Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo trên địa bàn huyện mỹ hào, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 133 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM





NGUYỄN THỊ TRÚC MAI




HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MỸ HÀO, TỈNH HƯNG YÊN




CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI BẰNG ĐOÀN



HÀ NỘI – 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, nội dung, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Trúc Mai







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và
tập thể.
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Khoa Kế toán
và Quản trị kinh doanh, Bộ môn Kế toán Quản trị– Kiểm toán Học viện nông
nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Bùi Bằng Đoàn đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các cơ quan, ban ngành của huyện Mỹ Hào đã
tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tư liệu khách quan giúp tôi hoàn thành luận
văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã
động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Trúc Mai

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục từ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục sơ đồ, biểu đồ viii
1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.2.3 Câu hỏi nghiên cứu 2
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 3
2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
2.1 Một số vấn đề về Ngân sách nhà nước và chi Ngân sách nhà nước 4
2.1.1 Ngân sách nhà nước 4
2.1.2 Chi NSNN và chi NSNN cho giáo dục và đào tạo 7
2.2 Quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo 17
2.2.1 Một số vấn đề chung về quản lý chi NSNNN cho sự nghiệp GD-ĐT 17
2.2.3 Phân cấp quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT 24
2.2.4 Nguyên tắc và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chi ngân sách cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo 30
2.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài 35
2.2.1 Kinh nghiệm quản lý chi NS cho GD-ĐT ở một số nước trên thế giới 35
2.2.2 Kinh nghiệm quản lý chi NSNNcho GD-ĐT ở một số địa phương tại
Việt Nam 38
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv

2.2.3 Một số công trình nghiên cứu có liên quan 40
3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
3.1 Đặc điểm huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên 42
3.1.1 Điều kiện tự nhiên huyện Mỹ Hào 42
3.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội 46
3.1.3 Tình hình phát triển GD –ĐT huyện Mỹ Hào 51
3.2 Phương pháp nghiên cứu 52
3.2.1 Phương pháp thu thập số liệu 52
3.2.2 Phương pháp xử lý và tổng hợp thông tin 53

3.2.3 Phương pháp phân tích thông tin 54
3.2.4 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 54
4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 56
4.1 Một số nét cơ bản chi NSNN cho GD-ĐT ở huyện Mỹ Hào 56
4.1.1 Khái quát về sự nghiệp GD& ĐT huyện Mỹ Hào 56
4.1.2 Tình hình chi NSNN huyện Mỹ Hào 61
4.2 Thực trạng quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện Mỹ Hào 64
4.2.1 Mô hình và tổ chức bộ máy quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT
huyện Mỹ Hào 64
4.2.2 Thực trạng quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện Mỹ Hào 69
4.2.3 Đánh giá chung về quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện
Mỹ Hào 88
4.3 Các giải pháp hoàn thiện quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT
huyện Mỹ Hào 94
4.3.1 Định hướng chung 94
4.3.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý chi NSNN cho sự
nghiệp GD&ĐT huyện Mỹ Hào 96
5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 115
5.1 Kết luận 115
5.2 Kiến nghị 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Từ viết tắt Diễn giải
GD-ĐT Giáo dục và đào tạo
NSNN Ngân sách nhà nước

NS Ngân sách
UBND Ủy ban nhân dân
HĐND Hội đồng nhân dân
TC-KH Tài chính – Kế hoạch

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang
3.1 Tình hình sử dụng đất đai của huyện Mỹ Hào trong giai đoạn 2011 -
2013 45
3.2 Tình hình dân số và lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2011 - 2013 47
3.3 Tình hình kinh tế của huyện Mỹ Hào giai đoạn 2011 - 2013 50
3.3 Quy mô phát triển các ngành học sự nghiệp giáo dục huyện Mỹ Hào 51
4.1 Kết quả thực hiện nhiệm vụ GD – ĐT huyện Mỹ Hào 57
4.2 Cơ sở vật chất tại các trường học huyện Mỹ Hào quản lý tính tới thời
điểm hết năm 2013 59
4.3 Đánh giá của phụ huynh học sinh về chất lượng cơ sở vật chất các
trường học huyện Mỹ Hào quản lý 60
4.4 Kết quả thực hiện chi NSNN huyện Mỹ Hào giai đoạn 2011-2013 63
4.5 Số lượng cán bộ quản lý tài chính các cơ sở GD trên địa bàn huyện
Mỹ Hào 68
4.6 Phân bổ định mức chi cho các cơ sở Đào tạo tỉnh Hưng Yên năm
2011, giai đoạn 2011-2015 69
4.7 Tổng hợp ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý huyện Mỹ Hào về định
mức phân bổ NSNN của tỉnh qua các năm 70
4.8 Cơ cấu dự toán chi NSNN huyện Mỹ Hào giai đoạn 2011-2013 72

4.9 Dự toán chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT phân bổ chi cho con người
và chi cho công việc. 73
4.10 Dự toán chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện Mỹ Hào phân bổ
theo khối trường 74
4.11 Tổng hợp ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý về công tác lập dự toán
chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT các năm 76
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii

4.12. Kết quả thực hiện chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện Mỹ Hào
qua các năm 78
4.13 Tổng hợp chi tết kết quả thực hiện chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT
huyện Mỹ Hào giai đoạn 2011-2013 79
4.14 Quá trình thực hiện chi ngân sách được phân bổ tại các trường học
trên địa bàn huyện Mỹ Hào 80
4.15 Đánh giá của phụ huynh học sinh về quản lý sử dụng ngân sách tại
các trường học 82
4.16 Kết quả thực hiện quyết toán chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện
Mỹ Hào 84
4.17 Tình hình quyết toán chi NSNN tại các cơ sở GD-ĐT huyện Mỹ Hào
quản lý năm 2013 86
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ


STT Tên sơ đồ, biểu đồ Trang
Sơ đồ 4.1 Hệ thống quản lý sự nghiệp GD - ĐT huyện Mỹ Hào 56
Sơ đồ 4.2 Tổ chức bộ máy quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện

Mỹ Hào 64
Sơ đồ 4.3 Mô hình cấp phát vốn NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện Mỹ Hào 67

Biểu đồ 4.1 Tỷ trọng dự toán chi NSNN cho GD-ĐT trong cơ cấu chi NSNN
huyện Mỹ Hào 72
Biểu đồ 4.2 Tỷ trọng chi con người và chi cho công việc trong tổng chi cho
GD huyện Mỹ Hào giai đoạn 2011-2013 73
Biểu đồ 4.3 Tỷ trọng chi cho các ngành học Mầm non, tiều học và THCS
trong tổng chi NSNN cho sự nghiệp GD-ĐT huyện Mỹ Hào 75
Biểu đồ 4.4 Cơ cấu cán bộ làm quản lý tài chính ở các cơ sở GD-ĐT huyện
Mỹ Hào phân theo trình độ đào tạo 94
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi chế độ xã hội, giáo dục và đào tạo luôn là hoạt động quan trọng
của con người đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Bỡi lẽ
giáo dục là nền tảng văn hóa, là cơ sở hình thành nhân cách và nâng cao năng lực
chinh phục thế giới.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp GD& ĐT,
luôn có những chính sách ưu tiên, đầu tư cho phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Nghị quyết
đại hội Đảng khóa IX nêu rõ “Giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu”. Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân đòi hỏi các cấp, các ngành,
các đoàn thể, các tổ chức xã hội, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm, tạo điều kiện giúp đỡ
cho sự nghiệp giáo dục phát triển.
Giáo dục, đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động nâng cao trí tuệ, hiểu biết
và khả năng vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất của con người.
Tri thức là nguồn lực mạnh nhất so với tài nguyên thiên nhiên, tiền bạc của cải và

sức mạnh cơ bắp trong việc tạo ra sản phẩm hàng hoá. Giáo dục - đào tạo giúp
chúng ta tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia công nghệ, những nhà
quản lý giỏi, nói chung là tạo ra những con người lao động với hàm lượng trí tuệ
ngày càng cao.
Để đảm bảo phát triển sự nghiệp GD&ĐT bền vững, NSNN được coi là công cụ
đặc biệt hữu hiệu, mà cụ thể thông qua việc thu-chi ngân sách. Trong đó chi NSNN, đầu
tư phát triển sự nghiệp GD&ĐT đã đóng góp một phần lớn vào việc hoàn chỉnh cơ sở vật
chất của các trường, lớp học, tạo điều kiện nâng cao chất lượng dân trí xã hội.
Chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo là quá trình phân phối sử dụng
một phần vốn tiền tệ từ quỹ Ngân sách nhà nước để duy trì, phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp.
Vai trò của chi ngân sách không chỉ đơn thuần là cung cấp nguồn lực tài
chính để duy trì, củng cố các hoạt động giáo dục - đào tạo mà còn có tác dụng định
hướng, điều chỉnh các hoạt động giáo dục phát triển theo đường lối chủ trương của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2

đảng và Nhà nước.
Ngân sách nhà nước luôn là nguồn chủ yếu cung cấp tài chính để duy trì,
định hướng sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD&ĐT
huyện Mỹ Hào đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể nhưng bên cạnh đó cũng còn
nhiều vấn đề nảy sinh chưa giải quyết triệt để. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những bất
cập trong quản lý chi NSNN cho sự nghiệp GD&ĐT huyện Mỹ Hào. Để tìm hiểu kỹ
hơn về những mặt đã đạt được, những tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân của tồn tại
hạn chế, qua đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi NSNN
cho sự nghiệp GD&ĐT là một điều quan trọng và cần thiết, do đó tôi thực hiện tiến
hành nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp
Giáo dục và Đào Tạo trên địa bàn huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên”.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giái pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi
Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn huyện Mỹ Hào,
tỉnh Hưng Yên.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý chi Ngân sách nhà nước
trong lĩnh vực sự nghiệp Giáo dục và Đảo tạo ở các địa phương hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục và
đào tạo trên địa bàn huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi Ngân sách nhà nước cho
sự nghiệp giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục và đào tạo của huyện
trong thời gian tới.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu
− Các chính sách của Đảng và Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo?
− Nội dung và các nguyên tắc quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục
và đào tạo tại các địa phương hiện này?
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3

− Thực trạng quản lý và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chi Ngân sách
nhà nước cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại địa bàn nghiên cứu?
− Giải pháp nào để hoàn thiện quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo trên địa bàn huyện Mỹ Hào?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động chi Ngân sách nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục và quản lý hoạt động này trên phạm vi một huyện. Trên cơ sở phân
tích thực trạng sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý này cho phù hợp
với điều kiện của địa phương và tuân thủ các quy định của Luật ngân sách.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý chi Ngân sách nhà nước cho
sự nghiệp giáo dục và đào tạo trên địa bàn huyện nhằm đề xuất các giải pháp hoàn
thiện nội dung này ở các địa phương hiện nay.
- Phạm vi về không gian:
Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.
- Phạm vi về thời gian:
Đề tài sử dụng các thông tin, số liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu từ
năm 2011 đến 2013 và được tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ 2013 đến 2014.



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.1. Một số vấn đề về Ngân sách nhà nước và chi Ngân sách nhà nước
2.1.1. Ngân sách nhà nước
2.1.1.1. Khái niệm
Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Sự hình thành
và phát triển của Ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của
kinh tế hàng hóa.
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống
kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm NSNN
được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay là: Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước. (Luật Ngân sách nhà nước, 2002).

Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính
của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các
lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Tuy đa dạng, phong phú như
vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:
- Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế -
chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định.
Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội
nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các
quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng
đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước.
- Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm
xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh
vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
2.1.1.2 Vai trò, chức năng của NSNN
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của Ngân sách nhà nước được thay đổi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5

và trở nên hết sức quan trọng. Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc gia Ngân sách
nhà nước có các vai trò như sau :
- Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước, để đảm bảo
cho hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi phải
có những nguồn tài chính nhất định. Những nguồn tài chính này được hình thành từ
các khoản thu thuế và các khoản thu ngoài thuế. Đây là vai trò lịch sử của Ngân
sách nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào, cơ chế kinh tế nào Ngân sách nhà
nước đều phải thực hiện.
- Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và
chống lạm phát. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh

giữa các nhà doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của
thị trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt
động của thị trường. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên
hoặc giảm đột biến và gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch chuyển
vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này
sang địa phương khác. Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác động tiêu cực đến
cơ cấu kinh tế, nền kinh tế phát triển không cân đối. Do đó, để đảm bảo lợi ích
cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng, Nhà nước phải sử dụng ngân sách để
can thiệp vào thị trường nhằm bình ổn giá cả thông qua công cụ thuế và các
khoản chi từ Ngân sách nhà nước dưới các hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử
dụng các quỹ dự trữ hàng hoá và dự trữ tài chính. Đồng thời, trong quá trình điều
tiết thị trường Ngân sách nhà nước còn tác động đến thị trường tiền tệ và thị
trường vốn thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính như: phát hành trái
phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài, tham gia mua bán chứng khoán
trên thị trường vốn… qua đó góp phần kiểm soát lạm phát.
- Ngân sách nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất. Để định hướng
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi ngân sách. Bằng
công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt khác nhà nước sử dụng thuế
với các loại thuế, các mức thuế suất khác nhau sẽ góp phần kích thích sản xuất phát
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6

triển và hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào những vùng, những lĩnh vực cần
thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng đã định. Đồng thời, với các khoản chi
phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn… nhà
nước có thể tạo điều kiện và hướng dẫn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào những
vùng, lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư. Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhà nước phải có một chính sách phân phối lại thu

nhập hợp lý nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về thu nhập trong dân cư. Ngân
sách nhà nước là công cụ tài chính hữu hiệu được nhà nước sử dụng để điều tiết thu
nhập, với các sắc thuế như thuế thu nhập luỹ tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt … một mặt
tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt khác lại điều tiết một phần thu nhập của tầng lớp
dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh công cụ thuế, với các khoản chi của Ngân sách
nhà nước như chi trợ cấp, chi phúc lợi cho các chương trình phát triển xã hội: phòng
chống dịch bệnh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hoá gia đình… là
nguồn bổ sung thu nhập cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp.
Các vai trò trên của Ngân sách nhà nước cho thấy tính chất quan trọng của
Ngân sách nhà nước, với các công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả
đối với toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động
và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý
và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà nước.
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ một Nhà
nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của mình, trước hết phải có
nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực
lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi
cho đầu tư phát triển v.v Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp
các khoản thu theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với
chính sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm bảo
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7

nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối thu chi bằng
tiền của Nhà nước.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các khoản thu
và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN kiểm tra, giám sát quá
trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của các

đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi
thường pháp luật và các chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông
lỏng việc kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai luật định và các chế
độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu chi NSNN
giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông
qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các
chủ trương, chính sách, chế độ do Đảng và Nhà nước đề ra.
Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan hệ mật
thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể coi chức năng này
hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức năng ở mọi lúc, mọi nới trong tạo
lập và sử dụng vốn NSNN.
2.1.2 Chi NSNN và chi NSNN cho giáo dục và đào tạo
2.1.2.1 Khái niệm về chi Ngân sách Nhà nước
Chi NSNN là một trong hai nội dung cơ bản của hoạt động NSNN, Chi
NSNN là quá trình phân phối, sử dụng quỹ NSNN do quá trình thu tạo lập lên nhằm
duy trì sự tồn tại, hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước và thực hiện các
chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Chi Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ
của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. (Luật
Ngân sách nhà nước, 2002)
Chi NSNN phản ảnh mục tiêu hoạt động của ngân sách, đó là đảm bảo về mặt
vật chất (tài chính) cho hoạt động của Nhà nước, với tư cách là chủ thể của NSNN
trên hai phương diện: i) Duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thường của bộ máy Nhà
nước, và ii) Thực hiện các chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước phải gánh vác.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8

Chi NSNN bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau. Giai đoạn thứ nhất là phân
phối (phân bổ) quỹ NSNN cho các đối tượng, mục tiêu khác nhau. Quá trình phân

phối được thực hiện trên dự toán và trên thực tế (chấp hành Ngân sách Nhà nước),
dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau như chức năng, nhiệm vụ, quy mô hoạt động,
đặc điểm tự nhiên, xã hội thể hiện cụ thể dưới dạng định mức, tiêu chuẩn, chế độ
chi ngân sách. Giai đoạn tiếp theo là việc sử dụng phần quỹ ngân sách đã được phân
phối của các đối tượng được hưởng thụ, hay còn gọi là quá trình thực hiện chi tiêu
trực tiếp các khoản tiền của NSNN. NSNN được sử dụng ở các khâu tài chính Nhà
nước trực tiếp, gián tiếp và các khâu tài chính khác phi Nhà nước. Chi ngân sách kết
thúc khi tiền đã thực sự được sử dụng cho các mục tiêu đã định.
Các khoản chi Ngân sách nhà nước rất đa dạng và phong phú nên có nhiều
cách phân loại chi NSNN khác nhau:
- Theo tính chất phát sinh các khoản chi, chi NSNN bao gồm chi thường
xuyên và chi không thường xuyên.
Chi thường xuyên: là những khoản chi phát sinh tương đối đều đặn cả về mặt
thời gian và quy mô các khoản chi. Nói cách khác là những khoản chi được lặp đi lặp
lại tương đối ổn định theo những chu kỳ thời gian cho những đối tượng nhất định.
Chi không thường xuyên: là những khoản chi ngân sách phát sinh không đều
đặn, bất thường như chi đầu tư phát triển, viện trợ, trợ cấp thiên tai, địch hoạ, trong
đó, chi đầu tư phát triển được coi là phần chủ yếu của chi không thường xuyên.
- Theo mục đích sử dụng cuối cùng, chi NSNN được chia thành chi tích luỹ
và chi tiêu dùng.
Chi tích luỹ là các khoản chi mà hiệu quả của nó có tác dụng lâu dài. các
khoản chi này chủ yếu được sử dụng trong tương lai như: Chi đầu tư hạ tầng
kinh tế - kỹ thuật, chi nghiên cứu khoa học công nghệ, công trình công cộng, bảo
vệ môi trường,
Chi tiêu dùng là những khoản chi nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu trước
mắt và hầu như được sử dụng hết sau khi đã chi như: chi cho bộ máy Nhà nước, an
ninh, quốc phòng, văn hoá, xã hội, Cụ thể, đó là các khoản chi lương, các khoản có
tính chất lương và chi hoạt động. Nhìn chung, chi tiêu dùng là những khoản chi có
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9


tính chất thường xuyên.
- Theo mục tiêu, chi NSNN được phân loại thành chi cho bộ máy Nhà nước
và chi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Chi cho bộ máy nhà nước: bao gồm chi đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, mua
sắm các trang thiết bị cần thiết, chi trực tiếp cho đội ngũ cán bộ, công chức, chi phí
thường xuyên để duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước (văn phòng phí, hội
nghị, công tác phí ).
Chi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước: bao gồm chi cho an
ninh - quốc phòng (những khoản chi duy trì hoạt động bình thường của các lực
lượng an ninh, quốc phòng như chi đầu tư, chi mua sắm, chi hoạt động), chi phát
triển văn hoá, y tế, giáo dục, đảm bảo xã hội, chi phát triển kinh tế là những khoản
đầu tư cơ sở hạ tầng quan trọng cho nền kinh tế (giao thông, điện và chuyển tải
điện, thông tin liên lạc, thuỷ lợi và cấp thoát nước, sự nghiệp nhà ở) và một số
nhiệm vụ khác như: Hỗ trợ các đoàn thể chính trị - xã hội, đối ngoại
- Với tư cách là quỹ tiền tệ để thanh toán cho các nhu cầu của nhà nước và
tài trợ cho các đối tượng khác nhau trong xã hội (Nhà nước với tư cách là người
mua của thị trường), chi NSNN bao gồm:
Chi thanh toán: là chi trả cho việc Nhà nước được hưởng những hàng hoá,
dịch vụ mà xã hội cung cấp cho Nhà nước. Chi thanh toán gắn với hai luồng đi lại:
tiền và hàng hoá, dịch vụ.
Chi chuyển giao: là những khoản chi mang tích chất một chiều từ phía nhà
nước như tài trợ, trợ cấp, cứu trợ
- Theo quan điểm của kinh tế học công cộng, Ngân sách nhà nước được xem
là công cụ cung cấp nguồn lực để Nhà nước thực hiện việc sản xuất và cung cấp
những hàng hoá, dịch vụ cho xã hội. Theo quan điểm này, hàng hoá, dịch vụ được
phân thành những hàng hoá, dịch vụ cá nhân (dùng cho những cá nhân) và hàng
hoá, dịch vụ công cộng (nhiều người cùng sử dụng một lúc, khó hoặc không thể loại
trừ được một người nào đó muốn sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó).
Từ đây, chi ngân sách có thể khái quát lại bao gồm:

- Chi đầu tư để cung cấp những hàng hoá, dịch vụ công cộng vô hình cần thiết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10

cho xã hội như an ninh - quốc phòng, đảm bảo môi trường, phòng chống thiên tai,
- Chi đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng hữu hình cần thiết mà tư nhân
không thể làm được hoặc không muốn làm (giao thông, điện và chuyển tải điện, y
tế, giáo dục, )
- Chi đầu tư để cung cấp một số hàng hoá, dịch vụ cá nhân thuộc các ngành
kinh tế then chốt, mũi nhọn, huyết mạch, có ý nghĩa quyết định đối với nền kinh tế
quốc dân.
2.1.2.2. Chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo
Chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là quá trình phân phối, sử
dụng vốn từ quỹ Ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhi cầu chi của toàn bộ ngành
giáo dục nhằm đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ đã đặt ra.
Theo mục 2 chương VII Luật Giáo dục năm 2005 của Quốc hội có quy định
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục như sau:
1. Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo
đảm tỷ lệ tăng chi ngân sách giáo dục hằng năm cao hơn tỷ lệ tăng chi ngân sách
nhà nước.
2. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc
công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với
giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
3. Cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí giáo dục đầy đủ, kịp thời,
phù hợp với tiến độ của năm học. Cơ quan quản lý giáo dục có trách nhiệm quản lý,
sử dụng có hiệu quả phần ngân sách giáo dục được giao và các nguồn thu khác theo
quy định của pháp luật.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của ngành giáo dục đào tạo, nội dung chi Ngân

sách nhà nước cho giáo dục đào tạo gồm:
- Chi ngân sách cho hệ thống các trường học, có:
+ Chi ngân sách cho hệ thống các trường mầm non và các trường phổ thông.
+ Chi ngân sách cho các trường đại học, các học viện, các trường cao đẳng,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11

các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
+ Chi cho các trường Đảng, đoàn thể.
- Chi ngân sách cho các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo như:
Bộ giáo dục đào tạo, Sở giáo dục, phòng giáo dục
Như vậy, chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo trên
địa bàn huyện quản lý bao gồm các khoản chi ngân sách cho các hệ thồng trường
mầm non, trường tiểu học, phổ thông cơ sở, và các khoản chi cho các trường
Đảng, đoàn thể.
Nếu phân chia nội dung chi theo các nhóm mục chi thì chi cho sự nghiệp
giáo dục bao gồm:
Chi cho con người: Bao gồm những khoản chi nhằm để duy trì những hoạt
động bình thường của toàn ngành giáo dục. Khoản chi này gồm chi lương, phụ cấp,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn… chủ yếu là các khoản chi để đảm
bảo đời sống sinh hoạt của cán bộ, giáo viên giảng dạy trong ngành giáo dục.
Chi công tác giảng dạy: Bao gồm những khoản chi để đảm bảo cho công tác giảng
dạy, học tập như mua trang thiết bị, sách giáo khoa, các đồ vật thí nghiệm, in ấn tài liệu,
những khoản chi để nhằm đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Chi cho quản lý hành chính: Các khoản chi này nhằm duy trì sự hoạt động
bình thường của bộ máy quản lý tại mỗi cơ quan, đơn vị và toàn ngành giáo dục.
Thuộc khoản chi này bao gồm: Chi tiền chè, nước tại cơ quan, chi trả tiền điện, tiền
nước đã sử dụng tại văn phòng cơ quan, chi trả các dịch vụ về thông tin liên lạc, chi
phí giao dịch, tiếp khách, chi hội nghị sơ kết, tổng kết, lễ tân, khánh tiết…
Chi mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ: Hàng năm do

nhu cầu hoạt động, do sự xuống cấp tất yếu của các tài sản dùng cho hoạt động hành
chính, giảng dạy tại các cơ quan, đơn vị thuộc ngành giáo dục nên thường phát sinh
nhu cầu kinh phí cần có để mua sắm thêm trang thiết bị hoặc phục hồi lại giá trị sử
dụng cho những tài sản đã bị xuống cấp tại các đơn vị. Vì vậy cần phải xác định nhu
cầu kinh phí đáp ứng cho mua sắm, sửa chữa lớn hay xây dựng nhỏ trong dự toán
kinh phí hàng năm của mỗi đơn vị để làm cơ sở lập dự toán chi Ngân sách nhà nước
cho sự nghiệp giáo dục.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12

Chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ được xác định bằng tỷ lệ
phần trăm trên nguyên giá tài sản cố định hiện tại của ngành.
Ngoài ra từ năm 1991 Ngân sách nhà nước còn thể hiện ở chi tiêu cho các
đơn vị thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục như chương trình
phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở vật chất
trường học, chương trình công nghệ giáo dục Hầu hết các khoản chi trên là những
khoản chi phát sinh thường xuyên, tương đối ổn định và có thể định mức được. Do
vậy trong quản lý các khoản chi này phải lấy định mức làm cơ sở, riêng các khoản
mua sắm sửa chữa nhỏ không phát sinh thường xuyên nên phải căn cứ vào thực
trạng nhà cửa trang thiết bị, chế độ chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và
đặc biệt là khả năng nguồn vốn của NSNN để cấp phát và chi tiêu.
Đối với chi đầu tư XDCB tập trung cho GD&ĐT, tuỳ theo yêu cầu quản lý nội
dung chi đầu tư XDCB được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Xét theo hình
thức tái sản xuất TSCĐ, chi đầu tư XDCB cho giáo dục đào tạo được phân thành:
- Chi đầu tư xây dựng mới các TSCĐ phục vụ cho giáo dục đào tạo như các
trường học, thư viện, phòng thí nghiệm…
- Chi cải tạo, nâng cấp mở rộng các TSCĐ hiện có nhằm tăng thêm công suất
và hiện đại hoá TSCĐ như nâng cấp trường học, thư viện, xây thêm các lớp học…
2.1.2.3. Vai trò của Chi NSNS cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Chi NSNN cho sự nghiệp GD&ĐT luôn đóng vai trò quan trọng và chiểm tỷ

trọng cao trong cơ cấu chi NSNN của nước ta. Trong năm 2013, trong dự toán chi
NSNN, chi NSTW, chi NSĐP theo cơ cấu chi năm 2013 thì chi NSNN cho sự
nghiệp GD&ĐT, dạy nghề là 30.015 tỷ đồng, chiếm 3,07% tổng chi cân đối NSNN
năm 2013 (QĐ 3299/QĐ-BTC ngày 27/12/2012).
Giáo dục - đào tạo là hoạt động trực tiếp tác động nâng cao trí tuệ, hiểu biết
và khả năng vận dụng những tri thức khoa học, kỹ thuật vào sản xuất của con người.
Tri thức là nguồn lực mạnh nhất so với tài nguyên thiên nhiên, tiền bạc của cải và
sức mạnh cơ bắp trong việc tạo ra sản phẩm hàng hoá. Giáo dục - đào tạo giúp
chúng ta tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia công nghệ, những nhà
quản lý giỏi, nói chung là tạo ra những con người lao động với hàm lượng trí tuệ
ngày càng cao.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13

Giáo dục - đào tạo cũng có tác dụng tích cực trong việc giúp cho người lao
động có năng lực tự giải quyết công ăn việc làm. Khả năng giải quyết việc làm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trí tuệ, hiểu biết có vai trò quan trọng nhất hình thành
năng lực tự giải quyết việc làm của người lao động. Thông thường, những người
được đào tạo tốt, có trình độ học vấn, có hiểu biết khoa học, kỹ thuật, kinh tế, có
trình độ chuyên môn và tay nghề cao đễ tìm được việc làm cho mình hơn những
người không được đào tạo hay đào tạo kém, thậm chí những người được đào tạo tốt
còn có thể tạo ra việc làm cho nhiều người khác nữa.
Nhận thức rõ sứ mạng của giáo dục- đào tạo đối với sự phát triển kinh tế xã
hội, Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác giáo dục, đào
tạo. Hồ Chủ Tịch đã từng nói "muốn có chủ nghĩa xã hội, thì phải có những con
người xã hội chủ nghĩa”. Bác Hồ coi giáo dục và đào tạo là công việc xây dựng con
người lao động mới và là một chiến lược lâu dài "Vì hạnh phúc mười năm trồng
cây, vì hạnh phúc trăm năm trồng người”.
Có thể nói giáo dục và đào tạo là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của
toàn Đảng, toàn dân trong thời gian qua. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục - đào

tạo được coi là khâu đột phá cho những định hướng chiến lược về mục tiêu, giải
pháp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2020.
Chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo là quá trình phân phối sử dụng
một phần vốn tiền tệ từ quỹ Ngân sách nhà nước để duy trì, phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp.
Vai trò của chi ngân sách không chỉ đơn thuần là cung cấp nguồn lực tài
chính để duy trì, cũng cố các hoạt động giáo dục - đào tạo mà còn có tác dụng định
hướng, điều chỉnh các hoạt động giáo dục phát triển theo đường lối chủ trương của
đảng và Nhà nước.
Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, toàn bộ vốn đầu
tư cho giáo dục - đào tạo do NSNN đài thọ. Nguồn kinh phí này đã đóng vai trò
quyết định trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, góp phần phát triển
nâng cao trình độ dân trí, đào tạo ra những lớp người có đủ năng lực, trí tuệ đóng
góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14

Ngày nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế tri thức với quan điểm “Giáo
dục là sự nghiệp của quần chúng”, Đảng và Nhà nuớc ta đã có chủ trương “Xã hội hoá
giáo dục và đào tạo”. Gắn liền với chủ trương đó, Nhà nước thực hiện mở rộng đa dạng
hoá các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục kể cả trong nước và nước ngoài "Nhà nước ưu
tiên đầu tư và khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt nam định cư ở
nước ngoài, các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục”.
Trong điều kiện có nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo như vậy
những nguồn vốn đầu tư từ NSNN vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò chủ
đạo của chi NSNN cho giáo dục đào tạo được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: Ngân sách nhà nước luôn là nguồn chủ yếu cung cấp tài chính để
duy trì, định hướng sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Giáo dục, đào tạo là một lĩnh vực hoạt động xã hội rộng lớn mà Nhà nước

luôn phải quan tâm và có sự đầu tư thích đáng " Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ
yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục đào tạo ”. Chính vì vậy mà nguồn vốn đầu tư
của Ngân sách nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư cho giáo
dục và đào tạo.
Mặc dù thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính
sách để huy động nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục như chính sách về
đóng góp học phí, lệ phí tuyển sinh, đóng góp xây dựng trường, đóng góp phí đào
tạo từ phía các cơ sở sử dụng lao động, các chính sách ưu đãi về thuế, huy động các
nguồn tài trợ khác cho giáo dục đào tạo Tuy nhiên do việc xã hội hoá trong lĩnh
vực giáo dục đào tạo thực hiện chậm, các thành phần kinh tế phi Nhà nước phát
triển chưa mạnh nên sự đóng góp cho giáo dục còn hạn chế. Vì vậy, cho dù đối
tượng chi có giảm đi nhưng kinh phí đầu tư của NSNN cho giáo dục đào tạo hàng
năm không giảm mà ngày một tăng lên, tỷ trọng chi NSNN cho giáo dục đào tạo
trong tổng chi NSNN tăng từ 10,4% năm 1991 lên 14,04% năm 1999 (Báo cáo
đánh giá tác động của Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 –
2014 của Bộ GD-ĐT) và năm 2013 đạt 20% (Báo cáo quyết toán chi NSNN năm
2013 của BTC)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15

Nếu xem xét dưới giác độ tổng số vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo thì vốn
NSNN cũng chiếm tỷ trọng chủ yếu. Trong xu hướng chung cả nước, ở các địa phương
các cấp chính quyền cũng đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục và đầu tư tài chính
cho sự nghiệp giáo dục đào tạo ở địa phương mình. Ngân sách địa phương trong những
năm qua đã đầu tư một khoản kinh phí lớn cho công tác này, thường chiếm trên 80%
trong tổng vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo.
Thứ hai: Chi Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc củng
cố, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Hai yếu
tố này lại ảnh hưởng có tính chất quyết định đến chất lượng hoạt động giáo dục -
đào tạo

Có thể nói, ngân sách giáo dục chủ yếu dành cho những chi phí liên quan đến
con người. Trong đó, chi lương và phụ cấp cho giáo viên luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo. Hiện nay, trừ một phần nhỏ các
trường dân lập, bán công thì lương và phụ cấp cho giáo viên đều do NSNN đảm
bảo. Phải thấy rằng, lương của giáo viên là một vấn đề có ảnh hưởng đến hiệu quả
làm việc của giáo viên. Một chính sách lương hợp lý cho phép giáo viên không cần
kiếm việc làm thêm, ngược lại nếu mức lương giáo viên không đủ để trang trải
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống và không khuyến khích giáo viên toàn tâm
toàn ý cho việc dạy học thì họ sẽ tìm mọi cách để có thêm thu nhập. Ví dụ như dạy
tư (thường là dạy chính những học sinh ở trường công) hoặc bằng nhiều hoạt động
kinh doanh khác. Hậu quả là nó tác động tiêu cực đến chất lượng giáo dục được cung
cấp qua hệ thống của Nhà nước.
Trong xu hướng xã hội hoá giáo dục và đào tạo hiện nay, mặc dù một số
gánh nặng về chi phí cho giáo dục đào tạo được chia sẻ với khu vực tư nhân, song
chi tiêu của tư nhân không tự nó dẫn đến chất lượng giáo dục tốt hơn, vì vậy vẫn
cần nguồn kinh phí lớn và tăng nhanh từ NSNN để đáp ứng sự gia tăng về số học
sinh, do sức ép dân số và chi phí để nâng cao chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực
giáo dục đào tạo
Thứ ba: nguồn vốn Ngân sách nhà nước là nguồn duy nhất đảm bảo kinh phí
để thực hiện các chương trình - mục tiêu quốc gia về giáo dục như: Chương trình
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16

phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở vật chất
trường học, chương trình đầu tư cho giáo dục vùng cao Đây là những chương
trình mục tiêu lớn, cấp bách cần phải thực hiện và đòi hỏi phải có sự đầu tư kinh phí
khá lớn. Vì vậy Nhà nước phải tập trung ngân sách đầu tư thực hiện cho được các
chương trình này.
Thứ tư: Thông qua cơ cấu, định mức ngân sách cho giáo dục có tác dụng
điều chỉnh cơ cấu, quy mô giáo dục trong toàn ngành. Trong điều kiện đa dạng hoá

giáo dục - đào tạo như hiện nay thì vai trò định hướng của Nhà nước thông qua chi
ngân sách để điều phối quy mô, cơ cấu giữa các cấp học, ngành học, giữa các vùng
là hết sức quan trọng, đảm bảo cho giáo dục - đào tạo phát triển cân đối, theo đúng
định hướng đường lối của đảng và Nhà nước.
Thứ năm: Sự đầu tư của Ngân sách nhà nước có tác dụng hướng dẫn, kích
thích thu hút các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Nhà nước đầu tư
hình thành nên các trung tâm giáo dục có tác dụng thu hút sự đầu tư của các tổ
chức, cá nhân phát triển các loại dịch vụ phục vụ cho trung tâm giáo dục đó. Mặt
khác trong điều kiện các tổ chức, cá nhân chưa có đủ tiềm lực đầu tư độc lập cho
các dự án giáo dục thì sự đầu tư vốn của Ngân sách nhà nước là số vốn đối ứng
quan trọng để thu hút các nguồn lực khác cùng đầu tư cho giáo dục. Thông qua sự
đầu tư của Nhà nước vào cơ sở vật chất và một phần kinh phí hỗ trợ đối với các
trường bán công, tư thục, dân lập có tác dụng thúc đầy mạnh mẽ phong trào xã hội
hoá giáo dục về mặt tài chính.
Qua phân tích các vấn đề trên cho thấy, mức độ đầu tư của Ngân sách nhà
nước được coi như một trong các yếu tố tác động có tính chất quyết định đối với
việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc gia. Từ giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông đến giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, giáo dục
đại học và sau đại học.
Sự tăng cường đầu tư ngân sách cho giáo dục sẽ dẫn đến kết quả là nguồn
nhân lực phát triển, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, trên cơ sở đó Ngân sách
nhà nước tăng thu và có điều kiện để đầu tư trở lại cho giáo dục đào tạo cao hơn
nữa. Đó là mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư cho giáo dục - đào tạo với tăng trưởng

×