diễn đầu ra của chương trình
máy tính. Nó vẫn còn được trang bị cho các máy tính điện tử ở những năm 1950 như máy
Univac I (1951).
Trong khi hầu hết các máy tính ra đời đầu tiên đều có một máy in kết quả
ra giấy thì thuở sơ khai của màn hình số lại bị hạn chế bởi các bóng đèn báo
nhấp nháy. Chúng là các bóng đèn chỉ thị bật hoặt tắt khi máy tính xử lý các câu
lệnh hay truy cập đến các vùng nhớ.
2. Bìa đục lỗ vừa là đầu ra, vừa là đầu vào
ENIAC là một trong số các máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bìa đục lỗ để
thể hiện cho cả đầu vào lẫn đầu ra của một chương trình máy tính. Để viết một
chương trình, người vận hành máy tính sẽ soạn thảo trên một chiếc máy giống
như máy đánh chữ, mỗi câu lệnh sẽ được mã hóa bằng cách tự động đục các lỗ
trên các thẻ bằng giấy.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 5
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Sau đó, người ta sẽ thả một số lượng lớn các tấm bìa chi chít lỗ đó vào máy
tính để nó có thể đọc và thực hiện chương trình.
Bên trái: một người vận hành máy tính đang cho các tấm bìa đục lỗ vào máy ENIAC (1947).
Bên phải: Bộ lập bảng IBM 405 giúp người vận hành tính kết quả của đầu ra.
Phía đầu ra, kết quả cũng được mã hóa bằng việc đục lỗ các bìa và sau đó
những người vận hành sẽ giải mã nó với một thiết bị như bộ lập bảng IBM 405
(bên phải ảnh) để đếm và in các giá trị của tấm bìa lên một băng giấy.
3. Băng giấy thay cho các tấm bìa đục lỗ
Máy in điện báo CREED 75 (1958) sử dụng băng giấy đục lỗ thay cho các tấm bìa đục lỗ.
Để thay thế cho các bìa đục lỗ, nhiều máy tính sau đó đã sử dụng một băng
giấy dài cũng được đục lỗ để biểu diễn cho một chương trình máy tính. Nguyên
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 6
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
lí không hề thay đổi, người vận hành máy tính sẽ cho chạy băng giấy qua một

chiếc máy như trong ảnh, kết quả chương trình cũng được lưu trên một băng
giấy đục lỗ và dựa trên băng giấy này, một máy đánh chữ điện tử sẽ đánh ra kết
quả bằng ngôn ngữ mà nhà lập trình dễ dàng hiểu được.
4. Thuở sơ khai của màn hình CRT
Các ống tia ca-tốt (CRT) xuất hiện lần đầu tiên trong máy tính lại được
dùng trong bộ nhớ chứ không phải ở bộ phận hiển thị. Không lâu sau đó, người
ta đã nhận ra rằng chúng có thể được sử dụng để hiện thị nội dung của bộ nhớ
dựa trên CRT (như hai máy tính ở bên trái).
Các thiết bị dùng CRT làm màn hình hiển thị đơn giản: màn hình SWAC 1950), thiết bị cuối
Ferranti Mark 1 Star (1951), SAGE (1957) và PDP-1 (1960).
Sau đó, các máy radar và máy hiện sóng đã được lắp vào các ống CRT để
hiện thị một màn hàn hình đồ họa đơn giản (không có màu sắc và chỉ thể hiện
được các vec-tơ), điển hình là hệ thống SAGE và PDP-1.
5. Máy điện báo trở thành “màn hình”
Trước khi có máy tính điện tử, từ năm 1902, các máy điện báo đánh chữ
được sử dụng để trao đổi nội dung các văn bản. Đây là dạng máy đánh chữ điện
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 7
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
tử có thể giao tiếp (truyền tín hiệu) với các máy khác thông qua các đường dây
điện (sau này còn qua sóng radio) và sử dụng một loại mã đặc biệt.
Một máy điện báo đánh chữ ASR-33 (1962) được sử dụng làm
"màn hình" máy tính.
Cho đến những năm 1950, các kĩ sư đã nối trực tiếp máy điện báo lên máy
tính để dùng nó như một thiết bị hiển thị. Các máy điện báo sẽ in ra kết quả liên
tục của một phiên làm việc của máy tính. Đây vẫn là dạng giao điện đầu ra rẻ
nhất đối với các máy tính cho đến giữa những năm 1970.
6. Glass Teletype
Tại một thời điểm ở những năm 1960, các kĩ sư nhận ra rằng họ có thể sử
dụng các ống CRT để tạo thành một “tờ giấy ảo” thay cho tờ giấy thật của máy
điện báo. Glass teletype là cái tên đầu tiên cho thiết bị đầu ra dạng này.

Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 8
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Uniscope 300 (1964) và ADM-3 (1975) là các glass teletype sử dụng CRT để hiển thị kết quả
chương trình máy tính.
Dạng màn hình video này hiển thị nhanh và linh động hơn so với dùng giấy
nên nó đã trở thành phương pháp vượt trội để thể hiện giao diện của máy tính
trong nửa đầu những năm 1970.
Thiết bị đầu ra được nối với máy tính qua dây cáp, thường chỉ truyền các
đoạn mã biểu diễn kí tự văn bản chứ không phải đồ họa. Cho đến những năm
1980, một số màn hình mới được hỗ trợ màu sắc.
7. Video phức hợp ra đời
Những chiếc máy điện báo đánh chữ (kể cả những chiếc có đầu ra là băng
giấy) cũng là cả một gia tài.
Tìm kiếm một biện pháp thay thế rẻ hơn, Don Lanscaster, Lee Felsenstein
và Steve Wozniak đã cùng lúc đưa ra một ý tưởng: xây dựng một thiết bị cuối
giá rẻ là màn hình video CCTV.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 9
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Các thiết bị cuối hiển thị video đầu tiên: CT-1024 (1974) và sau đó là Sol-20 và Apple I vào
năm 1976.
Không lâu sau đó, Wozniak và Felsenstein đã lần lượt cho ra mắt các thiết
bị hiển thị đầu ra video là Apple I và Sol-20. Những chiếc máy tính đầu tiên có
màn hình video được sản xuất vào năm 1976.
8. Màn hình video phức hợp nở rộ
Màn hình video phức hợp TRS-80 (1977) và
Commodore 1702 (1983).
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 10
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Ngoài các màn hình ti-vi RF, nhiều loại máy tính cá nhân (PC) đã được hỗ
trợ các màn hình video phức hợp cho chất lượng hình ảnh cao hơn. Cuộc cách

mạng PC đem đến luồng gió mới, các nhà sản xuất máy tính như Apple,
Commodore, Radio Shack, TI đều bắt tay thiết kế và đóng nhãn các màn hình
video một màu hoặc có đa màu cho các hệ thống máy tính của mình.
Hầu hết các màn hình như vậy đều có thể thay thế hoàn toàn được cho
nhau.
9. Ti-vi được dùng làm màn hình máy tính
Vào cuối những năm 1970, bắt đầu nảy sinh ý tưởng sử dụng chính màn
hình ti-vi làm đầu ra video cho máy tính. Một số doanh nghiệp đã mạnh dạn sản
xuất các bộ điều biến RF cho Aplle II để chuyển video phức hợp sang một dạng
các tín hiệu mà ti-vi có thể “hiểu” được.
Bộ điều biến RF Apple II (1977) được nối với một chiếc ti-vi đang hiển thị kết quả chương
trình.
Hệ thống Atari 800 ra mắt năm 1979 bao gồm một bộ điều biến RF gắn
trong máy tính và một số thiết bị cần thiết khác. Tuy nhiên, băng thông cho đầu
ra bị giới hạn nên độ phân giải thấp hơn, vì vậy phần lớn máy tính vẫn tránh làm
việc với các màn hình ti-vi.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 11
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
10. Màn hình plasma xuất hiện
Những năm 1960, công nghệ màn hình plasma bắt đầu nổi lên. Công nghệ
này sử dụng một loại khí mang điện bị giữ giữa hai tấm gương, khi một điện tích
được tạo ra tại một vị trí xác định, một vùng sáng sẽ xuất hiện.
Các thiết bị cuối sử dụng công nghệ plasma: PLATO IV (1972), GRID Compass 1101 (1982)
và IBM 3290 (1983).
Một trong những thiết bị sớm nhất sử dụng màn hình plasma là PLATO IV.
Đầu tiên, các công ty như IBM hay GRID đã thử nghiệm với các màn hình
tương đối nhẹ và mỏng trên các máy tính xách tay. Công nghệ này chưa bao giờ
được áp dụng cho PC nhưng sau này nó lại xuất hiện trong các bộ ti-vi màn hình
phẳng.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 12

Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
11. Kỉ nguyên của LCD hé lộ
Máy tính bỏ túi SHARP PC-1211 (1980), TRS-80 Model 100 (1983) và Toshiba T1000 (1987)
là các thiết bị sử dụng màn hình LCD đầu tiên.
Một công nghệ màn hình chưa từng có, màn hình tinh thể lỏng (LCD), đã
xuất hiện trong những năm 1960 và ra mắt lần đầu tiên trên thị trường vào
những năm 1970 ở trong máy tính bỏ túi và đồng hồ đeo tay.
Các máy tính xách tay đầu tiên của những năm 1980 đã tận dụng LCD với
việc xuất hiện rất nhiều các màn hình mỏng, nhẹ và tiết kiệm năng lượng. Các
LCD đời đầu thường chỉ có một màu và có độ tượng phản yếu.
12. Các tiêu chuẩn màn hình của IBM
Năm 1981, các máy tính cá nhân của IBM gắn trực tiếp một màn hình
video một màu theo tiêu chuẩn MDA và phải cảnh tranh với một số thiết bị đầu
ra video sắc nét khác. Với các đồ họa có màu sắc, IBM đã thiết kế bộ điều hợp
CGA nối tới một màn hình video phức hợp IBM 5153.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 13
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Màn hình IBM 5151 (1981) sử dụng thiết kế MDA và UBM 5153 (1983) sử dụng thiết kế
EGA.
Năm 1984, IBM cho giới thiệu EGA, một tiêu chuẩn màn hình mới có độ
phân giải cao hơn và nhiều màu sắc hơn. Các tiêu chuẩn video khác của IBM
tiếp tục được hoàn thiện trong những năm 1980 nhưng chúng không đạt được
thành công như MDA và EGA.
13. Các màn hình của Macintosh
Máy tính Macintosh I (1984) có màn hình đen trắng và gắn liền với CPU trong khi màn
hình Macintosh II (1987) đã tách biệt và hiển thị màu sắc RGB.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 14
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Chiếc máy tính Macintosh đầu tiên ra đời năm 1987 bao gồm một màn hình
Mac đen-trắng 9 inch hiển thị đồ họa ảnh nhị phân 512x342 pixel. Macintosh II

ra đời cùng năm đã chính thức hỗ trợ màu sắc đồng thời tách biệt riêng màn hình
với CPU. Tiêu chuẩn video của Mac II cũng tương tự như VGA. Các màn hình
Mac tiếp tục phát triển theo thời gian và luôn luôn nổi tiếng với màu sắc đẹp và
có độ nét cao.
14. Các màn hình RGB
Màn hình Commodore 1084 (1985) và màn hình Atari 5C1224 (1986).
Những năm 1980 chứng kiến sự ra mắt của màn hình RGB mang đồ họa
màu sắc, có độ phân giải cao và sắc nét cạnh tranh với các máy tính IBM và
Macintosh. Các loạt sản phẩm Atari ST và Commondore Amiga thuộc số này,
người sử dụng đã cảm thấy khá thỏa mãn về đồ họa máy tính của những sản
phẩm này.
15. Những đổi mới giúp thống nhất các loại màn hình
Thời kì đầu của các máy tính cá nhân của IBM, có rất nhiều các thiết kế
hiển thị khác nhau cho các màn hình máy tính như MDA, CGA, EGA,…
Để giải quyết vấn đề này, NEC đã phát minh ra màn hình đa đồng bộ hóa
đầu tiên hỗ trợ các độ phân giải, tần số quét và tốc độ làm tươi khác nhau trong
cùng một màn hình. Khả năng này nhanh chóng đã trở thành tiêu chuẩn trong
ngành công nghiệp.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 15
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Màn hình đa đồng bộ hóa của NEC (1985) và màn hình IBM B513 VGA (1987).
Năm 1987, IBM đã cho giới thiệu tiêu chuẩn VGA và các màn hình VGA
đầu tiên với dòng máy tính PS/2. Kể từ đó, hầu hết mọi tiêu chuẩn video analog
đều kí hiệu là VGA.
16. Màn hình LCD cho laptop tiếp tục cải tiến
Các laptop Altima NSX (1990) và Extensa 570CDT (1996) có màn hình LCD
với màu sắc đẹp hơn nhiều so với trước đó.
Khi các màn hình LCD mới xuất hiện, chúng là các công nghệ đơn sắc có
độ tương phản thấp và tốc độ làm tươi chậm. Trong suốt các thập kỉ 1980 và
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 16

Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
1990, công nghệ LCD được thúc đẩy bởi sự bùng nổ của máy tính xách tay đã
liên tục được cải tiến. Chúng đã hiển thị được độ tương phản cao hơn, các góc
nhìn tốt hơn và màu sắc đẹp hơn. Công nghệ LCD sớm muộn sẽ nhảy sang một
thị trường tiềm năng hơn, máy tính để bàn.
17. Kỉ nguyên của màn hình VGA
Bên trái là một màn hình có tỉ lệ màn ảnh đặt theo đúng một trang giấy. Bên
phải là một màn hình màu theo tỉ lệ 4:3.
Vào giữa những năm 1990, đã có thêm nhiều cải tiến và phát triển đối với
màn hình cho PC. Đây là kỉ nguyên của màn hình VGA đa đồng bộ hóa, có màu
sắc và giá rẻ, có khả năng xử lí trên một phạm vi rộng độ phân giải. Các nhà sản
xuất bắt đầu thử nghiệm với nhiều kích thước (từ 14-21 inch và hơn nữa) và tỉ lệ
màn ảnh (tỉ lệ 4:3 hoặc theo tỉ lệ của trang giấy theo chiều dọc). Một số màn
hình CRT phẳng đã ra đời vào cuối những năm 1990.
18. LCD cho máy tính bàn
Các công ty máy tính đã có các thử nghiệm về màn hình LCD dành cho
máy tính bàn từ những năm 1980 với một số lượng nhỏ. Những màn hình kiểu
này có giá thành khá cao và hiệu suất hoạt động cũng kém hơn so với các màn
hình CRT phổ biến lúc đấy.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 17
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Các màn hình LCD dành cho máy tính bàn của các hãng điện tử ViewSonic (bên trái), IBM (ở
giữa) và Apple (bên phải).
Điều này đã bị thay đổi từ khoảng năm 1997 khi một số công ty như
ViewSonic, IBM và Apple cho giới thiệu các màn hình LCD màu có chất lượng
đã đủ để cạnh tranh với các màn hình CRT và giá thành của chúng đã ở mức
hợp lý.
Các màn hình LCD giúp tiết kiệm không gian làm việc, tiêu tốn ít điện và
sinh nhiệt cũng ít hơn nên nhanh chóng được nhiều để ý tới.
19. Màn hình máy tính ngày nay

Từ năm 2007, các màn hình LCD dành cho máy tính bàn đã vượt doanh thu
bán ra so với các màn hình CRT và thị trường của nó tiếp tục được mở rộng.
Ngày nay, các màn hình LCD đã trở thành tiêu chuẩn phổ biến nhất cho ngành
công nghiệp máy tính.
Gần đây, màn hình LCD ngày càng rẻ hơn và thậm chí các nhà sản xuất đã
thiết kế cả các màn hình đôi như trong ảnh trên.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 18
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Màn hình LCD đã trở nên phổ biến, xuất hiện nhiều thiết kế độc đáo như màn hình đôi, màn
hình 3D.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 19
S.C.A.M.P.E.R.
Substitute
Combine
Adapt
ModifyPut
Eliminate
Reverse
/Rearrage
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Chương 2: Ý tưởng đề xuất phát triển màn hình máy tính cá nhân
theo bảy nguyên tắc S.C.A.M.P.E.R.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 20
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
1. Nguyên tắc của phép thay thế - SUBSTITUTE.
- Theo xu thế hiện nay, màn hình càng
mỏng, nhẹ và tiết kiệm điện càng tốt.
Do đó trong tương lai, các màn hình
OLED (Organic Light Emitting Diode)
nhẹ hơn, mỏng hơn, màu sắc thật hơn,

độ tương phản cao hơn và tiết kiệm
điện năng hơn sẽ thay thế cho các
màn hình dùng công nghệ LCD hiện
nay.
- Sử dụng vật liệu dẻo thay thế cho vật liệu truyền thống, màn hình có thể uống
cong, gấp lại và mang đi dễ dàng.
- Màn hình với khả năng hiển thị 3D sẽ thay thế cho màn hình 2D hiện tại.
2. Nguyên tắc của phép kết hợp - COMBINE.
- Sự xuất hiện của Windows 8 với giao diện Start làm tăng nhu cầu màn hình cảm
ứng cho máy tính cá nhân. Đây chính là sự kết hợp giữa màn hình và chuột máy
tính. Tuy nhiên, giá thành màn hình cảm ứng cho PC còn quá cao, cần cải tiến
công nghệ và quy trình sản xuất để giảm giá thành sản phẩm.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 21
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
3. Nguyên tắc của phép thích ứng - ADAPT.
- Tích hợp cảm biến ánh sáng môi trường vào màn hình để có thể tự động thích
ứng với ánh sáng bên ngoài, bằng cách điều chỉnh độ sáng và độ tương phản cho
phù hợp điều kiện thực tế.
- Màn hình có khả năng chống bụi, chống nước, chịu được nhiệt độ cao; được
trang bị lớp kính cường lực bảo vệ bên ngoài. Điều này giúp màn hình máy tính
thích ứng được với những điều kiện khắc nghiệt trong môi trường làm việc.
4. Nguyên tắc của phép điều chỉnh - MODIFY.
- Áp dụng nguyên tắc của phép điều chỉnh: màn hình sẽ có kích thước lớn hơn, độ
phân giải cao hơn nhưng sẽ mỏng và nhẹ hơn. Màn hình máy tính sẽ có kích
thước tối thiểu là 24”, độ phân giải tối thiểu là 1920x1080.
- Các màn hình tỉ lệ 4:3 sẽ biến mất, thay vào đó là các màn hình rộng và với tỉ lệ
16:9.
5. Nguyên tắc của phép dùng vào việc khác - PUT.
- Theo nguyên tắc của phép dùng vào việc khác: ranh giới giữa màn hình máy
tính và tivi thông minh sẽ bị xóa nhòa.

Màn hình máy tính sẽ được tích hợp tính
năng TV, bộ giải mã tín hiệu.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 22
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
- Các màn hình tương lai sẽ mỏng, nhẹ và được trang bị kính cường lực để bảo vệ,
nên có thể dùng làm khay đựng đồ, vật dụng để kê hoặc thậm chí là thớt khi cần
thiết!
6. Nguyên tắc của phép hạn chế /loại bỏ - ELIMINATE.
- Thu nhỏ và tiến đến loại bỏ hẳn viền màn hình máy tính, tăng mật độ
điểm ảnh để đáp ứng được chuẩn 4K hiện nay.
- Loại bỏ dây cáp tín hiệu, thay vào đó màn hình sẽ kết nối với máy tính
qua các kết nối không dây tốc độ cao như chuẩn WiDi của Intel
7. Nguyên tắc của phép tái cấu trúc / đảo ngược - REARRANGE /
REVERSE
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 23
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
Chương 3: KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã trình bày quá trình phát triển màn hình máy tính cá nhân từ
trước đến nay và thử áp dụng một số nguyên lý sáng tạo S.C.A.M.P.E.R. để cải
tiến sản phẩm trong tương lai.
Như vậy, có thể nói việc nắm bắt được tư tưởng của các nguyên tắc sáng
tạo là chìa khóa và cũng là công cụ tuyệt vời, để từ đó, con người có thể sáng
tạo, xây dựng nên những cái mới, góp phần cho sự phát triển, tiến bộ của loài
người.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 24
Giảng viên hướng dẫn: GS.TSKH. HOÀNG KIẾM Phương pháp nghiên cứu khoa học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu về phương pháp nghiên cứu khoa học trong tin học:
- Slide “Phương pháp nghiên cứu khoa học trong tin học” - GS. TSKH. Hoàng
Kiếm

- SCAMPER và những câu hỏi gợi mở sáng tạo:
/>2. Quá trình phát triển màn hình máy tính cá nhân:
/> /> />OLED
Một số thông tin, tư liệu, hình ảnh khác từ Internet.
Học viên: VŨ THÁI – CH1201061, Lớp: Cao học Khóa 7, ĐH. CNTT Trang 25

×