Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực sáng tạo cho học sinh trong tiết học vẽ tranh đề tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.9 MB, 29 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực sáng tạo cho học
sinh trong tiết học vẽ tranh đề tài
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học môn Mĩ thuật
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Lý, nữ
Ngày tháng/năm sinh: 01- 07-1977
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Trường tiểu học Hiệp Hoà – Kinh Môn – Hải
Dương
Điện thoại: 01697062255
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) : Trường tiểu học Hiệp Hoà –
Kinh Môn – Hải Dương
5. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: nêu mốc thời gian mà SK được áp
dụng lần đầu tiên trong thực tế, hoặc áp dụng thử. Từ năm học 2012 đến nay.

HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)
Nguyễn Thị Thu Lý
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
1
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Nghiên cứu đề tài “Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực sáng tạo cho
học sinh trong tiết học vẽ tranh đề tài ” giúp bản thân tôi nhìn nhận lại cách dạy,
phương pháp dạy của mình có phần hạn chế. Học sinh không hứng thú học bài, không
phát huy tính tích cực và khả năng sáng tạo của học sinh trong giờ dạy Vẽ tranh đề tài.
Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để thay đổi lại cách thức, phương pháp dạy học phù
hợp, hiệu quả. Qua những năm giảng dạy thực tế tại trường tôi. Tôi mạnh dạn đưa ra
một chút kinh nghiệm dạy học “Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực sáng tạo
cho học sinh trong tiết học vẽ tranh đề tài ” Tôi đã dùng giải pháp áp dụng các


phương pháp dạy học mới, sử dụng phương tiện dạy học linh hoạt, bên cạnh đó sử
dụng lồng ghép các hoạt động trò chơi, hoạt động thưởng thức âm nhạc vào dạy học
để tạo hứng thú và phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết học vẽ tranh. Tôi
áp dụng thành công, các tiết Vẽ tranh Đề tài đạt hiệu quả cao, học sinh hào hứng vẽ
bài phát huy tính tích cực sáng tạo qua các bài học. Tôi thấy đây là giải pháp hiệu quả
và đưa ra để đồng nghiệp tham khảo góp ý bổ sung cho đề tài hoàn thiện hơn, để từ đó
nâng cao được chất lượng tiết dạy của giáo viên và các bài thực hành của học sinh đẹp
hơn, chất lượng hơn.
2
Phần 2
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
A / ĐẶT VẤN ĐỀ
1- Lí do chọn đề tài:
Mỗi người mỗi nghề đều mang những đặc thù, đặc trưng riêng của từng
ngành nghề sao cho phù hợp với từng năng lực sở trường của mình. Nghề dạy học
được coi là một nghề cao quý bởi sản phẩm chủ yếu là nhân cách con người.
Muốn trở thành con người hữu ích, đều phải dựa vào sự giáo dục của nhà trường.
Dạy học đã khó, dạy mỹ thuật càng khó hơn. Bởi ngoài việc dạy học sinh những
kiến thức cơ bản thì việc học mỹ thuật còn phải đem lại niềm vui cho mọi người,
làm cho mọi người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp ở trong mình, xung quanh mình
trở nên gần gũi đáng yêu hơn. Đồng thời học mỹ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái
đẹp theo ý mình, theo cách hiểu cách lý giải của bản thân, làm cho cuộc sống thêm
tươi vui hạnh phúc. Dạy và học mĩ thuật ở tiểu học không nhằm đào tạo họa sĩ hay
người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Chủ yếu
tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái
đẹp vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày. Để làm được điều đó cần
hiểu về cách nhìn cách cảm nhận, lý giải hiện tượng sự vật của học sinh hay nói
cách khác là “ngôn ngữ tạo hình” trong bộ môn mĩ thuật, mà cụ thể ở đề tài
nghiên cứu này được tìm hiểu thông qua phân môn vẽ tranh.Việc tìm hiểu đặc
trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh TH sẽ giúp cho giáo viên giảng dạy đánh giá

một cách tích cực đúng đắn, gây hứng thú cho cả người học và người dạy, tìm ra
được phương pháp, cách thức giảng dạy phù hợp đối tượng, lứa tuổi. Tuy nhiên
dạy như thế nào? Dạy thật tốt hay bình thường còn phụ thuộc ý thức, đạo đức nghề
nghiệp của mỗi chúng ta năng lực chuyên môn.
Với mong muốn trở thành người giáo viên dạy tốt, dạy giỏi, hoàn thành tốt
công tác nhiệm vụ, mỗi người giáo viên cần có rất nhiều yếu tố: chuyên môn
nghiệp vụ, kiến thức kinh nghiệm, và lòng say nghề yêu trẻ. Trong thực tế dạy Mĩ
thuật, đặc biệt trong các giờ dạy tiết vẽ tranh giáo viên vẫn còn rất lúng túng, thực
hiện chưa có hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực
của học sinh. Giáo viên còn phải làm việc nhiều trong giờ dạy học, giáo viên còn
nói rất nhiều, sử dụng phương tiện dạy học chưa hợp lý, chưa khoa học. Học sinh
ít được hoạt động để tự tìm ra kiến thức. Các em chỉ được trả lời các câu hỏi phát
hiện đơn giản, hầu như thời gian của giờ học, học sinh chỉ ngồi nghe và thực hành
ít thời gian không đủ để làm bài tập.Tiết học trở nên nặng nề, căng thẳng không
gây hứng thú và phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh; Học sinh trở
nên thụ động làm theo các gợi ý của thầy là chủ yếu tiết học không hiệu quả.
3
Là một giáo viên mĩ thuật trực tiếp giảng dạy tôi luôn băn khoăn và cố gắng
học hỏi về vấn đề vận dụng việc đổi mới phương pháp phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy phân môn vẽ tranh. Làm thế nào qua một tiết học mà giáo viên
vừa tổ chức cho học sinh hiểu được mục đích của đề tài vừa vẽ được một bài vẽ
mang đúng nghĩa là giáo dục thẩm mỹ cho học sinh, mở rộng vốn sống vốn kinh
nghiệm cho học sinh? Làm thế nào để học sinh hứng thú và phát huy được tính
tích cực của mình mà vẫn đảm bảo đặc trưng bộ môn? “ Tạo hứng thú và phát
huy tính tích cực sáng tạo cho học sinh trong tiết học vẽ tranh đề tài ” theo
hướng đổi mới phương pháp thì làm thế nào? Đó là vấn đề tôi quan tâm và là lý
do tôi chọn đề tài này.
2- Mục đích nghiên cứu:
Trong đề tài này hoàn toàn vì một mục đích chung của mục tiêu dạy học mĩ
thuật trường tiểu học là; Tuỳ từng địa phương, từng đối tượng học sinh ta có thể áp

dụng các bước lên lớp và cách dạy cho phù hợp.
Những yêu cầu của tiết dạy phân môn vẽ tranh cần đạt được là một tiết phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh, học sinh không những cảm thụ vẻ đẹp tranh
đề tài mà còn hào hứng thực hành vào bài vẽ, biết vận dụng vào cuộc sống giúp
cho cuộc sống ngày thêm hồn nhiên trong mắt trẻ thơ
3- Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh trường tiểu học nơi tôi dạy học
4-Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài này tôi chỉ đưa ra các cách cơ
bản và đơn giản khi thực hiện thiết kế và thực hiện hoạt động dạy và học, trong
phạm vi của các tiết trong phân môn vẽ tranh đề tài.
5- Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng được phương hướng thiết kế các hoạt động trong dạy phân môn
vẽ tranh.
- Xây dựng cách thức tổ chức các hoạt động trong giờ dạy phân môn vẽ
tranh
6- Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý thuyết để tìm ra cơ sở lý luận.
- Khảo sát thực tế dạy học mỹ thật ở trường TH, dạy thực nghiệm.
- Phân tích, lý giải, đối chiếu, chứng minh.
- Qua sách báo, băng hình, khai thác thông tin trên mạng Internet, trao đổi
kinh nghiệm với đồng nghiệp….
7. Những đóng góp của kinh nghiệm
Qua nghiên cứu kinh nghiệm “Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực sáng
tạo cho học sinh trong tiết học vẽ tranh đề tài ” giúp bản thân tôi nói riêng và
những giáo viên Mĩ thuật nói chung, coi mọi giải pháp góp phần nâng cao hứng thú
học tập của học sinh phát huy được tư duy, khả năng sáng tạo để từ đó nâng cao được
4
chất lượng tiết dạy của giáo viên và các bài thực hành của học sinh đẹp hơn, hoàn
thiện hơn.

Với đề tài tôi chọn nghiên cứu hy vọng được đóng góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc dạy và học môn Mĩ thuật ở Tiểu học đạt kết quả cao.
8. Thời gian nghiên cứu:
Bắt đầu từ năm học 2012 đến 2014 khi tôi trực tiếp giảng dạy môn mỹ thuật
khối 1,2,3,4,5, và qua các đợt tập huấn dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh.
B- NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội về kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh,
quốc phòng, những năm vừa qua Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát
triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó. Cùng với nhu cầu phát triển
ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục và thể dục, thì mỹ dục cũng
không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi
con người và nhất là thế hệ trẻ, mà đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh tiểu
học.
Với bộ môn mỹ thuật hiện nay nói riêng, giáo viên giảng dạy mỹ thuật còn ít
kinh nghiệm, không có cơ hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi thời lượng
tiết còn ít, mỗi trường chỉ có một giáo viên. việc trao đổi và thảo luận gặp nhiều
khó khăn. Đồng thời đây cũng là bộ môn mới được đưa vào gần đây nhằm đáp
ứng nhu cầu thị hiếu của con người, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm kiếm và sáng
tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao cùng với sự
phát triển kinh tế xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ
phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người lớn, mà tất
cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
Giảng dạy mỹ thuật ở trường tiểu học cũng nhằm mục tiêu trên. Trong quá
trình giảng dạy người giáo viên cần chú ý đặc điểm lứa tuổi học sinh, mỗi lứa tuổi
sẽ có cách cảm nhận suy nghĩ và lý giải về cái đẹp khác nhau. Người lớn có cách
cảm nhận lôgic và khoa học tạo nên một cái đẹp hoàn thiện, còn trẻ em thì có cách
cảm nhận ngây thơ, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng, không vướng bận những
nguyên tắc, trăn trở mà chủ yếu tập trung tình cảm sự yêu thích của mình vào bài

vẽ. Cho nên bài vẽ học sinh thường đem lại cho ta nhiều cảm xúc và tình cảm mới
lạ. Nói là vậy nhưng mỗi lứa tuổi, mỗi mức độ cách cảm nhận của con người luôn
đổi thay. Là người giáo viên dạy mỹ thuật cần nắm bắt được đặc điểm này của học
sinh để có phương pháp giảng dạy tốt nhất, phát huy được năng lực sự đam mê của
các em.
5
Dạy mỹ thuật cũng như dạy các bộ môn khác đối tượng chủ yếu là học sinh,
dạy cho học sinh theo những nội dung yêu cầu chương trình đã quy định. Nhưng
dù dạy bất cứ cái gì thì cần phải tìm hiểu rõ đối tượng cần truyền đạt là ai, đối
tượng nào, truyền đạt ở mức độ nào.
Ở đây đối tượng tìm hiểu là học sinh TH, mà cụ thể là học sinh trường tôi.
Lứa tuổi từ 6 đến 10 tuổi với những đặc điểm tính cách nhận thức riêng. Bộ môn
mỹ thuật là môn học mà kiến thức của nó vừa cụ thể, rõ ràng vừa chung chung
trừu tượng, khó thấy khó nhìn, là loại kiến thức có ở xung quanh ta, lấy những sự
vật hiện tượng quanh ta để biểu đạt. Điều đó đòi hỏi giáo viên ngoài việc phải nắm
vững kiến thức chuyên môn thì cần phải linh hoạt vận dụng các phương pháp mới
phù hợp với bài học. Trong đó giáo viên phải tạo được sự hứng thú và phát huy
tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong các bài học Vẽ tranh đề tài để các em coi
như bài học là một sân chơi “ Chơi là học, học như chơi ” mà tiết học vẫn hiệu
quả. Khi học xong một tiết học đó HS phải đạt được mục tiêu đề ra, HS hiểu bài,
thực hành tốt, biết vận dụng vào kĩ năng sống, không học sinh nào bỏ bài, nhiều
bài vẽ tốt sáng tạo HS thích vẽ lớp học sinh động thì đó là tiết học thành công.
Đây là điều tôi luôn trăn trở và tìm cho mình một giải pháp tốt nhất để áp dụng
trong quá trình dạy học không chỉ riêng với phân môn Vẽ tranh đề tài mà áp dụng
với tất cả các phân môn khác.
2. Thực trạng
2. 1 Học sinh
Trong nhà trường, hầu hết các em HS đều rất thích học môn học Mĩ thuật. Tuy
nhiên, sự quan tâm đến môn học này ở các bậc phụ huynh còn nhiều hạn chế,
nhiều em còn thiếu sách Mĩ thuật, màu vẽ, bút chì. Các bậc phụ huynh chủ yếu

yêu cầu các em chú trọng vào những môn như Toán, Tiếng Anh, nên nhiều khi
môn Mĩ thuật bị coi nhẹ. Chính vì vậy các yếu tố trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến
việc tiếp thu bài của các em.
Học sinh chưa nắm bắt được cách xây dựng hình tượng điển hình, bài vẽ còn
chung chung, mang nặng tính chất hình thức .
Trong khi tiến hành bài vẽ các em không theo trình tự tiến hành các bước làm
bài, mà làm theo ngẫu hứng, thích vẽ cái gì thì vẽ cái nấy, ít chú trọng trước sau
hay chính phụ trong bài vẽ.
Học sinh Tiểu học chưa có thói quen sưu tầm tài liệu phục vụ cho bài vẽ hiệu
quả hơn, và chưa có thói quen quan sát nhận xét sự vật hiện tượng cho bài vẽ có
chiều sâu và hiệu quả hơn.
Kỹ năng sử dụng màu sáp, màu bút dạ, màu nước của học sinh Tiểu học còn
kém.
Giờ học vẽ còn trầm, học sinh vẽ bài uể oải, chán nản, không phát được tính
tích cực sáng tạo của HS, tiết học đạt hiệu quả không cao, học sinh nhút nhát, rụt rè
6
chưa mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình, nhiều học sinh không hoàn thành
bài (kêu khó, không biết vẽ).
2 .2 Giáo viên
Qua dự giờ một số tiết Mĩ thuật của một số giáo viên khác và từ kinh nghiệm
giảng dạy của tôi qua nhiều năm, tôi thấy phương pháp truyền thống gv sử dụng đồ
dùng dạy học hoặc đồ dùng tranh ảnh phiên bản Sgk treo trên bảng quan sát và
nhận xét (tìm, chọn nội dung đề tài), giáo viên đã cố gắng đưa ra câu hỏi gợi mở
dẫn dắt Hs tìm, chọn nội dung đề tài, Hs trả lời câu hỏi của Gv, Hs chưa hiểu bài
sâu, nhiều hs không chú ý, không hứng thú học. Phần hướng dẫn cách vẽ, Gv minh
họa bảng đôi khi còn chậm, hình chưa đẹp, mất nhiều thời gian, Hs thực hành ít.
Bài vẽ đạt hiệu quả chưa cao.
Một số vật mẫu vẫn chưa đầy đủ giáo viên tự tìm kiếm hoặc phải chuẩn bị để
dạy học. Phần lớn giáo viên đều cho rằng: đồ dùng trực quan của môn Mỹ thuật
hiện nay là chưa đầy đủ, phần lớn đều do giáo viên tự thiết kế thêm,…

Bên cạnh đó giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn
Mỹ thuật và mang lại hiệu quả cao, gây hứng thú cho học sinh đặc biệt là trong các
tiết học phân môn thường thức Mỹ thuật. Với cách dạy này giáo viên có thể sử
dụng nhiều trò chơi để tổng kết bài học và củng cố kiến thức
2.3 Điều tra thực trạng
Tôi tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm học kì 1 2012-2013 để nắm được
thực trạng học môn Mĩ thuật của học sinh.
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2012 – 2013
Khối
lớp
Tổng số
HS
(Hoàn thành tốt)
A
+
% (Hoàn thành)
A
% ( Chưa hoàn thành)
B
%
1
92 25 27 65 71 2 4
2
89 27 30 61 68 1 2
3
77 21 27 55 71 1 2
4
83 22 26 60 72 1 2
5
63 15 24 47 74 1 2

7
3. Các giải pháp cụ thể:
3.1 Những yếu tố quan trọng tạo hứng thú và phát huy tính tích cực sáng tạo
trong quá trình thực hiện dạy tiết Vẽ tranh đề tài hiệu quả.
3.1.1 Phát huy và nâng cao vai trò của người thầy:
Chúng ta đã biết: Toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động
học tập. Đó chính là con đường hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu dạy học. Chức
năng cơ bản của người thầy là chỉ đạo, tổ chức các hoạt động ấy để học sinh chủ
động chiếm lĩnh nội dung học tập bằng những phương pháp thích hợp với từng bài
học.
Muốn gây được hứng thú cho các em trong tiết học thầy cô giáo phải giữ
vai trò chủ đạo trong việc tổ chức điều khiển mọi hoạt động nói chung cũng như
hoạt động nhận thức riêng của học sinh.
Đối với tôi, mỗi khi đến trường, đến lớp tôi luôn tạo cho mình một tâm thế
vững vàng, bình tĩnh tự tin. Muốn vậy tôi phải tập cho mình một tư thế đĩnh đạc,
tác phong nhanh nhẹn, giọng nói truyền cảm. Bước lên bục giảng tôi phải là một
người hoàn toàn mới, đầy nhiệt huyết với nhiệm vụ cao cả là đưa các em bước vào
một thế giới nghệ thuật của trí tưởng tượng, tính sáng tạo, thế giới của cái đẹp và
tìm hiểu nó thông qua các bài học vẽ tranh đề tài. Như vậy trong suốt giờ dạy mĩ
thuật cả thầy và trò đều trở thành những nghệ sĩ trên bục giảng và ở trên lớp.
Cũng như các đồng nghiệp khác trước giờ lên lớp bao giờ tôi cũng chuẩn bị
nghiên cứu kỹ giáo án, thiết kế giáo án điện tử thành thạo, tham khảo tìm tư liệu
bài giảng, tìm ra những phương pháp phù hợp cho từng bài dạy và từng khối lớp
khác nhau. Liên hệ ra một số môn học khác để bài dạy được phong phú như môn:
Hát nhạc, Tiếng Việt …
Trong khi dạy giáo viên chỉ phụ thuộc vào SGK thì bài dạy sẽ không đạt
được hiệu quả cao vì SGK là chuẩn kiến thức cũng là một tài liệu để tham khảo.
Bên cạnh việc chuẩn bị giáo án tốt tôi còn tự làm, sưu tầm tài liệu, vẽ tranh phục
vụ cho bài dạy của mình .

Từ đó tôi rút ra kinh nghiệm: Muốn có được một giờ dạy vẽ tranh đề tài tốt
thì người thầy có một vai trò vô cùng quan trọng nhất là việc tạo ra sự thích thú,
tạo ra được khí thế trong tiết học và có được một tiết học đạt hiệu quả cao nhất.
3.1.2. Chuẩn bị và sử dụng tốt đồ dùng dạy học:
Tôi luôn nghĩ rằng: Trong một tiết học muốn gây được hứng thú và sự thích
thú cho học sinh thì việc chuẩn bị đồ dùng là rất quan trọng.
Giáo viên phải đầu tư cho việc chuẩn bị đồ dùng, thích hợp đáp ứng yêu cầu
bài dạy .
Đồ dùng phải đáp ứng được tính thẩm mỹ không tùy tiện cẩu thả, đồ dùng
phải phong phú và đa dạng .
8
VD: Khi dạy bài - Vẽ tranh môi trường tôi chuẩn bị vẽ tranh có nội dung
khác nhau ( quét sân, tưới cây, lao động ).
Để học sinh dễ phân tích và quan sát khơi dậy hứng thú cho các em.
Ngoài đồ dùng giáo viên phải sưu tầm thêm tranh vẽ của học sinh. Giúp các
em học tập kinh nghiệm của các bạn và biến nó thành kinh nghiệm của bản thân.
Khi vẽ tranh các em sẽ phát huy được những mặt tối đa và hạn chế những mặt chưa
tốt trong cách sắp xếp bố cục và sử dụng màu sắc trong bài.
Một số hình thức trực quan hết sức cần thiết khác chính là cuộc sống hàng
ngày đang diễn ra xung quanh các em.
VD: trường em, nhà em, cánh đồng lúa, đường làng.
Sử dụng đồ dùng có hiệu quả, giới thiệu đúng lúc, đúng chỗ.
VD: Bài 2 – lớp 1 vẽ vật nuôi trong nhà.
Ở phần quan sát nhận biết đặc điểm của vật nuôi trong nhà, giáo viên có thể
đưa đồ dùng để học sinh quan sát nhận xét và tìm đặc điểm riêng của các con vật.
- Giáo viên có thể vẽ thêm một số tranh phục vụ cho từng bài dạy và bằng
những chất liệu khác nhau như bút sáp, màu nước, màu bột …
3.1.3Tạo tình huống khi vào phần giới thiệu bài
Đối với từng khối lớp khác nhau tôi chọn cách vào bài phù hợp có thể dùng
những bài hát, trò chơi, những hình ảnh liên quan đến đến bài học.

VD: Khi dạy bài “Đề tài an toàn giao thông” cho học sinh lớp 5, tôi cho các
em quan sát các đoạn băng về những hình ảnh giao thông.
Khi các em quan sát xong tôi đặt câu hỏi.
Hỏi: Các em có suy nghĩ gì khi nhìn thấy những hình ảnh này?
(Nếu chúng ta không chấp hành đúng luật giao thông thì sẽ gây ra những vụ
tai nạn thương tâm).
Hỏi: Vậy chúng ta phải làm gì để hạn chế tai nạn giao thông?
(Hiểu chấp hành đúng luật giao thông. Tuyên truyền cho mọi người cùng
thực hiện).
Hỏi: Các em tuyên truyền bằng những hình thức nào?
(Tuyên truyền bằng bài viết, hành động, bằng vẽ tranh)
VD: Khi dạy đề tài vẽ tranh đề tài con vật nuôi - Học sinh lớp 1
Tôi cho một học sinh lên bảng và làm các động tác về các con vật mà các em
biết trong gia đình em.
- Học sinh quan sát và nêu tên các con vật đó.
9
Như vậy việc giới thiệu đối với một bài mới rất cần thiết và càng cần thiết
hơn nếu người giáo viên tìm được cách giới thiệu gây được sự kích thích, hứng thú
đối với học sinh. Vậy để làm thế nào để có được cách vào bài như thế?
Theo tôi để làm được điều này người thầy trước hết phải tìm hiểu kỹ bài dạy,
xem xét, tìm ra cách lạ hay gây ấn tượng và cụ thể hơn là cách chọn những hình
ảnh phù hợp liên quan đến bài học.
3.1.4. Phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong phát hiện
kiến thức mới.
Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo bằng cách đặt
những câu hỏi kêu gợi thông tin, kích thích tính tò mò của học sinh.
Mỗi giáo viên có một cách khai thác bài khác nhau, có thể cho các em khai
thác trên tranh ảnh, hoặc đặt câu hỏi trả lời.
Ở mỹ thuật, phương pháp vấn đáp được sử dụng nhiều. Phương pháp vấn
đáp kích thích được học sinh suy nghĩ, giúp học sinh hiểu, áp dụng vào bài vẽ của

mình.
VD: Bài “Vẽ tranh đề tài phong cảnh’’
Hỏi: Em hãy nêu thế nào là tranh phong cảnh?
(Tranh phong cảnh là tranh vẽ về cảnh vật xung quanh em. Tranh phong
cảnh vẽ cảnh là chính có thể điểm thêm người cho bức tranh thêm sinh động.)
Vì sao lại phải đặt câu hỏi như thế? Phải làm thế nào để có những câu hỏi
vừa sát nội dung của bài lại vừa dễ hiểu với học sinh? Để làm được điều này tôi đã
suy nghĩ và chắt lọc ra những câu hỏi không phải chỉ xoay quanh nội dung bài học
mà còn liên quan và thật gần gũi, quen thuộc với đời sống hàng ngày của các em.
Điều này sẽ thôi thúc học sinh phải tư duy, nghĩ lại những hoạt động đã và đang
xảy ra xung quanh mình.
VD: Khi dạy bài Vệ sinh môi trường tôi cho các em quan sát 1 bức tranh và
đặt câu hỏi
Hỏi: Bức tranh này vẽ các bạn đang làm gì?
(Tranh vẽ các bạn học sinh đang quét sân trường)
Hỏi: Hình dáng, điệu bộ của các bạn như thế nào?
(Hình dáng của các bạn sinh động, mỗi bạn một việc, bạn quét sân, bạn hót
rác, bạn sách xô …)
Hỏi: Em có nhận xét gì về màu sắc của bức tranh này?
(Hs nêu nhận xét về màu sắc bức tranh, bức tranh vẽ màu hình ảnh chính
nổi bật hơn hình ảnh phụ, kết hợp hài hòa 2 gam màu nóng, lạnh và đã biết cách sử
dụng độ đậm, nhạt trong bài.)
10
Khi câu hỏi đưa ra giáo viên cũng muốn nhiều cánh tay giơ lên xung phong
trả lời và mong được nhiều em nói đúng, nói hay. Nhưng giáo viên chỉ chú ý đến
việc nêu câu hỏi mà không chú ý nghe câu hỏi hoặc việc làm khác thì học sinh
không còn hứng thú trả lời, các em sẽ thấy câu hỏi của mình không có giá trị và
không muốn phát biểu nữa và giáo viên phải chú ý đến từng nhận thức của các em
để khai thác nội dung bài. Để tình trạng này không bao giờ xảy ra, người thầy phải
tôn trọng câu trả lời của học sinh, chăm chú thực sự khi nghe học sinh trả lời và có

thái độ với tất cả các câu trả lời dù đúng hay chưa đúng. Không được chê bai hay
phản đối câu trả lời của học sinh dù là câu trả lời sai. Bởi khi học sinh trả lời các
em đều nghĩ cả thầy cô và các bạn đang chờ đợi ý kiến của mình mà khi trả lời
xong cô lại chê thì em đó sẽ xấu hổ với lớp như vậy các em sẽ sợ phát biểu và gây
ra kết quả không mong muốn trong giờ học.
VD: Khi vẽ tranh về cảnh biển
- Giáo viên giới thiệu tranh, học sinh quan sát
Hỏi: Em hãy cho biết bức tranh vẽ phong cảnh gì?
(Phong cảnh biển)
Hỏi: Trong bức tranh có những hình ảnh gì?
(Tranh có thuyền, núi, mây trời… )
Hỏi: Hình ảnh chính trong bức tranh là gì?
(Hình ảnh chính là thuyền, núi, nước)
Sau khi học sinh trả lời giáo viên phải chỉ vào những nơi, những hình ảnh
mà học sinh nói tới trong bức tranh. Có như vậy các em mới thấy rõ câu trả lời của
mình đúng hay chưa đúng. Sau mỗi câu trả lời của học sinh giáo viên cần chốt và
bổ sung cho học sinh nghe.
* Tạo hứng thú và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh
trong thời gian thực hành.
Trong khi làm bài giáo viên phải nắm vững tâm lý của học sinh để từ đó
xây dựng kế hoạch và phương pháp tác động vào các em tạo ra được không khí
cạnh tranh trong học tập (khen bạn vẽ đẹp), kích thích sự sáng tạo, xóa bỏ tư tưởng
chán học không muốn trong học tập. Từ một nhóm học sinh khá giáo viên có thể
dùng làm hạt nhân kích thích gây ra một làn sóng lan truyền trong học tập.
* Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh khi
đánh giá kết quả học tập của các em.
Khi đánh giá tranh vẽ của các em cần phải dựa trên đặc điểm tâm sinh lý của
lứa tuổi, từ các khối lớp khác nhau giữa học sinh lớp 1 và lớp học sinh lớp 5.
11
Không nên áp đạt lấy tiêu chuẩn đánh giá tranh vẽ của người lớn để đánh giá

các em. Dựa trên những yếu tố có thể phân loại và đánh giá đúng với khả năng để
khích lệ học sinh học tập là chủ yếu.
Khi đánh giá cần căn cứ vào yêu cầu của bài học, động viên khuyến khích
các em có tính sáng tạo. Những em học sinh yếu không nên chê bai quá nhiều với
những em chưa đạt mà chỉ nên nhắc nhở, động viên các em bài sau cố gắng vẽ tốt
hơn. Như vậy mới tạo ra cho các em sự tìm tòi, hứng thú say mê và thể hiện cái
mới sáng tạo trong bài vẽ của mình.
* Tạo hứng thú, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh qua
việc nhận xét bài của bạn.
Khi kết thúc giờ học, giáo viên treo tranh của học sinh để học sinh tự nhận
xét những bài vẽ tốt, qua đó kích thích các em cố gắng trong bài học của mình còn
những bài chưa đẹp các em có thể rút ra kinh nghiệm cho bài học sau.
3.1.5 .Tổ chức lồng ghép các trò chơi, hội thi phù hợp.
Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh được thực hiện ở
tất cả các môn học. Đối với việc giảng dạy môn mỹ thuật càng yêu cầu vận dụng
phương pháp này một cách hợp lý để tạo hứng thú và phát huy tính sáng tạo của
các em trong bài học.
Môn mỹ thuật là một môn học nghệ thuật. Vì vậy giáo viên phải tổ chức sao
cho giờ học nhẹ nhàng thoải mái mang tính nghệ thuật và có thể tổ chức bằng
nhiều hình thức như lồng ghép trò chơi. Lồng ghép trò chơi không chỉ kích thích
các em hoạt động mà còn giúp các em phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo
thông qua việc tái tạo nội dung, hình tượng, tiếng kêu, tiếng động …để xây dựng
hình ảnh của bài vẽ.
Nhưng khi sử dụng trò chơi giáo viên có thể áp dụng vào từng bài học khác
nhau, có bài thì giáo viên cần lồng ghép trò chơi có bài thì không cần.
Giáo viên phải biết lồng ghép đúng tùy từng nội dung của các bài học có thể
ở phần mở bài, thực hành hay ở cuối bài học.
VD1: Bài vẽ con vật lớp 2
Giáo viên có thể cho chơi trò chơi ngay ở phần đầu. Cho cả lớp hát bài hát
có tên con vật sau đó hỏi trong bài hát có tên những con vật gì. Sau đó giáo viên

giới thiệu bài mới. Hoặc có những bài giáo viên có thể cho phần trò chơi dưới cuối
bài để củng cố bài.
VD2: Bài vẽ tranh đề tài Mẹ hoặc cô giáo ( MT2 )
Sau khi nhận xét xong bài của học sinh, cô giáo có thể cho các em chơi trò
chơi.Thi tìm hiểu những bài hát nói về mẹ hoặc cô giáo, các bạn nêu tên bài hát và
hát một vài câu.Qua trò chơi giúp các em nhận biết và cảm thụ thêm và đây cũng là
12
cách học thoải mái nhẹ nhàng. Các em vừa được học lại vừa chơi trò chơi. Sau khi
học xong các em có cảm giác thoải mái, hứng thú, hưng phấn cho môn học sau.
3.1. 6 Giới thiệu sản phẩm, tranh vẽ, mở triển lãm tranh theo từng chủ đề.
Sau khi học sinh hoàn thành bài vẽ của mình, học sinh mang sản phẩm lên
trưng bầy có thể GV cho HS dán bài lên bảng hoặc trình chiếu trên máy chiếu đa
vật thể ( sử dụng khi dạy BGĐT ), tuỳ từng nội bung bài học mà giáo viên có hình
thức tổ chức khác nhau. Sau đó giáo viên gọi học sinh nhận xét bài của bạn, đánh
giá theo 3 mức độ sau: Hoàn thành tốt: A
+
, Hoàn thành: A, Chưa hoàn thành: B. Và
tìm ra bài mình yêu thích. Qua đó giúp học sinh học tập những kinh nghiệm để vẽ
tốt bài vẽ của mình. Những em hoàn thành tốt bài vẽ, giáo viên khen, khuyến
khích, tuyên dương các em để vẽ tốt bài sau. Còn những em chưa hoàn thành giáo
viên động viên, khích lệ các em cố gắng hoàn thành bài vẽ sau.
3. 2. Các bước tiến hành bài giảng Vẽ tranh đề tài đã áp dụng giải pháp
tạo hứng thú và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo cho HS tiểu học.
Hoạt động Vẽ tranh là hoạt động thực hành, cần tổ chức sao cho thông qua
các hoạt động này học sinh hứng thú, chủ động tích cực sáng tạo tham gia và thể
hiện hết khả năng của bản thân, sự hướng dẫn của giáo viên là cần thiết nhưng cần
đúng lúc, đúng chỗ và mang nhiều tính động viên khích lệ và gợi ý. Nếu không sẽ
làm học sinh mất hứng thú ảnh hưởng không tốt đến kết quả bài vẽ.
Khi dạy tiết Vẽ tranh tôi tiến hành như sau:
3.2.1. Chuẩn bị:

Tôi thiết kế bài giảng, BGĐT, nghiên cứu kĩ bài dạy trước khi lên lớp 3
ngày, thiết kế bám sát theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Bên cạnh đó tôi tìm hiểu tham
khảo thêm các phương pháp dạy trên vô tuyến, băng đĩa hình, sách, báo… Ngoài
việc thiết kế bài giảng trước khi lên lớp, tôi chuẩn bị đồ dùng trực quan: Tranh vẽ
của học sinh về đề tài liên quan đến bài học, các tranh phải có nét điển hình, đặc
biệt có thể giúp giáo viên khai thác phục vụ tốt cho bài dạy ( các bức tranh có 3
loại : Tốt, trung bình và loại chưa tốt ), tranh của giáo viên vẽ hoặc đồ dùng, hình
gợi ý cách vẽ, hoặc những dụng cụ cần thiết phục vụ cho bài vẽ ngoài trời, máy
chiếu, băng đĩa hình…Tôi dặn học sinh chuẩn bị bài ( sưu tầm tranh ảnh, bài vẽ
của học sinh liên quan đến bài vẽ ), đồ dùng học Mĩ thuật.
3.2.2. Tiến hành bài giảng.
Trình tự tiến hành tổ chức tiết dạy phải đầy đủ theo các bước nhất định. Thời
gian trong giờ giảng phải được phân phối hợp lý, giáo viên phối hợp linh hoạt các
phương pháp dạy học. Các bước dạy bài Vẽ tranh đề tài (Các hoạt động dạy - học
chủ yếu)
Bài mới:
*Giới thiệu bài.
Tuỳ theo nội dung bài và thực tế lớp học, giáo viên giới thiệu tạo hứng thú
học tập Mĩ thuật cho học sinh nêu yêu cầu của bài học.
13
Ví dụ 1 : Bài 3 - Vẽ tranh Đề tài các con vật quen thuộc (Mĩ thuật lớp 4) .
Giáo Viên minh hoạ nhanh hình các con vật trên bảng (hoặc dán mô hình các con
vật vẽ sẵn). Hỏi học sinh.
+ Đây là những con vật gì? Hãy kể tên những con vật đó? Chúng có quen
thuộc với em không?
- Các em có thích vẽ một trong số những con vật đó không?
- Hôm nay cô sẽ dạy chúng ta vẽ đề tài con vật quen thuộc.
Giáo viên viết bài học lên bảng.
Cách khác giới thiệu bài này : Giáo viên cùng học sinh chơi trò chơi đoán
con vật qua tiếng kêu ( giáo viên ghi âm tiếng kêu các con vật hoặc giáo viên giả

giọng (khẩu thuật rồi vào bài).
Hoặc giáo viên mở băng hình do giáo viên cóp từ chương trình thế giới động
vật (quay các hoạt động các con vật gần gũi, dễ nhận biết) cho học sinh quan sát
rồi đoán cả tên các con vật giáo viên vào bài.
Ví dụ 2 : Bài 28 - Vẽ tranh Đề tài : An toàn giao thông (Mĩ thuật lớp 4)
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh di động giống hình rối dẹt ( do giáo
viên tự làm ) chơi trò chơi hai bạn Bi và Bống tham gia giao thông trên đường đi
học về, nhận xét bạn nào đi đúng và bạn nào đi sai đường.
+ Bạn nào đi đúng đường? Tại sao em biết?
+ Bạn nào đi sai đường? Vì sao?
- Quan sát các bạn đi trên đường xảy ra điều gì (Giáo viên di động hình các
nhân vật) Bi đi trên vỉa hè rất an toàn còn Bống đi dưới lòng đường không để ý, xe
ô tô lao tới.
+ Bạn Bống xảy ra điều gì?(Giáo viên diễn tả hành động Bống bị ô tô đâm
vào và ngã ra sau).
+ Các em học tập bạn nào ?
Hôm nay, các em có thích tham gia giao thông cùng bạn Bi và bạn Bống qua
bài Vẽ tranh Đề tài An toàn giao thông không (Giáo viên ghi bảng).
Ví dụ 3 : Bài 34- Vẽ tranh Đề tài phong cảnh (Mĩ thuật lớp 2). Giáo viên cho
học sinh xem băng đĩa hình quay một số phong cảnh thiên đẹp và một số danh lam
thắng cảnh hỏi học sinh .
- Đây là những cảnh đẹp gì ?
Những cảnh đẹp đó được vẽ lại, gọi là tranh phong cảnh. Em có thích vẽ một
bức tranh phong cảnh đẹp không? Giáo viên ghi đầu bài lên bảng.
Ví dụ 4 : Bài 23 - Vẽ tranh Đề tài Mẹ hoặc Cô giáo (Mĩ thuật lớp 2). Giáo
viên đọc bài thơ Mẹ và Cô của nhà thơ Trần Quốc Toản. Hoặc cho cả lớp hát bài
Mẹ và Cô giáo.
Nghe thơ hoặc hát về Mẹ và Cô giáo. Các em có thích vẽ tranh về mẹ hoặc
cô giáo để tặng mẹ hoặc cô giáo không? Giáo viên ghi đầu bài lên bảng.
Ví dụ 5 : Bài 29 - Vẽ tranh Đàn gà (Mĩ thuật lớp 1)

14
Giáo viên cho học sinh quan sát mô hình khu vườn tự tạo và mô hình đàn gà :
gà trống, gà mái (đồ chơi làm thủ công ) mô hình gà con làm bằng len .
+ Trong khu vườn, có những con vật gì đi kiếm mồi ?
+ Các em có thích vẽ chúng không ?
+ Hôm nay cô sẽ dạy các em vẽ tranh Đàn gà nhé. Giáo viên ghi bảng, giới
thiệu bài.
a. Hoạt động 1 : Tìm, chọn nội dung đề tài.
- Mỗi đề tài có nhiều chủ đề khác nhau, cần giúp học sinh hiểu được nội
dung chủ đề, để các em nhớ lại và tưởng tượng được những hình ảnh có liên quan
đến nội dung bài vẽ.
- Giáo viên sử dụng đồ dùng tranh vẽ tự làm, tranh vẽ của học sinh, video
clip quay các hình ảnh cụ thể (những tranh, ảnh, hình ảnh dùng để minh hoạ cần có
nhiều nét điển hình tiêu biểu giúp cho học sinh hiểu nội dung đề tài và tìm chọn
cách vẽ dễ dàng) cho học sinh quan sát nhận xét tìm, chọn nội dung đề tài. Ở phần
này, tốt nhất giáo viên nên chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cụ thể từ dễ đến khó có
liên quan trực tiếp đến nội dung chủ đề. Dùng các câu hỏi này để giúp học sinh tìm
hiểu và tiếp cận với đề tài. Những câu hỏi nên gắn với nội dung và được minh hoạ
bằng tranh, ảnh, hình ảnh cụ thể, tránh những câu hỏi khó. Nên dùng phương pháp
gợi mở gây hứng thú để lôi cuốn học sinh khi trả lời câu hỏi.
Ví dụ 1: Bài 19. Vẽ tranh - Đề tài Ngày Tết (Lễ hội) mùa xuân (Mĩ thuật 5).
+ Giáo viên dùng tranh, ảnh hoặc băng hình cho học sinh xem.
+ Em quan sát không khí ngày tết, lễ hội ra sao?
+ Tranh tranh, ảnh (băng hình) ngày tết (Lễ hội) có những hoạt động gì ?
+ Những hình ảnh gì nổi bật nhất ?
+ Hãy kể những hình ảnh xung quanh ?
+ Em quan sát thấy màu sắc của Ngày Tết (Lễ Hội) trong tranh (ảnh) hoặc
hình ra sao ? có tươi vui, rực rỡ thể hiện đúng cảnh ngày Tế (Lễ Hội) không?
+ Em hãy kể về Ngày Tết (Lễ hội) em được tham gia ? kể về hoạt động em
thích nhất ? Tại sao em thích? Em hãy mô tả hình ảnh và màu sắc của hoạt động,

cảnh vật ?
Ví dụ 2 : Bài 34 : Vẽ tranh - Đề tài phong cảnh (Mĩ thuật 2).
- Giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh ( băng hình ) phong cảnh
+ Tranh phong cảnh thường có hình ảnh gì?
+ Em hãy kể về những hình ảnh trong tranh? Hình ảnh gì em thấy nổi bật
nhất ? Kể những hình ảnh phụ xung quanh ?
+ Hãy kể những màu sắc trong tranh, ảnh?
+ Em hãy kể một phong cảnh mà em thích?
+ Phong cảnh có hình ảnh gì?
+ Màu sắc ra sao?
Ví dụ 3 : Bài 29: Vẽ tranh Đàn gà ( Mĩ thuật 1 )
15
Giáo viên cho học sinh quan sát mô hình đàn gà hoặc tranh ảnh đàn gà hỏi
học sinh.
+ Em hãy kể tên những con gà trong tranh (ảnh) ?
Hoặc
+ Trong gia đình nhà gà gồm những ai ?
+ Gà trống (gà bố) khác gà mái (gà mẹ) và gà con ra sao? Em hãy tả lại
chúng?
+ Gia đình nhà gà đang làm gì ?
+ Ngoài vẽ gà còn hình ảnh gì nữa? Màu sắc của những con gà ra sao ?
+ Em có thích đàn gà (gia đình gà) không? Tại sao? Em đã chăm sóc chúng
bao giờ chưa?
Khi học sinh trả lời chưa đúng các ý giáo viên cần bổ sung, định hướng để
các em nhận biết cần phải trả lời thế nào cho phù hợp với đúng yêu cầu của bài.
b. Hoạt động 2 : Hướng dẫn cách vẽ
* Hướng dẫn sắp xếp bố cục
- Hướng dẫn vẽ tranh nếu không có tranh mẫu không có gợi ý thì học sinh sẽ
rất lúng túng. Vì thế treo tranh mẫu và phân tích giảng giải cách sắp xếp bố cục
hình ảnh, màu sắc ở từng bức tranh để các em quan sát là việc làm hết sức cần

thiết. Nếu giáo viên chỉ nói mà không có tranh minh hoạ thì học sinh rất khó tiếp
thu. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa lời giảng và tranh minh hoạ nhằm gợi ý để
học sinh suy nghĩ nhớ lại những hình ảnh có liên quan tới đề tài (người, con vật,
nhà cửa, cây cối có thể đưa vào tranh).
- Cần lưu ý học sinh chọn hình ảnh chính, hình ảnh phụ và cách sắp xếp các
hình ảnh đó sao cho hợp lý, cân đối, có trọng tâm rõ nội dung. Tuỳ theo nội dung
cụ thể của từng bài mà chọn hình ảnh sắp xếp bố cục cho phù hợp, tránh tham lam,
ôm đồm, tránh sơ lược, đơn điệu.
- Việc hướng dẫn gợi ý sắp xếp bố cục tranh cho hợp lý là rất cần thiết và
quan trọng khi vẽ tranh đề tài. Nhưng để cho học sinh vẽ được tranh, biện pháp tốt
nhất có lẽ là sau khi gợi ý chung hãy để cho học sinh tự do vẽ theo khả năng của
mình, tránh bắt vẽ theo khuôn mẫu nhất định, hoặc vẽ theo ý chủ quan của giáo
viên.
* Hướng dẫn vẽ màu:
- Khi hướng dẫn vẽ màu cần lưu ý hướng dẫn cách sử dụng các chất liệu
màu (màu dạ, sáp màu, màu nước , màu bột ) thông qua việc giới thiệu các bức
tranh cụ thể và thực hành vẽ mẫu của giáo viên. Cùng với việc hướng dẫn cách sử
dụng là việc hướng dẫn vẽ màu và phối hợp màu cho phù hợp với bố cục và nội
dung của bức tranh.
- Thường thì học sinh Tiểu học rất thích vẽ màu nguyên chất và khi vẽ màu
các em thường vẽ theo bản năng. Nếu sự tác động của giáo viên không đúng lúc,
đúng chỗ thì sẽ ảnh hưởng không tốt và làm mất đi những màu sắc trong sáng và
ngây thơ của các em. Chính vì thế việc hướng dẫn cho học sinh vẽ màu cần khéo
16
léo và mang tính chất gợi ý, động viên khích lệ, tránh ép buộc các em vẽ màu theo
ý của giáo viên hoặc bắt chước tranh mẫu.
- Sau khi hướng dẫn cách vẽ xong giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi để củng cố lại các bước vẽ tranh đề tài tạo hứng thú cho giờ học.
Ví dụ : Trò chơi thi sắp xếp hoàn thành bức tranh theo các bước nhanh nhất
(giáo viên xếp lộn xộn các hình gợi ý)

Hoặc : Lựa chọn các hình ảnh cắt rời dán vào giấy A3 hoàn chỉnh bức tranh.
Các trò chơi này có thể tổ chức thi theo nhóm sẽ sôi nổi hơn, giáo viên là
trọng tài.
- Giáo viên cho học sinh quan sát xem một số bài vẽ của học sinh từ năm
trước, bài đẹp, bài chưa đẹp gọi học sinh nhận xét tìm ra bài nào vẽ đẹp để học tập
và tránh lặp lại cái sai của bài chưa đẹp.
c. Hoạt động 3 : Thực hành.
- Giáo viên xoá bảng hoặc cất hết hình gợi ý cách vẽ, bài của học sinh cho
học sinh vẽ ra vở, tập vẽ giấy A4.
- Giáo viên cho học sinh ra ngoài vẽ thực tế (nếu có điều kiện thuận tiện) Ví
dụ : Các bài Vẽ tranh Đề tài phong cảnh, sân trường giờ ra chơi, vẽ nhà, vẽ cây,
Trường em ( Tổ chức vẽ ngoài trời , giáo viên quản lí học sinh, quan sát học sinh
hết sức chặt chẽ tránh xảy ra điều đáng tiếc vì học sinh tiểu học rất hiếu động.
- Tổ chức học sinh thi vẽ theo nhóm (Nhóm 3 – 4 học sinh) vẽ ra giấy A4,
A3 hoặc vẽ nhóm theo tổ, bài của ai tự vẽ được phép thảo luận tránh chép bài của
nhau.
- Trong khi học sinh làm bài, GV cho HS nghe nhạc không lời hoặc bài hát
thiếu nhi có liên quan đến bài học để tạo hứng thú khi làm bài, giáo viên cần đến
từng bàn, từng nhóm để quan sát để hướng dẫn thêm, chú ý giúp đỡ những em còn
lúng túng chưa nắm được cách vẽ, động viên khích lệ những học sinh vẽ tốt. Trong
khi hướng dẫn trực tiếp trên các bài vẽ của học sinh giáo viên cũng chỉ gợi ý khích
lệ mà không vẽ hộ, chữa trực tiếp vào bài vẽ của học sinh, hoặc bắt học sinh vẽ
theo ý mình. Giáo viên có thể chọn một vài bài của học sinh đang vẽ để hướng dẫn
nhằm bổ sung khắc phục những chỗ yếu và học tập những chỗ tốt cho cả lớp.
d. Hoạt động 4: Nhận xét, đánh giá kết quả học tập.
Cuối tiết học của từng bài, giáo viên cần dành thời gian để nhận xét, đánh
giá bài vẽ của học sinh (nên dùng dây, cặp, nam châm treo, dán bài trên bảng) GV
có thể tổ chức mở triển lãm tranh ngay tại lớp để tạo không khí học tập hứng khởi
HS nào cũng muốn có bài vẽ tốt nên cố gắng vẽ thật tốt để trưng bày.
Nhận xét và đánh giá đúng sẽ có tác dụng động viên khích lệ tinh thần học

tập của học sinh. Nếu đánh giá chung chung, hoặc không đúng khả năng sẽ làm
mất hứng thú chán nản và không thích vẽ. Bởi vậy khi đánh giá kết quả bài vẽ giáo
viên cần chú ý một số điểm sau đây:
- Lấy khen ngợi để động viên khích lệ học sinh là chính.
- Tránh chê bai bài học sinh trước lớp.
17
- Tất cả các bài tập thực hành đều được xếp loại theo các mức độ như đã
hướng dẫn chung.
*Dặn dò : Giáo viên dặn học sinh chuẩn bị đồ dùng cho tiết học sau.
Trong lúc giảng các bài vẽ tranh đề tài, tôi lồng ghép tích hợp giáo dục Hs
bảo vệ môi trường, liên hệ thực tiễn vào từng bài cụ thể. Có bài tôi tích hợp lồng
ghép ở phần tìm, chọn nội dung đề tài. Có bài tôi giáo dục các em vào cuối giờ vẽ
tranh. Đối với các bài Vẽ tranh Đề tài con vật, Đề tài phong cảnh, Đề tài môi
trường tôi có thể tích hợp bảo vệ môi trường ở phần Tìm, chọn nội dung đề tài,
bằng các câu hỏi gợi ý dẫn dắt học sinh tích cực chủ động tìm ra hoạt động BVMT
mà mình có thể tham gia và có ý thức bảo vệ môi trường.
Ví dụ 1: Bài 22-Vẽ tranh Đề tài con vật (lớp 1), khi cho học sinh quan sát
tranh con vật Gv hỏi: Các em có yêu quý các con vật không? Các em cần làm gì để
chăm sóc, bảo vệ con vật?
Ví dụ 2: Bài 27-Vẽ tranh Đề tài Môi trường(lớp 5) Để bảo vệ môi trường
xung quanh xanh, sạch, đẹp các em cần làm gì?
Một số bài Vẽ tranh chân dung, Vẽ tranh Đề tài Mẹ hoặc cô giáo, Đề tài
Cô(chú) bộ đội giáo dục tình cảm yêu thương, kính trọng con người, liên hệ thực
tiễn tình cảm gia đình, đất nước vv
3.3 Kết quả sau khi thực hiện áp dụng SKKN
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm học 2012 – 2013
Khối
lớp
Tổng số
HS

(Hoàn thành tốt)
A
+
% (Hoàn thành)
A
% ( Chưa hoàn thành)
B
%
1
92 39 42 53 61
2
89 37 41 52 59
3
77 30 39 47 61
4
83 36 43 47 57
5
63 26 41 37 59
Kết quả cuối năm học , 100% các em học sinh thích học Mĩ thuật, HS đạt A+
( Hoàn thành tốt ) đạt cao so với chất lượng khảo sát đầu năm, còn lại đạt A ( Hoàn
thành ), không có nhận xét B ( Chưa hoàn thành ), các em học tập với tinh thần
hăng say hào hứng và cũng thông qua việc giảng dạy rút kinh nghiệm của bản thân.
Tôi nhận thấy SKKN này có những ưu điểm sau :
18
- V phớa giỏo viờn vn dng linh hot cỏc phng phỏp dy hc, li núi c ch
cú phn mm do hn, hot ng ca giỏo viờn trờn lp ớt (ch yu l giỏo viờn t
chc cho hc sinh hot ng) m em li hiu qu cao.
- V phớa hc sinh cỏc em bit t khỏm phỏ nhng iu mi l trong bi hc,
theo cỏch ngh v cỏch hiu ca mỡnh mt cỏch c lp tớch cc, bit cm nhn
c nhng cỏi hay, cỏi p t nhng bi hc c th m cỏc em c hc, c

lm quen.
4. Dy thc nghim
4.1. Bi ging in t dy lp 5B - Bi 27: V tranh - ti Mụi trng
Slide 1
Slide 3
Slide 2 Slide 4
19
Thứ năm ngày 10 tháng 3 năm 2012
Mĩ thuật
Bài 27:Vẽ tranh- éề tài Môi tr ờng

Slide 5

Slide 8

Slide 6
Slide 9
Slide 7
Slide 10
20
Slide 11 Slide 14
Slide 12 Slide 15
Slide 13
I. Mục tiêu
21
- Hiểu biết thêm về môi trường, ý nghĩa của môi trường với cuộc sống và có ý
thức BVMT.
- Biết cách vẽ và vẽ được tranh có nội dung về môi trường.
Học sinh khá giỏi: Sắp xếp hình vẽ cân đối, biết chọn màu và vẽ màu phù hợp
II. Chuẩn bị

* Giáo viên
- Giáo án điện tử, máy chiếu, máy chiếu đa vật thể,
*Học sinh
- Sgk, giấy A4, màu , bút chì
III. Các hoạt động dạy – học chủ yếu
1.Kiểm tra bài cũ.
- Gv kiểm tra đồ dùng Hs.
2.Bài mới
* Giới thiệu bài
- Gv cho hs xem video và nghe bài hát Em vẽ môi trường màu xanh. (Slide 2)
+ Em hãy đoán xem hôm nay cô sẽ dạy chúng ta bài gì?
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
*HĐ1. Tìm, chọn nội dung đề tài:
- Thế nào là môi trường? (slide 3)
- GV giới thiệu ảnh về môi trường và gợi ý
để HS nhận ra: (Slide 4)
+ Không gian sống quanh ta có đồi núi, ao
hồ, kênh rạch, sông biển, cây cối, nhà
cửa,
+ Môi trường xanh-sạch - đẹp rất cần cho
cuộc sống.
- Nếu làm tổn hại đến môi trường, Gv cho
hs quan sát một số hình ảnh phá hoại môi
trường. (Slide 5)
Môi trường tác động ngược trở lại với con
người, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
(Slide 6)
- Vậy chúng ta có cần bảo vệ môi trường
không? Bảo vệ môi trường như thế nào?
+ Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của mọi

người. Có nhiều cách để bảo vệ môi trường.
(Slide 7)
- HS tự chọn nội dung để vẽ tranh, tìm tranh
vẽ đúng về đề tài môi trường. (Slide 8)
*HĐ2.Cách vẽ tranh:
HS đọc sgk thảo luận trả lời các
câu hỏi.
- Hs quan sát
- Hs trả lời câu hỏi.
22
- GV gợi ý cho HS tìm chọn các hình ảnh
chính, phụ làm rõ nội dung đề tài để vẽ
tranh. (Slide 9)
+ Bước 1: Xác định rõ đề tài, phác mảng
chính, phụ,bố cục phù hợp với trang giấy.
+ Bước 2: Vẽ các nét chính, vẽ hình bằng
nét thẳng.
+ Bước 3: Vẽ chi tiết, hình ảnh phụ cho
tranh thêm sinh động.
+ Bước 4:Vẽ màu theo ý thích.
- Gv cho học sinh nhắc lại cách vẽ tranh.
(Slide 10)
* Lưu ý HS: Không vẽ quá nhiều hình ảnh
- Gv cho hs xem một số tranh của các bạn
Hs rồi nhận xét. (Slide 11)
* HĐ3.Thực hành: (Slide 12)
- Trong khi HS vẽ GV theo dõi góp ý, gợi
mở. (Gv cho Hs nghe nhạc nhẹ)
- GV nhắc HS vẽ hình to, rõ ràng.
- Động viên, khen ngợi những em vẽ

nhanh, vẽ đẹp để tạo không khí thi đua
học trong lớp.
*HĐ4.Nhận xét, đánh giá:
- GV cùng HS chọn bài và gợi ý HS nhận
xét, đánh giá: (Slide 13)
- Trình chiếu bài của Hs trên máy chiếu đa
vật thể, cùng hs nhận xét.
- Xếp loại, khen ngợi. GV nhận xét chung
tiết học.
* Giáo dục BVMT: Qua bài các em làm gì
để bảo vệ môi trường? (Slide 14)
*Dặn dò
HS quan sát lọ, hoa, quả và chuẩn bị màu
cho bài sau (Slide 15)
- Nêu cách vẽ tranh.
- Quan sát ghi nhớ.
- Hs nhắc lại cách vẽ tranh
- Hs thực hành thi theo nhóm.
- HS thực hành.
- Nhận xét, xếp loại bài.
- Quan sát, lắng nghe.

4.2 Kết quả tiết dạy thực hiện áp dụng SKKN:
23
Bài Lớp

số
Tên bài dạy
Kết quả
Ghi chú

A
+
% A % B %
29 5B 27
Vẽ tranh Đề tài
Môi trường
13 48 14 52 0 0
Qua tiết dạy mẫu trên chứng minh một số biện pháp tôi đưa ra là hoàn toàn
đúng đắn. Kết quả thu được thật đáng khích lệ, không còn học sinh xếp loại chưa
hoàn thành nữa, mà tỷ lệ ở mức hoàn thành và hoàn thành tốt rất cao. Đạt 100%
vượt chỉ tiêu nhà trường giao.
Xếp loại tổng số học sinh qua tiết học đạt: A
+
là : 48% ; A là : 52%.
Vì vậy tôi sẽ áp dụng SKKN này vào trong việc giảng dạy của mình để chất
lượng dạy và học môn Mĩ thuật của trường Tiểu học được tốt hơn và tôi mạnh dạn
đưa ra những biện pháp này cho các bạn đồng nghiệp tham khảo và góp ý để cùng
nâng cao chất lượng dạy và học môn Mĩ thuật ở Tiểu học .
C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Bài học kinh nghiệm.
24
- Để giúp học sinh làm tốt một bài vẽ trước tiên giáo viên phải trang bị cho học
sinh những kiến thức, kỹ năng cơ bản của bài học như hình mảng, màu sắc, bố cục,
đường nét
- Nắm chắc các phân môn trong môn mĩ thuật về cách quan sát, cách vẽ cũng
như cách thực hiện.
- Đối với giáo viên phải chuẩn bị tốt về giáo án, đồ dùng trực quan.
- Trong mỗi tiết học, giáo viên cần lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy
học để luôn luôn tạo được không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi cuốn
học sinh, tránh giờ học tẻ nhạt, khô cứng.

- Có thể đưa các trò chơi hỗ trợ cho nội dung bài học khi thấy cần thiết, phù
hợp.
- Tạo mọi điều kiện để tất cả học sinh chủ động, tích cực tham gia và tham
gia có hiệu quả các hoạt động, quan tâm nhiều hơn đến các học sinh nhút nhát,
chưa tích cực hoạt động.
- Tuỳ theo nội dung của từng bài, giáo viên điều chỉnh thời gian thực hành
của học sinh cho phù hợp, không thực hiện máy móc cho tất cả các bài.
- Trong quá trình thực hiện các tiết dạy, giáo viên cần lưu ý học sinh hiểu biết
cái đẹp, cảm nhận cái đẹp làm trọng tâm, không nên đi sâu rèn luyện kĩ năng vẽ.
- Không áp đặt đòi hỏi quá cao đối với học sinh. Nên lấy động viên, khích lệ
là chính, cố gắng tìm những ưu điểm dù nhỏ nhất ở từng học sinh để kịp thời động
viên, khen ngợi.
- Phải hiểu được đặc điểm tâm lý của trẻ, hiểu biết được mức độ cảm nhận
của học sinh về thế giới xung quanh thông qua các bài học.
- Luôn tôn trọng gần gũi học sinh.
- Phải có tính kiên trì trong công tác giảng dạy, khéo léo động viên kịp thời
đối với các em.
- Việc quan trọng yêu cầu của mỗi tiết học là giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ
đồ dùng trực quan, trực quan phải đẹp, hấp dẫn để học sinh quan sát.
- Sử dụng linh hoạt trong phối hợp các đồ dùng dạy học và phương pháp dạy
học.
- Thường xuyên trao đổi để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp.
- GV Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy môn Mĩ thuật, có như vậy chất
lượng học tập mới đạt kết quả cao
Việc khơi gợi những cảm xúc, hứng thú cho các em vô cùng quan trọng
trong mỗi bài học. Nó chính là khởi nguồn cho sự sáng tạo và nó cũng là liều
thuốc kích thích giúp các em hứng thú phát huy tính tích cực sáng tạo trong học
tập và làm bài thực hành. Do vậy, GV áp dụng các PPDH đúng cách và hợp lí sẽ
đóng vai trò quyết định sự thành công của tiết dạy Mĩ thuật ở trường tiểu học.



2. Điều kiện áp dụng
25

×