Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THCS Ở HUYỆN ZZZ - TỈNH BBB TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.23 KB, 44 trang )

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THCS Ở HUYỆN ZZZ - TỈNH BBB
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ.
1
MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài:
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn
hiến Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới,
Hơn thế kỷ qua, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Trong
sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà thực
sự giữ một vai trò quan trọng, gánh vác những sứ mệnh quang vinh của sứ mạng
dân tộc.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xuống và lãnh đạo đã
thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trưường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN đã được hình thành và từng bước phát triển. Trình độ dân chí được nâng
lên một bước làm cơ sở cho kinh tế- xã hội phát triển, tạo động lực cho sự
nghiệp công nghiệp - hiện đại hoá đất nước.
Với xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng lên, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ và phát triển với tốc độ cao. " khoa học đã trở thành một lực lượng
sản xuất trực tiếp như Mác dự đoán, còn công nghệ đổi mới hết sức nhanh
chóng. Trình độ dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố
quyết định sức mạnh và thế của mỗi Quốc gia trên thế giới" (Văn kiện hội nghị
lần thứ 2 Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà nội;1997, tr 5).
Việc quan hệ ngày càng được mở rộng đã làm cho mỗi quốc gia hiểu sâu
sắc thêm những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ
thể của mọi nguồn sáng tạo, mọi của cải vật chất văn hoá và văn minh của mỗi
quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Để có cơ hội hội nhập được với nền kinh tế
mang tính chất khu vực hoá, toàn cầu hoá, nhiều quốc gia trên thế giới và trong


khu vực đã nhận thức và có chủ trương trong phát triển giáo dục.
Trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước, chúng ta đã đặt con
người vào vị trí trung tâm, phát huy nhân tố con người. Mục tiêu và động lực
chính của sự phát triển do con người và vì con người. Phát huy nhân tố con
người, động lực trực tiếp của sự phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là một trong những quan điểm cơ bản của
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của chiến l-
2
ược ổn định và phát triển KT - XH đến năm 2010 và 2020. Nguồn lực đó là đào
tạo con người phát triển trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, phẩm chất tốt đẹp, c-
ưường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, được đào tạo, bồi dưỡng và
phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến là mục tiêu hướng tới của toàn Đảng,
toàn dân ta.
Thực hiện quan điểm ấy là trách nhiệm của các cấp các ngành, nhưng
trước hết phải là ngành giáo dục. Giáo dục là cách thức, là con đường cơ bản và
ngắn nhất, bền vững nhất để hình thành và hoàn thiện con người mới XHCN -
con người phát triển về trí tuệ, thể lực, đạo đức, lẽ sống, tình cảm.
Hai mươi năm đổi mới, nền giáo dục đào tạo của nước ta đã có nhiều
chuyển biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ thống giáo dục quốc
dân mới được xác lập, luật giáo dục ra đời, mạng lưới trường lớp phát triển rộng,
đáp ứng được nhu cầu học tập của mọi người, qui mô có bước tăng trưởng khá,
mặt bằng dân trí được nâng lên, nội dung, phươngpháp giảng dạy được cải cách
theo hớng hiện đại, được coi trọng triển khai.
Tuy nhiên, trước những thách thức của sự phát triển kinh tế, KH - CN
trong khu vực và trên thế giới, trước những đòi hỏi của sự nghiệp CNH - HĐH
đất nước nền giáo dục cần được phát triển theo tốc độ nhanh, chất lượng tốt hơn.
"chúng ta chỉ có thể phát triển KT - XH một cách làm mạnh và bền vững bằng
việc chăm lo phát triển giáo dục với tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu
quả lớn hơn và đảm bảo công bằng trong giáo dục". (VK HN lần thứ 2 BCH
TW Khoá 8, NXB CTQG, HN, 1997, tr 9). Song những thay đổi trong giáo dục

- đào tạo vẫn còn chậm, còn nhiều bất cập so với yêu cầu của phát triển kinh tế
và khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó cơ chế thị tr-
ưường cũng ảnh hưởng đến giáo dục cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Những
biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục, xuống cấp về đạo đức và văn
hoá, những yếu kém trong quản lí dạy thêm, học thêm tràn lan, chất lượng và
hiệu quả GD - ĐT còn thấp chưa đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội ngày
càng lớn về nguồn nhân lực có tri thức. Mặt khá, đời sống của đội ngũ cán bộ
giáo viên, lực lượng trực tiếp quyết định chất lượng GD - ĐT còn nhiều khó
khăn.
Bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta đang có nhiều thời cơ mới để phát
triển đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều thử thách mới. Một trong bốn
nguy cơ được Đảng ta xác định, đáng lo ngại nhất là tụt hậu về kinh tế. Với tư
cách là động lực phát triển KT - XH, GD - ĐT phải tiếp tục đổi mới và phát
triển, trong đó có bậc THCS (Trung học cơ sở). giáo dục THCS giúp học sinh
3
củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học và phổ cập GDTH đúng độ
tuổi, tiếp tục học lên các bậc học trên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển GD - ĐT của cả nước, GD -
ĐT ở Tỉnh XYZ nói chung và huyện BBB nói riêng đã từng bước phát triển cả
về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trưường lớp được hình thành và phát triển
ở các địa bàn đáp ứng nhu cầu học của mọi người, có đủ các loại hình trường
lớp, các hình thức học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học được cải thiện,
chất lượng giáo dục mũi nhọn ổn định và có tiến bộ nhất là ở bậc THCS, THPT
số lượng học sinh TH trog những năm qua đều tăng đáng kể. Tuy nhiên điều
kiện phục vụ cho giảng dạy và họctập còn nhiều khó khăn, cơ cấu đội ngũ giáo
viên chưa đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu, chất lượng đại trà còn yếu, một bộ phận
giáo viên trẻ thiếu kinh nghiệm nhất là ở những xã ĐBKK và ATK. Đó là thực
tế khách quan cần phải giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và yêu cầu đổi
mới của sự nghiệp phát triển GD - ĐT, góp phần phát triển KT - XH ở địa ph-
ương.

Với kiến thức được học tập tại chương trình cao cấp lý luận chính trị của
học viện Chính trị - Khu vực I, cùng thực tế công tác ở cơ quan quản lí giáo dục
địa phương tôi mạnh dạn chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng giáo dục trung học
cơ sở ở huyện BBB - Tỉnh XYZ trong thời kỳ định hướng công nghiệp hoá -
hiện đại hoá". Làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học, từ đó làm sáng tỏ
những quan điểm, đường lối, chủ trương cũng như quá trình tổ chức thực hiện
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THCS ở huyện BBB - Tỉnh
XYZ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất phát từ cơ sở KH, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác- lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta cúng lí luận về giáo dục dạy học
để phân tích thực trạng công tác giáo dục bậc THCS ở huyện miền núi XXX.
Với những thành tích đã đạt được cùng những khuyết điểm, tồn tại và nguyên
nhân của nó. Từ đó tìm ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo
dục trong thời gian tới.
2.2.Nhiện vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở trình bày đặc điểm, tình hình KT-XH của huyện BBB - Tỉnh
XYZ; Luận văn có nhiệm vụ:
4
- Phân tích làm sáng tỏ thực trạng giáo dục - đào tạo ở huyện BBB - Tỉnh
XYZ từ năm 2000- 2005.
- Bước đầu đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra một số nguyên nảan
cơ bản, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục
trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu thực trạng chất lượng GD THCS của
huyện BBB - Tỉnh XYZ, đặc biệt ở một số trường điển hình.
Thời gian nghiên cứu đề tài trong 5 năm trở lại đây, từ năm 2000 khi

ngành GD thực hiện NQ TW2 khoá 8 và NQ ĐH Đảng lần thứ IX, tiếp tục
khẳng định giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng phương luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta.
- Đề tài chú trọng phương pháp lịch sử và logíc, kết hợp lịch sử với lôgic,
những pháp phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê,…
- Sử dụng phương pháp văn bản, dựa vào các văn kiện Đảng, các Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng , các báo cáo của nghành, của tỉnh và của
huyện của các trường Trung học cơ sở trên địa bàn.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương chính:
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NỀN
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG TA VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Trong lịch sử nhân loại, bất cứ quốc gia nào, thời đại nào cũng phải xây
dựng một hệ thống giáo dục với mục tiêu đào tạo ra những con người phù hợp
với chế độ xã hội ấy. Môi trưường chủ yếu, tốt nhất để truyền thu kiến thức,
giáo dục nhân cách chính là nhà trường.
Một trong những tư tưởng của Mác Ăng ghen đã nêu trong tuyên ngôn
của Đảng cộng sản là phát triển con người toàn diện. Đồng thời còn nhấn mạnh
làm sao con người được phát triển tự do, mỗi cá nhân, người lao động có tính
độc lập và cá tính, làm cho mỗi người thành một đơn vị chủ thể của đội ngũ
nhân lực, là nguồn vốn tạo ra sản phẩm, chất lượng, hiệu quả, làm cho lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất đạt trình độ phát triển mới.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: ý thức là một phạm trù triết học, một hiện
tượng tâm lý phức tạp bao gồm tri thức, tình cảm, cảm giác, tri giác, nghị lực,
lòng tin trong đó quan trọng nhất là trí thức, đó là toàn bộ hiểu biết của con
người về thế giới càng cao hơn, đầy đủ hơn. Nếu ý thức không dựa trên trí thức,
tức là không xây dựng trên cơ sở hiểu biết thì cái ý thức ấy chỉ là đồng nghĩa với
lòng tin tôn giáo mà thôi.
Theo Mác: "Con người là tổng hoá các mối quan hệ xã hội". Con người là
sản phẩm của tất cả các mối quan hệ xã hội nói chung trong đó có nhà trường là
phương tiện, là môi trưường chủ yếu hình thành nhân cách và trang bị cho thế hệ
trẻ những tri thức, phát triển trí tuệ để con người thành năng lực của bản thân và
có năng lực phát triển sáng tạo ra những tri thức mới về tự nhiên - xã hội. giáo
dục với tư cách là một bộ phận của xã hội có nhiệm vụ đào tạo ra thế hệ tương
lai.
Nhng làm sao để có tri thức? Lênin nói: "không có sách thì không có tri
thức, không có tri thức thì không có CNXH cà CNCS". Điều đó có nghĩa là:
Muốn có tri thức thì phải được học, được giáo dục, tri thức của nhân loại là vô
hạn. Vì vậy, Lênin đã dạy "Học, học nữa , học mãi".
6
Phê phán nền giáo dục của các chế độ xã hội từ phong kiến đến TBCN, nhận
thức vị trí vai trò quan trọng của giáo dục, các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra phương
hướng, nhiệm vụ của nền giáo dục mới là phải đào tạo ra những con người mới phát
triển toàn diện có trí tuệ, hoàn thiện nhân cách phục vụ chế độ xã hội mới.
Quá trình hình thành nhân cách ở mỗi người là quá trình lâu dài; khi trẻ
em mới sinh ra chỉ là một cơ thể sinh học có hàng loạt các thuộc tính tiềm năng,
quá trình giáo dục sẽ phát triển các thuộc tính tiềm năng ấy, biến đứa trẻ thành
người với thức thể trí tuệ có khả năng sáng tạo. Nếu không được giáo dục (từ
cha mẹ, gia đình, xã hội) thì đứa trẻ không thể nào thích ứng được với cuộc sống
hiện tại. Giáo dục với t cách là quá trình văn hoá góp phần quan trọng hình
thành nhân cách ở mỗi con người nhằm thích ứng với cuộc sống lao động. Nghĩa
là quá trình giáo dục đó dạy cho họ cách ứng xử làm thế nào để đạt được mục

đích chủ yếu, cơ bản của cuộc sống, học để tồn tại và phát triển. Như vậy, sự
hình thành nhân cách chỉ có thể thông qua giáo dục.
2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, Danh nhân văn
hoá thế giới trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, người đặc biệt
coi trọng vấn đề giáo dục - đào tạo. Ngay từ lúc Cách mạng Vịêt Nam còn trong
thời kỳ trứng nước, người đã tổ chức đưa con em nước ta ra nước ngoài để mở
lớp đào tạo, học tập lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng về đường lối Cách
mạng vô sản. Người đã trực tiếp giảng dạy và huấn luyện lớp học đầu tiên tại,
(Quảng Châu). Sau khi lớp học kết thúc hầu hết các học viên đều đã trở thành
chiến sĩ cách mạng. Trong đó, nhiều người trở thành lãnh tụ cùng người lãnh
đạo cách mạng nước ta giành thắng lợi, khai sinh ra nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam á vào năm 1945.Sau ngày nước nhà độc lập trong khi khó
khăn chồng chất, người nhận định rằng: nhân dân ta đang phải đối mặt với nhiều
trở ngại lớn đó là; giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Người viết: "Chúng ta
đã giành được độc lập, một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong
lúc này là nâng cao dân trí, để mọi người Việt Nam có thể tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà". Người kêu gọi toàn dân chung lòng góp sức tiêu diệt
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đông thời, người xác định, "dốt nát chính
là kẻ địch"và "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Do đó, ngay sau khi cách
mạng tháng 8 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Nha
bình dân học vụ, nhiệm vụ đặt ra là toàn dân học chữ quốc ngữ, sau hơn một
năm thực hiện chính sách diệt giặc dốt, nhân dân nước ta từ trên 90% dân số bị
7
mù chữ đã biết đọc, biết viết. Đây là một kỳ tích mà nhân dân ta đã đạt được
trong cuộc cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Trong ngày khai trưường đầu tiên (3 / 9/ 1945) chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi th cho các cháu học sinh cả nước. Trong th gửi các cháu học sinh, người bày
tỏ tình cảm và gửi gắm niềm tin vào thế hệ trẻ tương lai: "Non sông Việt nam có
trở nên vẻ vang hay không? Dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cưường

quốc năm châu hay không? Chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
cháu? (Hồ Chí Minh về Giáo Dục, Nhà Xuất Bản, Hà Nội 1962)".
Theo Hồ Chí Minh thì sự nghiệp trồng người là công việc lâu dài và khác
hẳn so với công việc khác. Nó đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ, không đ-
ược nóng vội. Chính vì thế, người đa ra khẩu hiệu: Vì sự nghiệp mời năm trồng
cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người. Và để xây dựng xã hội chủ nghĩa người
đã nói rằng: "Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa".
Người đặt ra động cơ và mục tiêu GD - ĐT là: "Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và
nhân loại". (HCM về GD, NXB GD, tái bản năm 1990) và theo người "Học là
để sửa chữa t tưởng". "Học để tu dỡng đạo đức cách mạng", "Học để tin tưởng"
và "Học để hành". (HCM toàn tập, T4, NXB sự thật, H - 1995).
Những quan điểm , tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục là di
sản quí báu đóng góp vào kho tàng lí luận quản lí, chỉ đạo công tác giáo dục ở
nước ta. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, những giá trị lí luận, giá
trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành, định hướng giá
trị cho mỗi con người và cho cả dân tộc Việt Nam.
3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của GD - ĐT trong
sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt là thời kỳ CNH, HĐH.
Sáu mươi năm qua, dới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta, ngành giáo
dục, đào tạo cùng nhân dân cả nước vượt qua khó khăn thực hiện thắng lợi
đường lối giáo dục và đổi mới về giáo dục, đa sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiến
lên đạt nhiều thành tựu mới, góp phần quan trọng trong việc đào tạo lớp lớp các
thế hệ cán bộ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.
Trong văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII
đã nêu rõ những quan điểm cơ bản của Đảng ta về giáo dục, đào tạo là giữ vững
8

mục tiêu định hướng XHCN: "Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giáo dụclà
nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập
dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo
vệ Tổ quố; CNH, HĐH đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân
tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của
cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có t duy sáng tạo, có
kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tỉnh tổ chức và kỉ luật, có
sức khoẻ, là những người thừa kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "Hồng"
vừa "Chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ".(Văn kiện hội nghị BCH TW lần
thứ 2 khoá 8 tr 28- 29).
Về mục tiêu đi lên CNXH Đảng ta khẳng định: "Giữ vững mục tiêu
XHCN trong nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạ, trong các chính sách
nhất là chính sách công bằng xã hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của cơ chế thị trưường đối với giáo dục, đào tạo. Chống khuynh
hướng thương mại hoá; đề phòng khuynh hớng phi chính trị hoá giáo dục, đào
tạo không truyền bá tôn giáo trong trưường học". (ĐCS VN , văn kiện HN TW2
khoá 8, NXB chính trị QG, H - 1997, Tr 28, 29).
Đảng ta thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đây là chủ trương
lớn được Đảng ta xác định từ Đại hội toàn quốc lần thứ VII. Chủ trương này tiếp
tục được nhấn mạnh và cụ thể hoá trong văn kiện hội nghị Trung ương lần thứ 4
- khoá VII, hội nghị Trương ương lầ thứ 2, khoá 8, hội nghị Trung ương lần thứ
6 khoá 9. Đảng ta đã khẳng định 1 cách nhất quán là: "Giáo dục, đào tạo là nhân
tố quyết định sự phát triển của đất nước. Đầu tư cho giáo dụ, đào tạo là đầu tư cho sự
phát triển thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục, đào tạo, đặc biệt là
chính sách đầu t và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển
GD". (Đảng cộng sản Việt Nam NQ TW 6, khoá IX).
Đảng ta cũng xác định, giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân. Mọi người dân có quyền lợi và nghĩa vụ học tập. Mọi
cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội đều có trách nhiệm chăm lo
cho sự nghiệp giáo dục. Các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá nhân có

trách nhiệm tích cực tham gia các phong trào nhằm phát triển sự nghiệp GD -
ĐT. phối kết hợp một cách chặt chẽ và thống nhất về mục tiêu, nội dung GD
giữa nhà trưường, gia đình và xã hội.
Phát triển giáo dục, đào tạo gắn liền với yêu cầu về phát triển kinh tế xã
hội , khoa học kỹ thuật, công nghệ và củng cố an ninh quốc phòng. Do đó, phát
triển giáo dục cần coi trọng cả 3 mặt: Mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và
9
phát huy hiệu quả. Thực hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục với lao động
sản xuất, nghiên cứu khoa học, học đi đôi với hành, gia đình gắn liền với xã hội,
lý luận gắn liền với thực tiễn.
Đảng và Nhà nước ta tạo mọi điều kiện để thực hiện công bằng trong giáo
dục, để ai có nhu cầu được học tập cũng được đi học. Đối với người nghèo nhà
nước và cộng đồng giúp đỡ. Đối với những người học giỏi, các cơ quan nhà n-
ước, tổ chức kinh tế tạo điều kiện để họ tiếp tục phát triển trở thành nhân tài của
đất nước.
Để giữ vững định hướng XHCN thì các trưường công lập phải giữ vai trò
nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục. Nhà nước thống nhất quản lí về nội dung, ch-
ương trình, qui chế học tập, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo điều kiện
cho mọi người có cơ hội lựa chọn hình thức học tập phù hợp với hoàn cảnh của
mình. Phát triển các trưường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng
bước mở các trường tư thục Mầm non, THPT, TH chuyên nghiệp, dạy nghề và
đại học. Mở thêm các loại hình đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa
Trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định:
"phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". (Văn
kiện ĐH IX, H - 2001- Tr 108 - 109).
Trên đây là những quan điểm cơ bản của Đảng ta về GD - ĐT nói chung
và sự nghiệp GD - ĐT trong quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Những
quan điểm đó là biểu hiện tập trung của việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo lý

luận Mác - Lênin, t tưởng HCM vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Những
quan điểm nêu trên sẽ là cơ sở cho việc nhận thức hoạt động giáo dục ở từng địa
phương, phân tích mặt mạnh, mặt yếu và tồn tại. từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các địa phương nói riêng và phát triển sự
nghiệp GD - ĐT của nước ta nói chung.
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA GD THCS TRONG THỜI KỲ CNH,
HĐH.
Trong hệ thống giáo dục - ĐT , GD phổ thông đóng vai trò đặc biệt quan
trọng, nó đặt nền móng cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, đào tạo ra những con người có kiến thức, văn hoá lao động tự chủ, sáng
tạo có kĩ thuật, giàu lòng nhân ái, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu
phát triển đất nước. Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một đất nước, là
sức mạnh tương lai của dân tộc.
10
Trong hệ thống Giáo dục phổ thông, THCS là một điểm chiến lược phát
triển giáo dục, đào tạo. Đại hội IX của Đảng đề ra đường lối phát triển của giáo
dục, đào tạo: "phát triển giáo dục Mầm non, củng cố vững chắc kết qủa xóa mù
chữ và phổ cập Trung học cơ sở trong cả nước " (ĐCS VN - VKĐHTQ lần T9
- NXB CTQG 2001 - Tr2002). THCS là mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo
dục phổ thông hoản chỉnh (Vừa tiếp nối vừa chuyển tiếp). Giáo dục trung học cơ
sở nhằm giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả của phổ cập
giáo dục tiểu học và phổ cấp giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đặc biệt ở vùng núi,
vùng sâu, vùng xa, giúp học sinh củng cố vững chắc, phát triển những kiến thức
mà học sinh đã được học ở Tiểu học, đồng thời có học vấn đêtrung học cơ sở, có
những hiểu biết thông thường về kĩ thuật dạy nghề phổ thông, trung học chuyên
nghiệp, để vào cuộc sống. Ở lứa tuổi học tập này, qua môi trường giáo dục, học
sinh bộc lộ rõ tài năng và hình thành hướng đi sau này cho bản thân. Vì vậy, đầu
t và nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở là vô cùng quan trọng, cần
thiết là phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 trên phạm vi cả nước; góp phần
đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất nước như kế hoạch đã đề ra.

Giáo dục phổ thông là nền tảng của sự hình thành nhân cách, trong đó
giáo dục trung học cơ sở có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành nhân cách
học sinh. Mặc dù đây chưa phải là bậc cuối cùng, song nó cũng có vai trò quyết
định đến việc hình thành nhân cách cho học sinh. Đây là một cấp học tiếp tục
góp phần phát triển nhân cách cho học sinh giúp cho các em có chí hướng phấn
đấu học lên bậc trung học phổ thông để tạo nguồn, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước: "Giáo dục nhằm mục tiêu phát
triển toàn diện nhân cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kĩ
thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội "
(Văn kiện ĐH 8 - NXB CTQG - 1996 - Tr 81).
Chất lượng con người phải đi từ nền tảng ban đầu ở các cấp học nhất là trung
học cơ sở. Nếu không có các giải pháp để phát triển giáo dục trung học cơ sở tạo
nền móng vững chắc thì không thể nói đến tương lai của lớp người xây dựng và
bảo vệ tổ quốc kế tiếp của lịch sử dân tộc.
11
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở
HUYỆN ZZZ - TỈNH BBB TỪ NĂM 2000-2005.
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN ZZZ
1. Đặc điểm tự nhiên.
2. Tình hình kinh tế - xã hội
II. THỰC TRẠNG GD THCS Ở HUYỆN ZZZ - TỈNH BBB
1. Nhận thức và quan điểm của Đảng và chính quyền địa phương về
công tác GD - ĐT.
Trong những năm qua, ngành GD - ĐT của Tỉnh XYZ nói chung và
huyện BBB nói riêng đã có những thành tựu đáng khích lệ kết quả đó là do có
sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh mà trực tiếp là sự chỉ đạo
của Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện BBB. Đó chính là sự vận dụng đưường lối
chính sách GD - ĐT của Đảng, Nhà nước vào thực tế ở địa phương một cách
đúng đắn, sáng tạo và kịp thời. Nhất là Nghị quyết của Đảng được thể chế thành

nhiệm vụ, chương trình mục tiêu và biện pháp tổ chức, triển khai, hớng dẫn cụ
thể cho từng năm học.
Trong báo cáo chính trị của Đảng bộ Tỉnh XYZ tại Đại hội lần thứ XV đã
tổng kết đánh giá cao về công tác phát triển Giáo dục của tỉnh; từng bước tiến
hành xã hội hoá giáo dục, huy động được đầu t của nhiều nguồn lực trong xã
hội. Các loại hình tưường, lớp, dạy học ngày càng phong phú, đa dạng. Chất l-
ượng giáo dục đã có bước phát triển: Hoàn thành PCGD tiểu học đúng độ tuổi
và phổ cập THCS năm 2003, xây dựng trưường chuẩn quốc gia ở tất cả các
ngành học, bậc học, phấn đầu đến năm 2010 có nhiều trưường PTTH đạt chuẩn
quốc gia và có 60% số xã, phưường, thị trấn đạt PCGD bậc THPT.
Trong báo cáo của Ban chấp hành tại đại hội Đảng bộ huyện BBB lần thứ
23 (tháng 10/2005) công tác GD - ĐT, đã đạt được những kết quả rất quan trọng,
về đổi mới chương trình GDPT, PCGDTH đúng độ tuổi, PCGD THCS, củng cố
và phát triển các ngành học. Tiếp tục phát triển qui mô, mạng lới trưường lớp,
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng mũi nhọn, đáp ứng yêu cầu
nâng cao … đào tạo nhân lực, bồi dỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự
nghiệp giáo dục huyện nhà. Cơ sở vật chất trưường học được quan tâm đầu tư,
chấm dứt tình trạng học 3 ca, từng bước kiên cố hoá trường lớp, xoá bỏ lớp học
tranh, tre, nứa lá. Toàn huyện đã hoàn thành PC THCS năm 2003. Đã xây dựng
12
được 14 trưường đạt chuẩn giáo dục (01 trưường mầm non, 12 trường tiểu học,
01 trưường THCS).
Mặc dù còn phải khắc phục rất nhiều khó khăn về đời sống kinh tế - xã
hội, nhưng các cấp uỷ Đảng và chính quyền huyện BBB đã có những định h-
ướng hết sức cụ thể, sát sau đối với phát triển GD - ĐT ở địa phương. Ngay từ
khi có Nghị quyết trung ương 2 (khóa VIII) tỉnh và huyện đã có ngay một
chương trình hành động nhằm thực hiện thắng lợi … Ngành GD - ĐT huyện
làm tốt công tác tham mưu để các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phát huy
vai trò trách nhiệm với công tác GD - ĐT và đặt công tác GD - ĐT vào vị trí
quan trọng để tập trung chỉ đạo thường xuyên và đạt hiệu quả cao. Thông qua

quán triệt Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 khoá IX về đổi mới sự nghiệp GD - ĐT,
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội đã có những thay đổi về nhận
thức công tác GD - ĐT, thực sự coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu.
Sự lành, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương sẽ là điều kiện
thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng GD - ĐT nói chung, giáo dục bậc THCS
nói riêng của huyện BBB - Tỉnh XYZ trong giai đoạn hiện nay.
2. Phát triển về số lượng qui mô trưường lớp, học sinh.
Cùng với những chuyển biến về kinh tế - xã hội và thực tiễn các chủ tr-
ương đổi mới về GD - ĐT, số lượng học sinh ở các cấp học, bậc học từng bước
ổn định và tăng lên nhanh chóng. Mạng lới trưường lớp được bố trí hợp lý và
phát triển đa dạng. Nhất là từ khi có Nghị quyết TW2 (khoá VIII), qui mô GD -
ĐT nói chung và THCS nói riêng tiếp tục được mở rộng và phát triển một cách
đa dạng, phong phú, số lượng học sinh ra lớp đều tăng theo hàng năm, chất l-
ượng giáo dục dần được nâng lên.
Từ năm học 2000 - 2001 đến nay giáo dục Huyện BBB tiếp tục phát triển
và mở rộng về qui mô, cơ cấu các bậc học, ngành học hợp lí, phù hợp với từng
vùng miền trong huyện. Quan tâm đầu t củng cố, phát triển loại hình trưường
công lập ở vùng đặc biệt khó khăn và an toàn khu, chú ý đầu t trưường trọng
điểm trưường chuẩn quốc gia. Ở tất cả các xã đều có trưường Mầm non, tiểu
học, trung học cơ sở, huyện có 6 trưường THPT. Năm học 2004 - 2005 toàn
huyện có: 41 trưường Mầm non (1 trưường mầm non công lập - 40 trưường
mầm non bán công); với 281 nhóm trẻ = 1519 trẻ, 400 lớp mẫu giáo = 6928 học
sinh, riêng 5 tuổi ra lớp 2502 = 99%, có 43 trưường tiểu học, 2 trưường PTCS
với tổng số lớp: 928 = 17.407 học sinh; có 38 trưường THCS với tổng số lớp là
555 = 18.624 học sinh đạt 96,2%, 1 trưường DTNT với 9 lớp = 254 học sinh; 6
trưường THPT với 112 lớp = 4500 học sinh, 1 trung tâm giáo dục thưường
13
xuyên có 9 lớp = 512 học sinh; có 1 TTKTTH - HNDN dạy nghề cho 120 lớp,
41.000 học sinh, dạy hớng nghiệp cho 115 lớp = 6.190 học sinh.
3. Cơ sở vật chất trưường học:

Mặc dù là một huyện miền núi nghèo còn nhiều khó khăn, thu không đủ
chi, song Đảng bộ và chính quyền nhân dân các dân tộc huyện BBB đã có nhiều
cố gắng giành cho ngành GD - ĐT sự quan tâm có hiệu quả. Vì cơ sở vật chất
trong trường là một trong 3 yếu tố cơ bản trong nhà trường (trưường lớp - thầy -
trò). Với quan niệm nh vậy, trong những năm qua việc đầu tư, sử dụng ngân
sách, xây dựng cơ sở vật chất trong nhà trường có nhiều tiến bộ. Công tác xây
dựng cơ sở vật chất, khuôn viên trưường học, tăng cường mua sắm trang thiết bị
dạy học được quan tâm. Bằng nhiều biện pháp tích cực của các địa phương
trong huyện, các nguồn lực tập trung được huy động từ đóng góp của nhân dân,
kinh phí chương trình mục tiêu, chương trình kiên cố hoá trường học, đặc biệt từ
năm 2000 đến nay với chương trình 135 do nhà nước cấp đã xây dựng nhiều tr-
ường lớp học, đã cơ bản kiên cố hoá được tất cả các xã trong huyện không có tr-
ường nào trong huyện phải học 3 ca.
Và chương trình tăng cường cơ sở vật chất trường học được xây dựng
thành đề án "tổng thể kiên cố hoá trưường học đến năm 2005 và 2010". Từ năm
học 2001 - 2002 trở lại đây huyện đã tập trung xây dựng đồng loạt nhà kiên cố
và nhà xây cấp 4 cho các đơn vị trường học theo chương trình chậm hè, chương
trình kiên cố hoá trường học. Đến nay đã gần xoá xong nhà học tạm tranh tre
nứa lá. Riêng trong năm 2005 huyện đã giao danh mục cho 20 công trình (Mầm
non 11, tiểu học 6, THCS 3) thuộc chương trình kiên cố hoá trưường học giai
đoạn 3 với 116 phòng học, số vốn cho các công trình này là 5,8 tỉ đồng. Ngoài
những chương trình mục tiêu và ngân sách của tỉnh cấp, huyện dành từ 12% đến
15% ngân sách của huyện (tổng chi cho ngân sách GD - ĐT dao động từ 29,4 tỉ
đến 35 tỉ đồng / năm), cùng với sự đóng góp ủng hộ xây dựng trường học của
nhân dân trong huyện đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất đến nay bộ mặt của
các cơ sở giáo dục đã có những khởi sắc và bước đầu có chất lượng giáo dục ổn
định.
Ngoài phòng học, nhà ở, nhà điều hành, các phòng chức năng còn mua
sắm hơn 1000 giường nằm, bàn ghế làm việc cho giáo viên, hầu hết các trường
THCS đã có điện thoại…

+ Từ năm 2002 phong trào xây dựng nhà công vụ do công đoàn ngành
giáo dục đã xây dựng 590m
2
nhà và trang thiết bị giá hàng trăm triệu đồng phục
14
vụ đời sống và công tác của các nhà trường - đặc biệt u tiên cho các trưường ở
vùng ĐBKK và ATK.
Trang thiết bị dạy học và th viện trưường học được quan tâm đầu t khác
với hàng tỉ đồng nên từ chỗ chỉ có một vài thư viện đạt chuẩn 659 (cũ) thì đến
nay đã cơ 100% trưường đạt th viện chuẩn 659. Và có 50% số trưường đạt th
viện chuẩn 01 (mới). Toàn huyện có 18 trưường xây dựng th viện, TBDH riêng;
80% số trường có phòng thư viện riêng, 20% chung cùng văn phòng Hội đồng
nhà trưường, 100% số trưường có phòng TBDH riêng. Nhìn chung các trường
đều có đủ sách giáo viên, sách tham khảo và sách nghiệp vụ. Thiết bị dạy học
đồng bộ ở trường học 123 bộ, THCS có 43 bộ vật lý, 37 bộ hoá học, 15 bộ sinh
học…. Giáo viên làm thêm hàng nghìn đồ dùng giảng dạy, các thiết bị này được
nhà trường sử dụng có hiệu quả.
Mặc dù được sự quan tâm và đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước
song hiện nay cơ sở vật chất trường học của một số đơn vị còn gặp khó khăn,
vẫn còn nhà tranh, tre, nứa, lá. Nhà chủ yếu là ở bậc học mầm non. Thiết bị đồ
dùng dạy học, đồ dùng thí nghiệm, sách tham khảo, sách nghiệp vụ cho giáo
viên còn thiếu và sách giáo khoa cho các em nghèo, vùng sâu vùng xa cũng còn
thiếu nhiều. Trong thời gian tới cần phải tiếp tục đầu t nhiều hơn nữa về cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy và học, có như vậy mới nâng cao được chất lượng
giáo dục.
4. Tình hình đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên có vai trò hết sức quan trọng quyết
định tới chất lượng của giáo dục. Đội ngũ quản lý và giáo viên nhìn chung đều
đảm bảo và tất cả đều được trưởng thành từ giáo viên, đều là những người có
chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm trong cuộc sống và đã được bồi dưỡng qua

trường lớp quản lý. Đó là một thuận lợi lớn giúp các nhà quản lý của giáo dục có
khả năng điều hành tốt công tác chuyên môn và tập hợp qui tụ đối tượng quản lý
vào thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Hàng năm phòng giáo dục và UBND
huyện đều có kế hoạch bồi dỡng các bộ quản lý và lực lượng kế cận, chọn
những giáo viên có tay nghề cao, trình độ chuyên môn tốt, có ý thức phấn đấu
vươn lên để cử đi học các lớp bồi dưỡng của tỉnh và trung ương, PGD còn liên
kết đào tạo với các trường đại học mở các lớp ĐH Quản lý cho CB Quản lý và
giáo viên.
Hiện nay tổng biên chế CBGV của huyện là 2324 người trong đó giáo
viên là 959 người giáo viên coa trình độ chuẩn là 95,2% tiêu chuẩn là 32,0%.
15
Nh NQTW2 (khoá VIII) đã chỉ rõ: GV là nhân tố quyết định của GD.
Muốn nâng cao chất lưượng giáo dục phải nhiêu yếu tố, trong đó nhân tố "thầy"
giữ vai trò quyết định. Vì vậy đội ngũ giáo viên phải đủ về số lưượng, can đố
giẫ sác môn đào tạo và phải được đầo tạo đạt chuẩn.
Đội ngũ giáo viên hiện nay của bậc THCS ở huyện BBB đưược nhìn
nhận đánh giá như sau:
* Mặt thuận lợi:
1- Vềphẩm chất tư tưởng chính trị: ĐNCBGV đều có lập trưưường tư
tưưởng vững vàng, tin tưưởng vào sự lãnh đạo và đưưường lối đổi mới của
Đảng, kiên trì thực hiện các quan điểm, phưương châm giáo dục của Đảng.
Trong những năm qua các cấp đảng uỷ đã đôỉ mới trong việc nhìn nhận đánh
giá đội ngũ CBGV ngành giáo dục, thấy rõ đưược vai tà, vị trí người của thầy
trưước sự đổi mới về giáo dục hiện nay. Huyện uỷ đã quan tâm đúng mức đến
việc giáo dục, nâng cao chất lưượng, r tưưởng đội ngũ giáo viên thông qua các
văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ huyện. Việc giáo dục chính trị tư tư-
ưởng cho cán bộ giáo viên đã trở thành nề nếp sinh hoạt ở các trưường. Công
tác tư tưưởng đã bám sát chủ trưương đưưường lối mới của Đảng, triển khai một
cách sâu rộng NQTW2 (khoá VIII) về nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục -
đào tạo, đề án 01 của Ban thưưường vụ Huyện uỷ XXX về nhiệm vụ phát triển

GD-ĐT giai đoạn 2001-2005.
Phong táo thi đua " Hai tốt" đưược chú ý đặc biệt. Qua kiểm tra thanh tra
chuyên môn hàng năm 100% giáo viên thực hiện tốt quy chế chuyên môn có đủ
hồ sơ giảng dạy theo đúng quy định của bộ. Các trưưường đều duy trì tốt các
hoạt động chuyên môn như: Sinh hoạt tổ, thăm lớp dự giờ giúp kinh nghiệm cho
môn học theo phưương pháp đổi mới qua đó nâng cao đưược chất lưượng
giảng dạy của giáo viên.
Các trường đều thực hiện dạy đủ các môn học theo chương trình quy định
của Bộ GD-ĐT. Phưương pháp giảng dạy được chú ý đổi mới theo hương tích
cực hoá họat động học tập phát huy tính chủ động sáng tạo và năng lực tự học
của hoạt sinh có hiệu quả. Phong trào làm đồ dùng học tập xây dựng kế hoạch
sử dụng thiết bị, thí nghiệm đối mới các bộ môn thiết thực cụ thể. Phòng giáo
dục huyện thường xuyên tổ chức hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học
theo từng chuyên đề đối với từng bộ môn. Các cụm trường cũng thường xuyên
tổ chức sinh hoạt chuyên môn liên trường đối với nhiều hình thức phong phú, đa
dạng nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Phong trào hội giảng diễn ra liên
tục ở các cơ sở trường học. Các cuộc thi CB quản lý giỏi, giáo viên giỏi, học
16
sinh giỏi hàng năm được tổ chức cói quy mô, chất lượng và hiệu quả. Công tác
bồi dưỡng thay sách hè trong những năm qua được quan tâm và chú ý đặc biệt
bồi dưỡng 100%cho giáo viên, hoạt động nghiên cứu khoa học và tổng kết sáng
kiến kinh nghiệm được duy trì, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ, chất l-
ượng giảng dạy.
Sở dĩ có được những mặt tốt, thuật lợi trên là do đội ngũ giáo viên ở
THCS ở huyệnXXX luôn tin tưởng vào đưường lối chính sách của Đảng pháp
luật của Nhà nước, yêu nghề nếm trẻ, với lương tâm coi dạy học là nghề nghiệp
gắn bó với cuộc đời mình, gắn bó với trường, lớp, học sinh. Trước những biến
động phức tạp của cơ chế thị trường, các thầy giáo, cơ giáo vẫn một lòng một dạ
tận tâm với nghề "Trồng người" mà mình đã lựa chọn. Mặt khác, có hơn 70% số
giáo viên là người địa phương nên rất yên tâm công tác. Điều này có nghĩa tự

bản thân họ phải xác định vấn đề này là nghiêm túc hơn.
2. Về trình độ:
- Hầu hết CBGV được đào tạo tượng đối hoàn chỉnh có trình độ chuẩn và
trên chuẩn cao, số ít còn lại cũng được học qua các lớp bồi dưỡng tại chức, tập
chung đạt trình độ để giảng dạy. Đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao chất
lượng giáo dục THCS hiện nay.
*Mặt khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản trên, xét về tổng thể đội ngũ giáo viên
THCS ở huyện BBB cũng còn một số khó khăn bất cập:
Trước hết là tình trạng thiếu giáo viên. Hiện tại chỉ có 959/555 lớp đạt tỉ
lệ 1,72 giáo viên/ lớp (Định Biên là 1,5GV/ lớp) vì vậy năm học 2004-2005
phải hợp đồng số sinh viên mới ra trường cha có việc làm là:110 ngwời. Vấn đề
khó khăn hơn là đội ngũ giáo viên lại không đồng bộ về cơ cấu. Thực tế số giáo
viên bộ môn toán, lý, hoá, sinh, địa, giáo dục công dân thiếu nhiều trong khi đó
các môn văn, sử lại thừa giáo viên. Vì vậy một số giáo viên phải dạy nhiều tiết
so với qui định, một số giáo viên dạy trái ban, điều đó cũng gây ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng dạy học.
Cácđiều kiện tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, tay nghề còn thiếu
thốn. Tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn giảng dạy, đồ dùng dạy học chọ thí
nghiệm, thực hành còn thiếu, tất cả các điều đó là hạn chế nâng cao chất lượng
giảng dạy.
Do đặc điểm của huyện BBB là huyện miền núi nghèo, giao thông đi lại
khó khăn, điều kiện sinh hoạt cha đáp ứng được nhu cầu của giáo viên, nhà ở
17
còn thiếu mặc dù đã được địa phương qua tâm, nhng một số trường không đủ
phòng ở cho giáo viên nên còn phải đi ở nhờ nhà dân. Vì vậy cũng chưa thực sự
yên tâm công tác và giảng dạy.
Tóm lại: Đội ngũ giáo viên THCS ở huyện BBB về cơ bản hùng hậu về
lực lượng, có kiến thức, có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, đủ điều kiện
giảng dạy theo chương trình đổi mới, phân công tương đối đều ở các trường,

giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín với nhân dân, với cấp uỷ, chính
quyền địa phương, thực sự yêu nghề, mến trẻ đáp ứng đựơc yêu cầu mới đối với
sự nghiệp giáo dục.
Đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục, những khó khăn kể trên sẽ là trở ngại lớn. Muốn nâng cao chất lượng
giáo dục THCS hiện nay cần phải có những giải pháp đúng, rất thực tế. Đây là
yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các nhà quản lý giáo dục ở huyện BBB - Tỉnh XYZ.
5. Chất lượng giáo dục - đào tạo.
*Về giáo dục trí dục:
Nói đến chất lượng giáo dục học sinh, người ta thưường quan tâm đến
chất lượng học tập và giáo dục. Vì vậy, vấn đề chất lượng dạy và học là vấn đề
được quan tâm nhiều nhất trọng các trưưường từ trước đến nay. Để có được chất
lượng học tập tốt phải có đủ các yếu tố đảm bảo: Từ cơ sở vật chất nhà trưường,
các trang thiết bị dạy và học đến yếu tố con người: Thầy trò và môi trưưường
giáo dục như cố trhủ tớng Phạm Văn Đồng nói: Phải có: " Trưường ra tr-
ưường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò"
Trong những năm qua, đặc biệt từ khi thực hiện Nghị quyết TW2 (khoá
VIII) về GD-ĐT chúng Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông đã phấn đâu
theo hớng toàn Đảng, toàn dân chăm lo cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, tương lai của đất nước trong sự cố gắng chung đó. GD bậc THCS ở
huyện BBB đã có nhiều bước tiến có nhiều đóng góp, chất lượng giáo dục trí
dụa đã được chú ý và nâng cao một bước so với trước đây.
Từ năm 1998 - 1999 trở về trước, việc đánh giá chất lượng học sinh cha
thực sự thực chất, còn năng nề về "phong trào", học sinh yéu cuối năm vẫn còn
được lên lớp. Nguyên nhân tình trạng này là do ảnh hưởng của cơ chế cũ vẫn
còn tồn tại trong Tỉnh XYZ nói chung và huyện BBB nói chung đó là do quá
thiên về chỉ tiêu kế hoạch giao cho ngành phải thực hiện bằng được, không cần
xem xét cả điều kiện cho việc thực hiện chỉ tiêu đó được hay không. Cứ nh vậy
chúng Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông đã phấn đấu về "chất lượng"
18

theo kiểu trên trong một thời gian khá dài. Hậu quả là sản phẩm giáo dục. Từ khi
thực hiện NQTW2 (khoá VIII) và khoá IX thời kỳ chuyển giao sang một thế kỷ
mới, vấn đề chất lượng giáo dục đã được nhìn nhận lại một cách đúng đắn hơn,
chặt chẽ hơn. Việc đổi mới phương pháp dạy và học được các cấp các ngành,
đặc biệt là các cấp quản lý ngành giáo dục từ TW đến địa phương quan tâm chỉ
đạo thực hiện. Cũng từ đó chất lượng học tập của học sinh THCS huyện BBB
ngày càng đi vào thực chất và được nâng dần lên qua các năm.
năm học Tổng
số học
giỏi khá trung bình yếu kém
T.số % T.số % T.số % T.số % T.s

%
2000-2001 14.926 1151 7,7 5565 37,3 8190 54,9 220 0,1 0
2001-2002 21.723 2253 10,3
7
9419 43,3
6
9743 44,8
5
330
8
1,42 0 0
2002-2003 19.413 1786 9,20 8994 46,3
3
8431 43,4
3
220
2
1,04 0 0

2003-2004 19.313 1667 8,63 7909 40,9
5
9345 48,3
9
339
2
2,03 0 0
2004-2005 18.624 1279 6,86 6285 33,7
5
1064
2
57,1
4
441
8
2,25 0 0
CHẤT LƯỢNG CHUYỂN LỚP, THI TN BẶC THCS (TỈ LỆ %)
Tiêu chíNăm học 2000-
2001
2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005
Lên lớp
Tốt nghiệp
99%
99,175
98,58%
99,57%
98,96%
99,56%
97,97%
99,42%5

97,75%
99,27%
CHẤT LƯỢNG HỌC SINH GIỎI CÁC CẤP
NĂM CẤP HUYỆN CẤP TỈNH
19
HỌC
T.số nhất nhì ba K.K nhất nhì ba K.K Tsố
79
2000-
2001
112 20 33 27 32 8 13 37 21 80
2001-
2002
143 25 37 41 40 10 15 32 23 88
2002-
2003
178 28 40 42 68 9 19 24 36 82
2003-
2004
196 32 39 53 72 14 20 26 22 84
2004-
2005
211 36 36 46 93 11 24 22 27
Qua số liệu thốngkê về chất lượng văn hoá 5 năm trở lạiđây có sự biến
động theo từng năm, tỉ lệ học sinh giỏi và học sinh khá mà 2001- 2002 tăng cao
so với năm học trước, nhng từ năm 2002-2003 lại giảm sút, Nhưng nhìn chung
tỉ lệ học sinh có học lạiTB trở lên đạt từ 97% trở lên,
Mặc dù ssó học sinh giỏi, học sinh khá đại trà giảm nhng có thể nói các
đơn vị trưường và Phòng GD đánh giá đúng thực chất hơn về chất lượng học tập
của học không chạy theo thành tích. Đó cũng là điều kiện để,nâng cao chất

lượng dạy và học của các đơn vị trường, cùng với nâng cao chất lượng đại trà,
Phòng GD đặc biệt quan tâm chỉ đạo đều các đơn vị trường chăm lo bồi dưỡng
học sinh giỏi văn hoá. Vì vậy số học sinh giỏivăn hóa cấp huyện và tỉnh đều
tăng và đạt giải cao, không những chỉ có học sinh ở khu vực thi trấn mà cả học
sinh ở vùng cao, vùng ĐBKK cùn tham gia thi học học sinh giỏi vòng tỉnh là
đất giảo cao, điều đó cho thấy chất lượng GĐ THCS đã có sự chuyển biến giữa
các vùng, từng bước thực hiện công bằng trong giáo dục. Ngoài các môn văn
hóa môn khác nh tin học xếp thứ nhất toà tỉnh, môn kỹ thuật xếp thứ nhì
toàntỉnh (năm 2004- 2005)
20
Với kết quả trên thì đây là một kết quả đáng mừng, khẳng định một bước
chuyển biến về chất lượng GD THCS ở huyện miền núi XXX,nói lệ sự cố gắng
của bản thân ngành giáo dục và công tác xã hôih hoá giáo dục. KHi mf có đông
đảo lực lượng xã hội tham gia giáo dục từ nhiều phía sẽ tạo ra động lực dạy và
học, hạn chế tốt những tiêu cực, khơi thông nhữngmói quan hệ cần thiết: Nhà
trường - gia đình - xã hội; vị trí của giáo dục trong công tác xã họi được coi
trọng thì chất lượng dạy và học có cơ hội ttốt hơn. Tuy nhiên so với yêu cầu
chung của chất lượng GD- ĐT cần phải để ra biện pháp hữu hiệu hơn nữa, sta
với thực tế địa phương để nâng cao hơn chất lượng văn hốa THCS của huyện.
Có thể nói, một trong những tồn tại lớn nhất trong học tập của học sinh
THCS ở huyện XXX đặc biệt là các em dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng
ĐBKK và ATK là các em chậm đổi mới về nhận thức dơi với nhiệm vụ học tập
của chính bản thân mình. Đối với lứa tuổi học sinh nhiệm vụ chính là học tập
nhng các em lại không xác định đúng ý nghĩacủa công việc thì dễ sinh ra chán
nản, gặp chăng hay chớ, kết quả khó mà tốt được. Học tập là một công việc đầy
khó khă, đòi hỏi phải có sự kiên tr, bề bỉ liên tục thì việc xác dịnh đúng đông cơ
lại càng quan trọng hơn. Đất nước Toà án nhân dân huyện Điện Biên Đông đang
tiến hành công cuộc đổi mới, thhé kỷ XXi là thế kỷ của trí tuệ, khoa học công
nghệ, thế mà phần lớn các em học sinh THCS ở huyên XXX vẫn còn thờ ơ, mơ
hồ về điều đó. Các em vẫn giữ nguyên tắc nghĩ cũ lỗi thời, học hành để đối phó,

chây lời. Vì vậy thói quen gian lận tron thi cử "chạy điểm" để được lên lớp đỗ
tốt nghiệp vẫn còn tồn tại. Chỉ có một số ít học sinh (đại da số là cácem ở khu
vực tthị trấn và giáp danh khu vực thị trấn) xác định phải chăm chỉ học tập để có
kiến thức khoa học thật sự. Vvì vậy những người làm công tác giáo dục không
khỏi băn khoăn, suy nhgĩ và lo lắng.
* Về giáo dục đạo đức:
Song song với việc nâng cao chất lượng văn hóc là quan tâm giáo dục về
chất lượng đao đức cho các em . Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói "Có tài
mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc cũng
khó". Vì vậy giáo dục đào đạo đức đối với các em học sinh là hết sức cần thiết.
Trong nhiều năm qua được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp các ngành
đoàn thể khác đặc biệt là các bậc phụ huynh học sinh với nhà trưường nên giáo
dục đạo đức của học sinh trung học phổ thông XXX đạt kết quả cao.
Cụ thể kết quả trong năm qua:
21
Năm học
Tổng
số học
Tốt Khá Trung bình Yếu
Tổng
số
% Tổng
số
% Tổng
số
% Tổng
số
%
2000-
2001

2001-
2002
2002-
2003
2003-
2004
2004-
2005
14.926
21.723
19.413
19.313
18.62
4
7056
13.421
12937
9796
9679
47,3
61,78
66,64
50,72
51,98
7826
7755
6099
9700
8495
52,40

35,70
31,42
47,12
45,6
43
530
365
415
448
0,28
2,44
1,88
2,15
2,41
1
17
12
2
2
0,02
0,08
0,06
0,01
0,01
Qua bảng thống kê trên ta thấy về giáo dục đạo đức học sinh đạt tốt, số học
sinh xếp loại hạnh kiểm khá, tốt hàng năm đạt từ 96% trở lên. Còn lại đạo đức
trung bình và rất ít học sinh xếp loại yếu, không có học sinh xếp loại đạo đức kém.
Với những kết quả đạt được trong công tác giáo dục đạo đức học sinh
trong những năm qua, các trường THCS XXX được sở GD - ĐT Quảng Ninh
PGD XXX, Đảng uỷ, chính quyền địa phương đánh giá cao về việc duy trì tốt

"kỉ cương, nề nếp" trong khối THCS.
Ngoài công tác GD đạo đức và trí dục, các trường đều rất quan tâm đến
các nội dung giáo dục học sinh phát triển toàn diện.
Công tác giáo dục thể chất là nội dung giáo dục lớn được chú trọng đẩy
mạnh từ nhiều năm nay. Có thể nói hoạt động bề nổi là một vấn đề hết sức quan
trọng thông qua các hoạt động thể thao, văn nghệ, vui chơi để giáo dục ý thức
tập thể, tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ,
hoạt động tập thể là môi trường tốt để thầy trò, gần gũi, hiểu biết lẫn nhau, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục. Nhận thức được như vậy, các trường
đã chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình giáo dục. Vì vậy phong trào
TDTT, văn nghệ phát triển mạnh, môi trường đều có 1 đội điền kinh, bóng đá,
bóng bàn, cờ vua… tập luyện đều đặn, tổ chức thi đấu giữa các lớp vào các ngày
lễ 20-11; 22-12; 26-3, giữa các cụm trường, các đợt thi đấu do huyện, tỉnh tổ chức.
22
Công tác tổ chức các hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệp dạy nghề
ở các trường có tiến bộ, 90% số học sinh THCS được tham gia học nghề phổ
thông đạt kết quả tốt.
Giáo dục nhân văn, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, giáo dục pháp luật cho học sinh luôn được chú trọng. Các trường đã phát
huy tốt tiết dạy môn giáo dục công dân, phối hợp với các đoàn thể trong ngoài
trường tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: Mít tinh kỉ niệm các
ngày lễ lớn, tết trồng cây, ngày vệ sinh môi trường và các hoạt động tuyên
truyền cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương, phát động các phong
trào thi đua theo chủ điểm, lấy đoàn, đội làm nòng cốt, các phong trào thi đua
được gắn với những ngày kỉ niệm, những ngày lễ lớn với những nội dung cụ thể
thiết thực, thông qua đó giáo dục các em được rất nhiều điều bổ ích, tuy nhiên
các hình thức còn nghèo nàn, đơn điệu, ít hiệu quả.
Tóm lại, các hoạt động ngoài giờ lên lớp theo phương châm "học đi đôi
với hành" đối với học sinh đã có nhưng chưa thường xuyên. Vì thế cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em. Đây cũng là một khó khăn có

tính chất lâu dài đối với nhà trường trong công tác giáo dục toàn diện cho học
sinh.
6. Công tác quản lý.
Trong công tác quản lý, yếu tố có vai trò quyết định thành công là phải
nắm vững nghiệp vụ chuyên môn, nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường,
mặt khác khi có trình độ chuyên môn tất sẽ giúp người quản lý ra được quyết
dịnh ngay, quyết định quản lý càng đúng đắn thì hiệu quả quản lý càng cao. Lao
động quản lý là lao động trí tuệ và có tính tổng hợp vì nó vừa vạch ra kế hoạch,
vừa tổ chức giám sát việc thực hiện kế hoạch đó, lại vừa tổng kết đánh giá việc
thực hiện kế hoạch để trên cơ sở vạch ra kế hoạch mới. Vì vậy đòi hỏi người
quản lý phải có nghiệp vụ quản lý, phải được đào tạo qua trường lớp. Về điểm
này đội ngũ cán bộ quản lý bậc THCS ở huyện BBB cơ bản đã đáp ứng được và
tương đối ổn định vì hiện nay họ đều có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên
chuẩn, có trình độ về quản lý đạt 40% (có bằng ĐH quản lý) 100% qua đào tạo
ngắn hạn, họ đều có phẩm chất chính trị tư tưởng tốt, có trình độ năng lực
chuyên môn. Vì vậy, trong những năm qua công tác quản lý giáo dục ở các
trường luôn từng bước được đổi mới, công tác quản lý điều hành của Hiệu
trưởng, của tổ chuyên môn được coi trọng. Luôn quan tâm xây dựng kỉ cương nề
nếp học đường, thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ quan quản lý và cơ sở trường
học nhằm phát huy quyền làm chủ và năng lực sáng tạo trong quản lý, tổ chức
23
điều hành công việc ở cơ sở. Hiệu trưởng các trường được quyền chủ động sử
dụng đội ngũ, xây dựng và thực hiện chỉ tiêu kế hoạch, sử dụng nguồn tài chính,
chủ động trong công tác tuyển sinh; đã tham mưu và triển khai đầy đủ, kịp thời
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của ngành tới CBGV. Các cuộc
vận động "kỉ cương - tình thương - trách nhiệm", "Dân chủ hoá trường học",
phong trào thi đua "dạy tốt, học tốt", … được kết hợp, duy trì thường xuyên,
thực hiện tốt ở nhiều trường.
Công tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng, tổ chức chu đáo, đúng quy
trình.Kết quả thanh tra, kiểm tra được công khai, kiến nghị của thanh tra được

giải quyết dứt điểm, triệt để là một trong các yếu tố cần thiết để xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Công tác
kiểm tra được thực hiện một cách dân chủ với sự tham gia của thanh tra nhân
dân được các cơ sở trường học coi trọng và được tiến hành thường xuyên trong
năm học đối với công tác chuyên môn, tài chính,… kết quả kiểm tra được công
khai trong hội đồng sự phạm, tạo bầu không khí dân chủ và tăng thêm sự đoàn
kết nhất trí trong tập thể cán bộ giáo viên.
7. Công tác xã hội hoá giáo dục.
Công tác xã hội hoá giáo dục luôn được đẩy mạnh. Huyện uỷ, HĐND,
UBND đã quan tâm chỉ đạo tốt các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến xã đặc biệt
là Hội đồng giáo dục, hội khuyến học đã góp phần tích cực trong việc xây dựng
chương trình, kế hoạch phát triển GD - ĐT gắn với nhu cầu phát triển KT - XH
địa phương. Các tầng lớp nhân dân nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò của
nhân dân, ghi nhận các loại hình giáo dục chính qui, và không chính qui, hình
thành phong trào học tập sôi nổi trên tất cả các địa phương, vùng miền trong
huyện góp phần duy trì, phát triển và quản lý tốt ở các nhà trường. Bước đầu
công tác xã hội hoá giáo dục giữ vai trò là động lực thúc đẩy sự nghiệp hoá giáo
dục đào tạo của địa phương phát triển.
Từ xã hội hoá giáo dục, các nguồn lực huy động cho giáo dục ngày càng
lớn, qui mô giáo dục phát triển, chất lượng giáo dục được đảm bảo, mối quan hệ
giữa giáo dục và các cấp, các ngành ngày càng chặt chẽ, các đoàn thể, tổ chức
và nội dung quan tâm chăm lo cho việc học hành của con em mình nhiều hơn, sự
phối hợp giữa "gia đình - nhà trường - xã hội". Ngày càng được mở rộng, có
hiệu quả, góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đẩy mạnh sự
nghiệp phát triển giáo dục đào tạo của huyện nhà.
Xã hội hoá giáo dục gắn trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể tích cực ra
các biện pháp kịp thời góp phần chấn chỉnh công tác quản lý, lập lại kỉ cương,
24
nề nếp học đường ngăn chặn, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực trong
giáo dục.

Công tác xã hội hoá giáo dục huy động nguồn lực hỗ trợ cho giáo dục phát
triển, xây dựng quĩ hỗ trợ giáo dục, quĩ khuyến học, huy động các lực lượng
chăm lo cho việc học tập của con em các gia đình chính sách, gia đình khó khăn,
khen thưởng giáo viên giỏi, học sinh giỏi, từ năm 2000 đến năm 2005 huy động
nhân dân đóng góp được 2 tỉ 863 triệu đồng. Quỹ khuyến học 318,5 triệu đồng.
Ngoài ra các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp nhiều ngày công lao
động xây dựng trường lớp, các địa phương đã quan tâm cấp đất cho nhà trường
để xây dựng trường chuẩn quốc gia.
Hội cha mẹ học sinh góp phần thiết thực trong việc tuyên truyền, phổ biến
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về GD - ĐTq trong nhân dân, vận
động cha mẹ học sinh cùng các tổ chức tham gia vào các hoạt động giáo dục,
tham gia giáo dục đạo đức, quản lý học tập của học sinh góp phần thực hiện có
hiệu quả luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, luật giáo dục, phổ cập giáo dục,
chủ trương, chính sách về giáo dục, huy động tiền của, công sức tăng cường cơ
sở vật chất phục vụ cho dạy và học sinh của thầy và trò.
Tuy nhiên, công tác xã hội hoá giáo dục chưa được thực hiện tốt ở tất cả
các địa phương trong huyện, các lực lượng thực sự tâm huyết với giáo dục chưa
nhiều do một số cán bộ địa phương (cấp xã) còn hạn chế về trình độ nhận thức
và đại bộ phận nhân dân ở các vùng ĐBKK và ATK đời sống còn gặp nhiều khó
khăn cho nên chưa thể có điều kiện chăm lo nhiều đến giáo dục và đến việc học
tập của con em mình.
Phong trào xã hội hoá giáo dục chưa thường xuyên, còn mang tính thời vụ
(nhân dịp lễ tết, khai giảng, tổng kết). Bởi vậy, trong thời gian tới công tác này
cần phải được quan tâm thường xuyên hơn nhà trường cần làm tốt hơn công tác
tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương làm cho toàn xã hội hiểu thật
đầy đủ vị trí "quốc sách hàng đầu" của sự nghiệp GD - ĐT.
8. Công tác Đảng và các tổ chức đoàn thể trong trường học.
Quán triệt tinh thần chỉ thị 34/CT - TW ngày 30/5/1998 của Bộ chính trị về
"tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đoàn thể quần
chúng và công tác phát triển Đảng viên trong trường học". Chi bộ phòng giáo

dục đã tích cực tham mưu với tổ chức huyện uỷ, Ban tuyên giáo huyện uỷ thực
hiện các chương trình về giáo dục chính trị, tư tưởng, lối sống cho cán bộ giáo
viên, chăm lo công tác xây dựng các cơ sở Đảng và các đoàn thể trong nhà
25

×