Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ÔN tập NGỮ văn lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.55 KB, 23 trang )

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỨC HÒA

\
(CÁC BÀI TẬP LÀM VĂN VÀ
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI)
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
Đềâ 1 + 2
Trình bày cảm nghó của anh chò về hình ảnh chuyến tàu đêm và tâm trạng của hai đứa trẻ
Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 như một làn "gió đầu mùa" tinh
khiết, êm nhẹ. Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình người đằm thắm trong một
giọng văn tha thiết. Cái đẹp tự lan toả, "tiềm tàng trong mọi vật bình thường" khiến cho "lòng
người thêm trong sạch và phong phú hơn". Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm
hồn từ ngay những mảng đời chìm trong bóng tối. Truyện ngắn Hai đứa trẻ - câu chuyện về hai
chị em ở phố huyện nghèo - như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế giới trẻ thơ gợi lại cho
mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về thân phận con
người.
Trong văn xi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được những nét
đẹp tiềm ẩn trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn Tự lực Văn đồn, những
anh em của Thạch Lam cũng hay nói về cảnh nhà q, người nhà q nhưng đã tước đi vẻ hồn
nhiên tươi tắn chân thực của cuộc sống ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả,
đơi chút khinh miệt. Có lẽ, trong số anh em họ Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu
nặng hơn cả với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà văn, phố huyện Cẩm Giàng
(Hưng n) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến cho ơng khi viết
về hình ảnh phố huyện vẫn còn vẹn ngun những ấn tượng sâu đậm của tuổi thơ. Hai chị em
Liên và An chính là những gì Thạch Lam u mến, gắn bó thuở thiếu thời.
Người đọc khơng thể nào qn ấn tượng về một khơng gian phố huyện chuyển dần vào
bóng đêm. Những âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương tây cháy rực gieo vào
lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một phiên chợ chiều tàn, dăm đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương
vãi xung quanh chợ khơng chỉ đánh động tình thương củacơ bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn
khiến chúng ta cũng bồi hồi vì những nét thân thuộc của q hương, một "mủi riêng của đất,


của q hương này". Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra cái hồn q hương dìu
dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người phố huyện. Tất
cả những gì nhà văn mơ tả đều hết sức bình thường trong một câu chuyện khơng có cốt truyện.
Khung cảnh và những con người đều như hướng vào một chủ đích của nhà văn: khắc hoạ
những nét bình dị, lặng lẽ trong một khơng khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của
cuộc sống quẩn quanh khơng lối thốt.
Những nhân vật phố huyện: mẹ con chị Tý với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia đình bác
Xẩm từng ấy nhân vật đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện. Đó là những con người đang
lầm lũi trong cuộc mưu sinh, tâm trạng lúc nào cũng lo toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi,
khơng phải là những người khách mà chính là đang mòn mỏi hy vọng . Những cuộc đời trong
bóng tối ấy, cũng giống như khơng gian phố huyện kia, dày đặc tăm tối nhưng vẫn l lên ánh
sáng của một thế giớ khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng khơng hề lịm tắt.
Khơng phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sống phố huyện gắn với ba thời điểm nối
tiếp: hồng hơn - tối - khuya. Bóng tối càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng
càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hồng hơn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cơ
bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sống của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn
những dư vị của bóng tối. Đó là thời điểm bắt đầu những lo toan của thế giới người lớn nên
"bóng tối ngập đầy dần" đơi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những con người "đi lần vào bóng
tối", "từ từ đi vào bóng đêm" và rồi từ bóng tối mênh mơng lại hiện lên những bóng đời chập
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
2
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là "nguồn sáng" xa lạ của
những vì sao trên trời. Là những "khe sáng", "quầng sáng", "hột sáng" mong manh của những
con người cùng sống nơi phố huyện nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn
không xua tan được những ám ảnh bóng tối. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ.
Những ngày tháng êm đềm của chị em Liên khi cảnh nhà chưa sa sút. "Vùng sáng rực và lấp
lánh" của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng của Liên: "Đêm tối đối với

Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa". Đó là sự chấp nhận, là thực tế đáng buồn mà Thạch Lam
đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ. Hoàn cảnh không cho phép hai chị em Liên - An được
sống bình thường như bao đứa trẻ khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có
ánh sáng, đang cằn cỗi dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc
ẩn trước "mấy đứa trẻ con nhà nghèo", còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi đùa,
nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh nghèo dễ khiến tạo ra mặc cảm, dù cho là những
đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muốn để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên số phận
những con người nghèo khổ, bằng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của
mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong manh
nhất: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ
hàng ngày của họ"
"Một cái gì tươi sáng hơn", bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những trông
ngóng mơ hồ. Nhà văn không thể chỉ ra "con đường sáng" cho những con người nghèo khổ ấy.
Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo tưởng như những cây bút Tự lực Văn đoàn khác như Khái
Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để mong chờ một thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một
tình thương bố thí nửa vời. Ông cũng không trông chờ nhiều vào hoạt động của "Hội Ánh sáng"
do các anh em của ông tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực giác và sự nhạy
cảm của tâm hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn lên
của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng hình tượng
chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện.
Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để cho
những người bán hàng đêm như chị em Liên mong "may ra còn có một vài người mua". Nhưng
vượt lên cuộc sống thường nhật mà nỗi thất vọng lớn hơn niềm hy vọng, là sự háo hức trông
đợi chuyến tàu "mang ánh sáng của một thế giới khác đi qua" để con người không đánh mất
niềm tin vào sự sống . Vì vậy Thạch Lam đã dành những câu văn thật tinh tế để diễn tả cảm
giác đợichờ ở Liên và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở người đọc.
Không chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô bé Liên
có tự hào về chiếc chìa khoá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ làm người đọc buồn
và thương cảm cho một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà Thạch Lam làm cho người đọc yêu
mến nhân vật chính là khoảnh khắc ông giúp phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: "Liên

khẽ quạt cho em, vuốt lại mái tóc tơ ( ) Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một
con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai
Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cvảm giác mơ
hồ không hiểu". Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt ngào của tình cảm nhà văn
dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc. Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳng không
thể để tâm hồn ngập dần trong bóng tối. Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến
tàu đêm khác hẳng mọi người: Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui
vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Ánh sáng rực rỡ của con
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
3
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về tương lai, đánh thức sức sống mãnh liệt của tâm
hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà đêm nào cô cũng được sống trong
những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng mạn bao giờ cũng là cơ sở của hành động. Thạch
Lam đã đem đến một thông điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân văn của tác
phẩm: hãy tin tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như
không gian phố huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hướng về
ánh sáng. Cảm quan lãng mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn, nhưng cũng giúp cho người
đọc thêm yêu mến những con người nghèo khổ đầy hy vọng.
Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sống dậy những tình
cảm gắn bó với quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân thương. Có thể xem đó là
một khía cạnh kháccủa tâm hồn nhân ái Thạch Lam. Ông nói về những cảm nhận của hai chị
em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn kết giữa con người với mảnh đất. Dường như những
hương vị bình thường, mùi đất, mùi chợ cũng là một phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng
là sự tha thiết trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất Cẩm Giàng từng lưu dấu tuổi thơ.
Những chi tiết bình thường nhất nơi phố huyện còn lan toả cảm giác ấm áp ân tình của Thạch
Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể lãng quên và không được
phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà văn thương mến nhất.

Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng "Thạch Lam là một
người Việt Nam thành thực nhất", có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và những con người
nghèo khổ qua những trang văn thấm đượm tình người, những trang văn "rất nhiều Thạch Lam
trong đó". Độ chân cảm từ những trang văn Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc
còn bồi hồi xúc động./.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
4
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
Đềâ 1 + 2
Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam
Truyện của Thạch Lam khơng có chuyện. Truyện "Hai đứa trẻ" cũng vậy. Chỉ có hai đứa
trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trơng coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều,
hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hồng hơn, rồi đêm đến, tuy đã buồn
ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới
khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng
cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn
hồi hộp. "Hai đứa trẻ" hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất
liệu này gần với Nam Cao, Ngun Hồng, Tơ Hồi (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo),
lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hồi bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với
các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hồng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm
đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngơn ngữ của ơng có thể ví với tranh lụa chứ khơng phải sơn dầu.
Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.
Trong "Hai đứa trẻ" chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức
tranh thiên nhiên của một vùng q vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần bng xuống
"Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát " thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng
và thơ mộng. "Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn". Nhưng làng q thì đầy bóng tối, thảm hại. "Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo
ve". "Đơi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần". "Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của

ngày tàn". Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã
gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu tốt ra
từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.
Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là
cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. "Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất". Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn
của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn "rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía".
Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn "một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng
của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc q, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của
q hương này". Bức tranh phố huyện trong "Hai đứa trẻ" đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc
và hương vị như thế.
Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ,
nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi
chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, "ngày, chị đi mò cua bắt tép;
tối đến chị mới dọn cái hàng nước này ". Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt
trắng để ở trước mặt". Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên
với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về q vì thầy Liên
mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười "khanh khách" lảo đảo đi vào
bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất
cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mơng, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác
Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ
nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà
thơi. "Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí". Hình ảnh ngọn
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
5
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần
trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay

lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.
Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại.
Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền,
rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải
chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi
vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói
những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão "chừng ấy người trong
bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ".
Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang
sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy
cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì
khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến
tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với
Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.
"Hai đứa trẻ" của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai
cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn
mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông
phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần
của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm
niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn
quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con
người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi
cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
6
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
Đềâ 3
Phân tích nhân vật Huấn Cao

Nguyễn Tn, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay
quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như "chiếc ấm đất",
"chén trà sương"… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là
Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù.
Nhà văn Nguyễn Tn đã lấy ngun mẫu hình tượng của Cao Bá Qt vớI văn chương
"vơ tiền Hán", còn nhân cách thì "một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai" làm nguồn cảm hứng sang
tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nơng dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn
Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái
cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người
biết q trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết
khơng chỉ là kí hiệu ngơn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao
"vng lắm" cho thấy ơng có khí phách hiên ngang, tung hồnh bốn bể. Cái tài viết chữ của ơng
được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và
q đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến "mất ăn mất ngủ"; khơng nề
hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, "một báu vật trên đời". Chữ là vật báu
trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một khơng
hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao
đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ơng là con người tài tâm vẹn
tồn.
Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ơng theo học
đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung qn một cách mù qng. Nhưng ơng đã khơng
trung qn mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội "đại nghịch", chịu án tử hình.
Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ơng thương cho nhân dân vơ tội nghèo khổ, lầm
than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống
trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân "thấp cổ bé họng". Nếu như Huấn Cao phục tùng
cho bọn phong kiến kia thì ơng sẽ được hưởng vinh hoa phú q. Nhưng khơng, ơng Huấn đã
lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vơ tội. Cuộc
đấu tranh khơng thành cơng ơng bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ

ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi
võ, ơng có tài "bẻ khố, vượt ngục" chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ tồn tài, quả là
một con người hiếm có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án.
Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng "sa cơ lỡ vận" nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí
phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ơng Huấn vẫn hồn tồn tự
do bằng hành động "dỡ cái gơng nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái" và "lãnh
đạm" khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải. Dưới mắt ơng, bọn kia chỉ là "một lũ tiểu
nhân thị oai". Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ơng vẫn tỏ ra "khinh
bạc". Ơng đứng đầu goong, ơng vẫn mang hình dáng của một vị chủ sối, một vị lãnh đạo.
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
7
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật
đáng khâm phục !
Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên "ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong
hứng bình sinh". Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì
thì ông trả lời:
"Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi"
Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên
ngang, kiên cường; "đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là " Ông không thèm đếm xỉa
đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong
xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn "cặn bã" của xã hội.
"Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng
như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có "thiên lương" , bản chất tốt
đẹp của con người mới là đáng quý.
Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời
cho chữ mà còn thốt ra rằng :

"Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản
đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên
hạ".
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì "tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc
hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ".
Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái
tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.
Quay cảnh "cho chữ" diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng "xưa nay chưa từng có". Kẻ tử từ
"cổ đeo gông, chân vướng xích" đang "đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh" với
tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ
cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm
đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần
trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân
cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.
Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam
giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
"Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ
được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện".
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng
thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.
Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người
anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã
nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên
đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng
Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan
bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái "tài" và cái "tâm". Trong cái "tài" có cái "tâm" và cái
"tâm" ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn
song song "tâm" và "tài" thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH

NĂM HỌC: 2013-2014
8
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung
nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng
nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
9
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
Đềâ 4
Vì sao nói cảnh cho chữ trong "Chữ người tử tù" là cảnh tượng xưa nay chưa từng có
“Chữ người tử tù” là ánh sáng lung linh nhất, ngời chói nhất, đa màu sắc nhất để tơ điểm
cho tuyệt tác “Vang bóng một thời”.
"Chữ người tử tù” đã thể hiện một bút pháp thật sắc sảo với từng câu văn, nét chữ như chất
chứa cả đai dương ý nghĩa cuồn cuộn dâng trào của nhà văn Ngun Tn.
“Chữ người tử tù” thật sự đi vào lòng người khi Nguyễn Tn đã biết tạo dựng một nhân
vật điển hình. Đặc biệt là ơng đã tạo dựng cảnh Huấn Cao cho chữ “một cảnh tượng xưa nay
chưa từng có”.
Vì sao Nguyễn Tn lại nói cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”? Ngun do thật đơn giản, đó là các bậc nho sĩ ngày xưa “tao nhân mặc khách”, ”bụng
đựng đầy chữ thánh hiền” khi viết chữ hoặc cho chữ phải ở những nơi trăng thanh gió mát, hoa
hương ngào ngạt, ly rượu nồng nàn chếnh chống hơi men… Có như thế thì viết chữ mới hay,
cho chữ mới đáng được thưởng thức và mới đạt đến trình độ thẩm mỹ tuyệt vời. Nhưng ở đây
Huấn Cao cho chữ quản ngục lại vào một phòng giam tối mịt "tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất
bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
“Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ấy đã diễn ra vào đêm hơm khuya khoắt, ngay tại
nhà tù. Cảnh đêm bng xuống khơng gian bốn bề chỉ còn văng vẳng tiếng mõ trên vọng canh.

Ngồi nhà tù đã tối thì bước chân vào nhà tù kín mít hẳn phải “sẫm đen hơn nữa”.
Theo viên quản ngục và thầy thơ lại vào phòng gian có một bó đuốc sáng rực lan tỏa khắp
bốn bề. Và khơng khí lúc đó mới “tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực” , rồi “lửa đóm cháy
rừng rực, lửa rụng xuống phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”. Khơng phải ngẫu nhiên nhà
văn Ngun Tn lại nhắc đến bó đuốc “sáng rực” đó đến hai lần, rõ ràng đó là dụng ý nghệ
thuật cũng như Bác Hồ viết “Phương đơng màu trắng chuyển sang hồng” vậy.
Chính bởi vì thế mà sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng
tối qnh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng khơng, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn
ngời tỏ, sáng rực, chứ khơng như ánh sáng leo lét, buồn rầu của mẹ con chị Tý và ánh sáng rực
tỏa, chói lọi như đồn tàu rồi lại chìm vào hư khơng của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa
trẻ” của Thạch Lam. Song xét sau xa hơn thì ánh sáng đó khơng chỉ đơn thuần mang ý nghĩa
sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương
tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo
lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa
cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ
những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện Sự chiến
thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương.
Bản hùng ca chữ tâm đó sẽ ngời tỏ và sáng lạn hơn nữa khi nó đi liền với cái tài hoa, cái
đẹp lại làm mờ nhạt đi sự nhơ bẩn, sự phàm tục.
Ở đây, sự nhơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: ”một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,tường
đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Một cái buồng giam thật kinh sợ
chẳng khác gì chi một chuồng trâu của nhà nơng! Phân gián, mạng nhện, tổ rệp lại cộng thêm
ẩm ướt, chật hẹp thì đẩy sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Sự nhem nhuốc, sự phàm tục
này tưởng chừng như mãi mãi tồn tại. Song với sự xuất hiện của phiếm lụa, của lọ mực đã xua
tan đi mùi ơ uế. Phiến lụa, mùi mực là biểu tượng cái đẹp, cái thơm tho. Cho nên, phân gián,
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
10
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1

phân chuột cùng với không khí chật hẹp, nền nhà ẩm ướt dần dần mất đi, bởi “cái đẹp là địa hạt
của sự sống”, “cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con
người”, cái đẹp là mục đích mà con người ta muốn vươn lên. Màu trắng của phiến lụa là tâm
hồn cao khiết của con người; mùi thơm của lọ mực là mùi thơm của tình người, tình đời. Màu
trắng ấy, mùi thơm ấy hội tụ lại thành biểu tượng của cái đẹp, cái thiên lương.
Trong cảnh cho chữ này người ta để ý nhiều tới người tù Huấn Cao “chọc trời, quấy
nước”, nay đã sa cơ, lỡ vận. Nhưng không thể không để ý tới viên quản ngục và thầy thơ lại, đó
là hai con người mới “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” biết coi trọng cái đức, mến mộ cái tài,
nhất là tài viết chữ của Huấn Cao. Quản ngục và thầy thơ lại có thể coi đó là tâm hồn của nhà
văn Nguyễn Tuân đang sùng kính cái đẹp, đang khát khao cái đẹp. Huấn Cao, quản ngục, thầy
thơ lại là ba điểm sáng tạc nên một tượng đài, trong đó Huấn Cao là trung tâm: “ba cái đầu
người đang chăm chú nhìn trên tấm lụa bạch”. Ba con người có ba địa vị xã hội khác nhau, giờ
đây họ đang muốn điểm màu, tô son cho cái đẹp lên ngôi thay thế sự phàm tục, nhơ nhuốc bẩn
thỉu.
Cái đẹp, cái cao thượng và sự phàm tục, nhơ nhuốc, hai cái đó đối lập nhau trong một hoàn
cảnh. Nguyễn Tuân đã cùng thủ thỉ ném cùng một lúc hai cái đó vào nhà giam tạo ra sự mâu
thuẫn cực độ. Từ đó làm bật lên bản chất cái đẹp, cái cao thượng. Nhất là Huấn Cao chỉ ngày
mai thôi sẽ bị giải về kinh, rồi phải bước lên đoạn đầu đài, nhưng ông vẫn ung dung lắm, vẫn
nghệ sĩ lắm. Ông nhận xét về mùi hương của thoi mực đúng là của một con người “bần tiện bất
năng duy, uy vũ bất năng khuất”: ”Thoi mực thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi
thơm của lọ mực bốc lên không?”… Ôi cái mùi thơm của thoi mực ấy nó ngào ngạt lan tỏa như
“Dạ lan thơm nức lạ lùng – Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương”. Đó là mùi thơm danh
tiếng của Huấn Cao vẫn còn ngào ngạt đến muôn đời. Nhà tù ở đây đã không còn là nhà tù nữa
mà nó đã trở thành nơi chứa đựng mùi thơm tho của thiên lương con người.
Trước cái đẹp đang lên ngôi thì Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đập đập
tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng”, đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ
của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong
lao - Tinh thần ở ngoài lao”. Cái chết đang tiến lại gần, nhưng người tù Huấn Cao vẫn nói về sự
sống, hướng về cái đẹp, cái thiện của đời. Do đó nhà tù chỉ còn là để cho Huấn Cao thể hiện
thêm khí phách của một người anh hùng mà thôi. Cũng chính vì thế mà người tù ở đây đã hóa

thành chủ, còn bọn quản lý nhà ngục lại hóa ra tôi tớ trung thành của người tù. Người tù ấy đã
ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản
lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: ”viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Những
chi tiết đó, những hình ảnh đó tưởng chừng như không có trong nhà tù, nhưng thực ra nó lại
diễn ra theo lô gic đích thực của những người biết tôn thờ, biết kính trọng cái đẹp “hàng hàng
gấm thêu”, “lời lời châu ngọc”, cái phí phách “chọc trời, quấy nước” cái bản chất thiên lương
mà Huấn Cao đã đem lại.
Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương.
Cái đẹp, cái thiên lương bỗng nhiên trở nên thiêng liêng tuyệt đối, bởi “cái đẹp cảu tâm hồn
mới làm cho con người ta kính trọng”. Chính vì vậy, mọi thứ nhem nhuốc, đen tối, cường
quyền đã hóa thành những thứ bủn xỉn, chập choạng rơi xuống bùn sâu.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên
lương cảu con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
11
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão
tung hoành của một đời con người”. Cái hoài bão tung hoành của một đời con người: “chọc
trời, khuấy nước”, “Năm năm hùng bá một phương Hải Tần”, “Trong hang tối mắt thần khi đã
quắc – Là khiến cho mọi vật đều im hơi” của Huấn Cao với tấm lụa trắng trẻo, nét chữ tươi tắn,
vuông vắn thì chốn ngục tù bẩn thỉu này làm sao xứng đáng để treo một đôi câu đối về bản chất
thiên lương của con người quý như báu vật ấy. Và hơn nữa, Huấn Cao cũng khẳng định rằng:
cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái
ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời
lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản
ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng
làm cho nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”

đúng là câu nói của một con người có văn hóa và biết tôn sùng cái đẹp. Cái vái của quản ngục
cũng là cái vái của Nguyễn Tuân trước cái tâm, cái đẹp, cái tài danh mà ông tôn sùng. Cái vái
ấy thật giống với cái vái của Cao Chu Thần trước vẻ đẹp của hoa mai:
“Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”
(một đời chỉ biết cúi lạy trước vẻ đẹp của hoa mai).
Cảnh Huấn Cao cho chữ được Nguyễn Tuân khắc họa đạm nét. Ở đây không phải là cảnh
cho chữ bình thường nữa, mà đó đã trở thành cảnh thọ giáo thiêng liêng của người cho chữ và
người nhận chữ. Lời khuyên dạy của Huấn Cao chắc khác chi một chúc thư về lẽ sống cảu đời
người trước khi ông đi vào cõi bất tử. Với lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức mạnh mãnh
liệt cảm hóa tâm hồn con người bấy lâu đã cam chịu nô lệ nay nhận ra trở về với thiên lương.
Tóm lại, cái phí phách tinh thần bất khuất đã chiến thắng một cách vang dội trước thái
độ cam chịu nô lệ.
Với bút pháp lãng mạn, nghệ thuật đối lập đòn bẩy và cách xây dựng nhân vật đầy cá tính
đi đôi với cách tạo cảnh hấp dẫn được nhà văn Nguyễn Tuân triệt để khai thác trong toàn bộ
truyện ngắn “Chữ người tử tù” cũng như cảnh Huấn Cao cho chữ ở cuối truyện. Với bút pháp
ấy, nghệ thuật ấy nhà văn muốn ca ngợi cái đẹp, cái cao thượng, cái phí phách đường hoàng của
tinh thần bất khuất cùng với lương tâm trong sáng của con người.Những vẻ đẹp ấy xứng đáng
là những tia sáng cho muôn đời soi vào mà noi theo. Mọi người chúng ta hãy hướng về tia sáng
đó thì nhất định bóng tối sẽ ngả về phía sau.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
12
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
Đềâ 5
Phân tích nhân vật Chí Phèo
Bài 1
Trong đề tài viết về người nơng dân,Nam Cao là người đến muộn, trước đó đã sừng sững
những Nguyễn Cơng Hoan, Ngơ Tất Tố.Nhưng với một cảm quan hiện thực sắc sảo,với một
tấm lòng nhân đạo cao đẹp và tài năng nghệ thuật độc đáo, Nam Cao đã vượt qua những thử

thách ấy và để lại cho đời những áng văn bất hủ. Viết về đề tài nơng thơn và người nơng dân,
ngòi bút Nam Cao đã đi sâu vào những xác xơ nghèo đói cùng thân phận bi kịch của những con
người dưới đáy xã hội. Từ những trang viết của Nam Cao, hiện lên hình ảnh nơng thơn Việt
Nam những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa tiêu điều, heo hút. Trong xã hội đó giai cấp
thống trị tác oai, tác qi và những người nơng dân bị đẩy vào ngõ cụt khơng lối thốt. Truyện
ngắn Chí Phèo tiêu biểu cho các đặc điểm đó trong những sáng tác của nam cao. Nhân vật Chí
Phèo đã trở thành một hình tượng nghệ thuật bất hủ khơng chỉ trong nền văn học dân tộc mà cả
trong nền văn học nhân loại của thế kỉ XX.
Chí Phèo sinh ra trong đói nghèo,cơ độc, tủi nhục. Chết đi cũng trong tủi nhục,cơ độc và
đói nghèo. Trong làng Vũ Đại,Chí Phèo là một thằng cùng hơn cả dân cùng: khơng cha, khơng
mẹ, khơng nhà cửa, khơng thân thích họ hàng. Cả cuộc đới hắn chưa bao giờ được chăm sóc
bởi bàn tay của một người đàn bà. Người nhặt hắn về là một anh đi thả ống lươn, ni hắn là
một bác phó cối khơng con. Đến nỗi ước mong chung sống với một người đàn bà xấu ma chê
quỷ hờn như Thị Nở cũng khơng được chấp nhận.
Mở đầu tác phẩm, Chí Phèo xuất hiện với những tiếng chửi. Chí chứi trời tức là đối lập với
tạo hóa, Chí chửi đời tức là đối lập với cả xã hội. Đau đớn hơn, Chí "nghiến răng vào mà chửi
cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo", điều ấy có nghĩa là Chí đối lập với chính nguồn gốc
của mình. Trong tiếng chửi ấy, hiện lên một con người cơ độc tuyệt đối. Giữa lúc đó, tiếng chó
sủa xuất hiện, dường như Chí chỉ còn mối liên hệ với lồi vật. Trong khơng khí vắng lặng của
làng Vũ Đại, chốc chốc lại vang lên tiếng chửi của Chí Phèo, tiếng chó sủa đáp lại và thỉnh
thoảng lại ồn lên tiếng gào thét rạch mặt ăn vạ rồi sau đó tất cả lại rơi vào tõm vào im lặng. Như
thế Chí Phèo sinh ra để mà bị người ta khinh rẻ, bị quăng khỏi cuộ sống chỉ trơng mong vào
lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Rồi Chì tồn tại cũng trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người.
Khơng có gì đau xót hơn khi Chí Phèo chết mà người ta mừng. Quả thật số phận khốn khổ ấy
của Chí Phèo là số phận của lớp người dưới đáy xã hội.
Hình tượng Chí Phèo vơ cùng độc đáo nhưng khơng phải là ngẫu nhiên và cá biệt. Thơng
qua hình tượng nhân vật này, Nam Cao đã khái qt lên quy luật hủy hoại con người ghê gớm
của xã hội cũ. Con quỷ dữ này cũng từng có một thời là người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi
bơ vơ, hết đi ở nhà này lại đến ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên, làm canh điền cho Lý Kiến,
Chí Phèo sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nơng Việt Nam trước Cách mạng.

Anh nơng dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị. Tuy còn trẻ
nhưng anh đã phân biệt được tình u chân chính với thói dâm dục xấu xa. Thế nhưng bản chất
trong sáng, lương thiện của người nơng dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực
dân hợp sức bóp chết.
Trở về làng trần trụi giữa bầy sói, Chí Phèo khơng thể hiền lành mà muốn sống thì phải
cướp giật, ăn vạ, phải đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải có gan. Những thứ ấy Chí Phèo
tìm ở rượu. Rồi Chí ln say, mà đã say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chí
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
13
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
Phèo đã gây tội ác trong khi say một cách vô ý thức. Linh hồn của y đã bán cho quỷ dữ mất rồi.
Chí Phèo là người đau khổ tủi nhục nhất trên đời. Chị Dậu của Ngô Tất Tố phải dứt ruột để bán
con nhưng chị còn có gia đình, còn có tổ ấm để mà tồn tại. Chí Phèo không có gì đành phải bán
cái nhân tính của mình để mà sống. Mà Chí lại bán rất rẻ mạt. Mỗi lần chỉ 5 hào bạc để uống
rượu mà thôi. Vì bán nhân phẩm như thế Chí Phèo đã bị tha hóa. Đáng lẽ phải đứng về hàng
ngũ những người lương thiện, thì Chí lại trơ thành mối đe dọa của họ; đáng lẽ phải đối đầu vơi
Bá Kiến thì Chí lại trở thành chỗ đầy tớ chân tay tin cậy của y.
Qua đó Nam cao đã vạch trần một quy luật đau xót, nghiệt ngã của chế độ cũ: gặp phải kẻ
thù xảo quyệt, nếu không tỉnh táo thì con người lương thiện bị biến thành đối ngược với đồng
loại của mình. Người đọc khó có thể quên cái dáng đi ngất ngưỡng, cái bộ mặt cương cương,
vằn ngang, vằn dọc và "đôi mắt gườm gườm trông gớm chết" của Chí Phèo. Cái xã hội tàn nhẫn
ấy đã hủy hoại một cách sâu sắc và toàn diện con người chí Phèo.
Sự xuất hiện của Thị Nở đã chia đôi cuộc đời Chí Phèo: Ở chặng đầu Chí bị tha hóa mà
không biết. Gặp Thị Nở rồi, Chí bắt đầu có ý thức về sự tha hóa, về việc trượt quá xa loài người
của mình. Lúc này, bi kịch tinh thần ở Chí mới xuất hiện. Cuộc gặp gỡ đã lóe sáng như một tia
chớp trong chuỗi ngày tăm tối giằng giặc của Chí Phèo. Thị Nỏ với một tình yêu thô lỗ nhưng
rất chân thành đã gợi lên bản chất con người vốn từ lâu bị vùi lấp trong lòng Chí. Từ đây mà
Chí Phèo mới biết có một người thương mình. Lần đầu tiên trong đời, Chí mới được ăn một bát

cháo hành tử tế do người khác đem cho chứ không phải vì cướp giật. Bát cháo hành ấy mang
hương thơm chân thành của tình yêu. Nó gợi lại bao ước mơ thầm kín trong Chí Phèo ngày xưa
để có một buổi sáng trong đời thật là cảm động.Nam Cao đã phát hiện ở những con người như
Chí Phèo một tâm hồn thi sỹ. Những âm thanh hết sức bình thường của cuộc đời ngày nào cũng
có, thế mà như lần đầu tiên Chí mới nghe thấy. Ước mơ trở lại với xã hội loài người của Chí lúc
này thật mộc mạc và đáng nâng niu. Thị Nở không chỉ là người yêu mà còn là con đường sống
của Chí Phèo: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!" Thị
Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể
được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện.
Nhưng cái tia chớp lóe lên thật ngắn ngủi rồi tắt ngấm. Nỗi đau xót ở chí Phèo là ước mơ
trở lại làm người không được chấp nhận. Lúc thị Nở trở mặt, ban đầu Chí không hiểu nổi vì quá
tin, vì đang say với tình yêu, say với ước mơ trở lại làm người. Khi hiểu ra rồi, Chí Phèo lại tìm
đến rượu, nhưng lúc này y càng uống càng tỉnh.cái phản ứng sinh lí do rượu gây ra không lấn át
nổi sự chấn động mạnh mẻ về tâm lí lúc này. Đó chính là chỗ sâu sắc nhất của ngòi bút Nam
Cao khi miêu tả nỗi đau đớn tinh thần ở con người khốn khổ này. Bề ngoài là thị Nở và bà cô từ
chối Chí Phèo nhưng thực chất là Chí Phèo đã bị cả xã hội cự tuyệt. Ai mà tin được Chí Phèo -
con người có cái lí lịch gớm ghiếc đến như vậy, con người chỉ có độc một nghề là rạch mặt ăn
vạ lại có thể thành người lương thiện được. Cái xã hội tàn nhẫn ấy đã đẩy Chí Phèo ra ngoài lề
cuộc sống, giờ đây lại chặn đứng Chí Phèo lại ngay trên ngưỡng cửa Chí Phèo trở về làm người
lương thiện, ngay khi Chí Phèo đang háo hức gia nhập lại xã hội loài người. Đó chính là bi kịch
bị cự tuyệt quyền làm người - bi kịch xót xa, đau đớn nhất của Chí Phèo.
Kết thúc tác phẩm, Chí Phèo đẫ tìm đến tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp của mình và tự kết liễu
cuộc đời. Hành động ấy là tất yếu khi con người đứng trước một tình thế tuyệt vọng. Không
muốn tiếp tục làm quỷ dữ cũng không thể làm người lương thiện, Chí Phèo chỉ còn cách tìm
đến cái chết. Vì chỉ có cái chết mới giải thoát cho Chí Phèo khỏi cái bi kịch đau đớn của đời
mình. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép nhất đối với xã hội đương thời. Đồng thời
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
14
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA

LỚP 11A1
khi thể hiện cái chết ấy, Nam Cao cũng bộc lộ phần hạn chế trong tư tưởng của mình. Đó là hạn
chế về thế giới quan của nhà văn, điều đó cũng có nghĩa bản thân nhà văn Nam Cao cũng tột
cùng bế tắc trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám.
Thông qua số phận bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên tiếng tố cáo mãnh liệt
cả guồng máy xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời đã đè nghiến, hủy hoại con người
một cách triệt để. Đồng thời qua Chí Phèo, nhà văn cũng bộc lộ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc
khi đồng cảm với bi kịch đau xót ở lớp người như Chí, khi nhìn thấy tia sáng lương thiện hồi
sinh ở nhân vật này. "Chí Phèo" xứng đáng là hình tượng văn học bất hủ, vô cùng độc đáo và
có ý nghĩa khái quát sâu rộng này./.
Bài 2
Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã
từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”.Một nhà văn muốn viết được nhân đạo
trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương.Nam
Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương , đôi mắt của lòng nhân ái. Với
cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.Trước Cách Mạng, Nam Cao
viết về hai đề tài, đè tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài
nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác
phẩm Chí Phèo.Linh hồn của câu chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả
với một tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người:Sinh ra là người nhung không được
làm người, cả đời khao khát lương thiện ,cuối cùng trỏ thành kẻ bất lương.Thông
qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút Nam Cao
bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả.
Người ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương,bi đát nào đó,
điều này không chính xác.Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính,
cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhung không có điều kiện thực hiên trên
thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cuc của một thảm kịch. Bi
kịch là cuộc đáu trhắn dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh
sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa.Trong
cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã

hội đấu trhắn với nhau, trái lai nó là lực lưọng tinh thần trong đời sống tâm hồn của
một con người , ví như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn
Nam Cao, cả đời hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương , sinh
ra là người nhưng không dược làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về
lương thiện.
Cuộc đời con người là một chuỗi vân đọng liên hoàn mà chúng ta không thể
phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình thành bởi
những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh lớn,bản chất con
người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
15
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.”
Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi đươc chia làm hai chặng đường:
chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau khi ra tù.
Lai lịch Chí Phèo đươc mỏ ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt,
đượcbọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống
lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương.Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi
những con người nghèo khổ,Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá
mù cho đến ông Phó Cối.Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ
hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến,
Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu.Cũng như
biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống
bình dị bởi mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở
đây,Chí Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ
dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.Mơ ước
ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn
gọi hắn là người “lành như cục đất”.Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng

và trọng dhắn dự.Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một lần bị bà Ba Kiến gọi
lên bóp chân,Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ .Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi
đau còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức đượcđâu là tình yêu chân chính, đâu là thói
dâm ô. Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.
Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thẻ khẳng định hắn là một người nông dân thuần
hậu, là người trong sáng và trọng dhắn dự nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo
sống yên ổn với bản tính nông dân thuần hậu của hắn.Chí Phèo đang sống trong cái
xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi- Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”,
trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những ngời hiền
lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.Vì một cơn ghen bóng gió,Chí
Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên
cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay.Bắt đầu từ đây, Chí Phèo
chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác.Nhân đây cũng phải nói qua
cái nhà tù, đây là nhà tù thực dân, đồng loã với lão Bá tha hoá Chí Phèo.Nhà tù này
có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người
đang mong đợi.Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn lành như cục đát, vào
nhào năn, đào tạo đến khi thánh con quỉ dữ thì thả họ ra.Nhà tù này tiếp tay cho lão
Bá tha hoá Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí “lành như cục đất” giờ đây ra tù…
hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của CChí Phèo lúc ra tù:”Caí đầu cạo trọc lốc,
cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm,
ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng phượng, có cả một ông tướng cầm
chuỳ.Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
16
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là một
Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân chất là
thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Đây là bi kịch đầu tiên của Chí Phèo bởi bi kịch là khát vọng chân chính, mãnh
liệt của một con người nhưng không có điều kiện thục hiện trên thực tế , Chí Phèo
cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đay thành kẻ bất lương mất rồi, thành con
quỷ dũ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức buồn cười, phải
chăng đằng sau sự lãm nhãm của hắn là tiếng kêu gào tuyệt vọng của sự thèm khát
được giao tiếp với đồng loại. Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng
khiếp của 1 con người bị xh ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có
nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quhắn hắn là
sự im lặng đáng sợ, hắn chửi rồi lại nghe: “ chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say
rượu”. Hắn đã bị từ chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là
kẻ l/mhắn, nát rượu. Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái gđ nho nhỏ, chồng cày
thuê cuốc mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao
động chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai
cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn muốn sống trong cái Làng
Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt người không thắn” thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ,
muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ chìm,
như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xh đã vằm nát bộ mặt
người của hắn để hắn không còn được coi là c/người nữa “ai cũng tránh mỗi lần hắn
đi qua”
Trong cơn say rượu, Chí đã gặp TNở và họ đã ăn năm với nhau …. Sau khi
tỉnh cơn say, hắn nhận được sự t/yêu c/sóc của TNở làm cho trong sâu xa t/hồn hắn
lay động 1 tia chớp lóe sáng trong c/đ t/tăm dài dằn dặt của hắn và hắn nhận ra
được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà
người ta k/thể liều lỉnh được nữa, bấy giờ mới nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự
trơ trọi của chính mình. Đó những ân hận khi CP hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều
tội lỗi, khốn nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên
nào biết gì! TY của TNở làm cho hắn “bổng thèm lương thiện”, b/cháo hành đã đưa
Chí rẽ vào bước ngoặc mới, b/cháo hành là biểu tượng của sự cảm thông y/t giữa
những c/người cùng cảnh ngộ, nó mãi mãi đi vào c/s văn chương với tư cách là biểu
tượng của CN nhân đạo. Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn

1 thứ ngon như thế. Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật.
lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đ/bà nên con quỹ
dữ đã mềm ra thành từng giọt nước mắt. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe
được tiếng chim hót b/sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chày đuổi cá trên
sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm. Cái đẹp của tự nhiên, c/đẹp
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
17
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
của l/đ chứa chan tình người, tất cả thật đ/sơ nhưng cũng thật gần gủi thân thiết,
những âm thhắn này ngày nào cũng có nhưng đây là l/đầu tiên chí cảm nhận được.
Giọt nước mắt của chí cùng những âm thhắn b/sáng đã làm nên 1 CP khác hẳn, có
nghĩa là hắn chắn điền l/thiện năm nào đã sống lại. Đây là lần đ/tiên Chí tỉnh và lần
đ/tiên nhận thức được t/lỗi, sự ân hận muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi
nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao”
Chí m/muốn được mọi người bỏ qua cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm loại từ đầu,
niềm khát khao mới người làm sao!.
TY của TNở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại làm người,
nhưng thật trớ trêu, bà cô TNở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà không cho cháu bà “đi
lấy 1 thằng ăn vạ”. Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng VĐ, linh
hồn của Chí vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. K/vọng của Chí đã bị đã bị
xh từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xh quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ dữ, k/thể
chấp nhận một CP hiện lên với tư thế con người.
Sự từ chối của xh đầy định kiến, xh không độ lượng bao dung đón đứa con lạc loài
trở về v/tay cộng đồng, hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để l/chọn: “hoặc sống
làm q/dữ hoặc chết để k/định g/trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để
đi, khi g/trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch
thân phận con người không được quyền làm người.
Sự từ chối của TNở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn đã

uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình “hắn ôm
mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say Hắn xách dao ra đi, hắn lãm nhãm đến nhà Tnở
để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình trạng tuyệt vọng cho
đời mình”. Thực trạng nnày đòi hỏi chúng ta phải x/đ Chí say hay tỉnh? Nếu bảo
hắn tỉnh thì k/thuyết phục vì ý thức của hắn không còn k/năng điều khiển hành vi,
bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể biết đòi l/thiện “tao
muốn làm người l/thiện” và biết rất rõ không ai cho hắn l/thiện, nghịch lý này là
rượu đã làm cho thế giới t/thần hắn mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu k/thể làm
tê liệt được là ý thức làm người, cho nên hđ đòi l/thiện là vô cùng tỉnh táo vì vậy
Chí đã giết BK và tự hủy diệt mình.
Cái kết thúc thật rùng rợn vì máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã
được trừng trị và g/trị làm người được khẳng định. Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP
say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP
đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức
nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong
bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành
động lưu mhắn mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc
sống.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
18
TRƯỜNG THPT ĐỨC HÒA
LỚP 11A1
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã
hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy hiện
ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi tiết ấy
muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi,Thị Nở lại bụng mang dạ chửa
vượt cạn giữa đồng không mông quạnh,giữa con mắt thờ ơ của người dân làng Vũ
Đại,lai một Chí Phèo con xuất hiện. Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải
là bi kịch của một con người mà là bi kịch của người nông dân tồn tai trong lòng

nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai
cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
19
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Đềâ 1
Tác dụng của việc đọc sách
Bạn có bao giờ thấy ngại ngùng khi đứng trước đám đơng? Bạn có bao giờ run lẩy bẩy
khơng biết diễn đạt được ý của mình như thế nào trước mọi người? Bạn có bao giờ nói vòng vo
1 vấn đề mà cố gắng giải thích mà mọi người khác vẫn khơng sao hiểu nổi? Vậy điều trước tiên
bạn hãy đọc thật nhiều sách nha.Đọc nhiều sách sẽ giúp tăng cường khả năng giao tiếp của bạn
đó. Đọc sách thực chất là một q trình giao tiếp, khi đó tác giả quyển sách và bạn là những
nhân vật tham gia giao tiếp. Chỉ có điều q trình giao tiếp này diễn ra 1 chiều, những vấn đề
tác giả nói đến đi sâu vào trí não và hình thành tư duy ở bạn thế nhưng những suy nghĩ của bạn
tác giả khơng hề biết được nếu bạn khơng viết thư hay gọi điện thoại phản hồi. Q trình giao
tiếp này giúp các bạn hiểu vấn đề, biết cách trình bày vấn đề theo chiều hướng triển khai hay
khái qt hợp lý, cách lý luận hay dùng dẫn chứng chứng minh cho một luận điểm nào đó. Đọc
sách một thời gian lâu, bạn sẽ biết trình bày vấn đề một cách khúc chiết, mạch lạc, sng sẻ, có
đầu có đũa gọn gàng dễ hiểu.Đọc sách còn giúp rèn luyện năng lực tưởng tượng, liên tưởng,
sáng tạo: Sách được viết bằng hệ thống ngơn ngữ, cụ thể là các chữ viết được nối kết liên tục
với nhau tạo thành câu, dòng, đoạn, bài… Từ ngữ được dùng ln có nghĩa, và nét nghĩa đó lại
được quy chiếu vào các sự vật tương ứng trong cuộc sống. Thí dụ nói đến ‘tĩnh vật’ chúng ta
nghĩ đến một loạt các đồ dùng hay cây trái được đặt trong trạng thái n tĩnh, nói đến ‘quỹ đạo’
chúng ta nghĩ đến tập hợp những điểm tạo nên một con đường khép kín dành cho sự chuyển
động của một thực thể nào đó, hoặc nói đến ‘hoa mai’ chúng ta nghĩ đến loại hoa nhiều cánh,
nở vào mùa xn, đẹp và mọi người thích thưởng thức… Như vậy, q trình đọc sách thực chất
cũng là một q trình quan sát các sự vật và hiện tượng trong cuộc sống thực mà chữ viết được

quy ước tượng trưng thơng qua q trình tưởng tượng, liên tưởng.Đọc sách giúp rèn luyện năng
lực ngơn ngữ. Bạn thường viết sai chính tả và rất ngại viết vì sợ mọi người chọc. Bạn hay viết
những câu khơng đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc những câu cụtttt, câu qèèè khơng đủ các
thành phần chính. Cũng có thể bạn sử dụng những từ ngữ khơng hợp với đối tượng bạn muốn
đề cập. Hoặc bạn có vốn từ vựng q ít, khơng đủ để huy động ra trình bày sáng tỏ một vấn đề.
Thậm chí bạn khơng hiểu rất nhiều từ ngữ trong tiếng Việt có nghĩa là gì vì bạn chưa hề nghe
qua…Đọc sách giúp sống tốt trong xã hội và làm người: Đọc sách và sống tốt là hai việc xem ra
chẳng ăn nhập gì với nhau nhưng thực chất có sự tác động qua lại rất lớn. Ai cũng biết, người
biết suy nghĩ phải trái, biết lý lẽ là những người khơng sống tùy tiện. Mọi lời nói, suy nghĩ và
việc làm của họ ln hướng tới cái hay, cái đẹp; hướng tới lợi ích bản thân trong mối quan hệ
với lợi ích chung của những người xung quanh. Cách sống đó là món trang sức q giá nhất mà
mỗi người tự trang bị cho mình thơng qua học vấn, cụ thể là từ việc đọc sách. Và còn rất nhiều
tác dụng nữa các bạn ạ.Hãy cầm trên tay một cuốn sách và bắt đầu đọc nó mỗi ngày các bạn
nha!
Đềâ 2
Tiền mua được tất cả trừ hạnh phúc
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
20
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
Tiền là mảnh giấy do người in ra,là phương tiện giúp người dung hòa,cân đối và tăng
trưởng phát triển đời sống,nó đại diện cho quyền lực,và ngay cả ý thức hệ của kẽ mạnh.Bản
thân thì kỳ diệu và lợi ích,nhưng tại con người dụng nó,làm nó mang nghiệp quả thiện ác,sở dĩ
người ta phê phán nó vì nó là đại diện cho lòng tham,người ta có quyền lực và in ra nó,cai trị
bằng nó,nó làm ra đẳng cấp xã hội.làm người nghèo,người giàu,làm mất đi giá trị đạo đức,mất
tình nghĩa ngay cả cha con,anh em.tất cả do con người nếu biết làm ra nó bằng lao động chân
chính,và tiêu sài có ích cho mình và mọi người thì có gì là phê phán,tại con người bị làm nơ lệ
cho nó,để nó sai khiến vào tội ác.Hạnh phúc nó mang lại chỉ tương đối vì bao rối rắm nhân quả
ẩn tàng bên trong nó.Hạnh phúc thật sự là phúc của đức hạnh do cơng dung bón từng đồng tiền

Đạo đức,vì tiền đó đưa bạn đến sự an lạc và giải thốt.Tuy nhiên, có điều gì đó rất mâu thuẫn
về điều này. Nếu tiền bạc khơng mang lại hạnh phúc thì tại sao tất cả chính phủ các nước tại tập
trung vào việc tăng thu nhập quốc dân theo đầu người? Tại sao rất nhiều người trong chúng ta
gắng sức để kiếm nhiều tiền hơn nếu tiền bạc khơng làm chúng ta hạnh phúc hơn? Có lẽ câu trả
lời nằm ở bản chất của chúng ta là con người có mục đích. Chúng ta phải làm việc để kiếm ăn,
tìm bạn đời và ni dạy con. Tích lũy tiền đến một mức nào đó mang lại một sự bảo đảm cho
những thời kỳ khó khăn. Tiền cũng là một cách thức đo độ thành cơng của chúng ta. Và tiền là
một mục tiêu chúng ta cầu viện đến khi chúng ta chán làm bất cứ việc gì và khơng thể nghĩ ra
lý do nào khác để làm việc. Kiếm tiền khiến chúng ta phải làm gì đó để cảm thấy mình có ích
khi chúng ta khơng biết rõ tại sao chúng ta đang làm việc.
Đềâ 3
Bệnh vô cảm của thanh niên ngày nay
Ngun nhân dẫn đến căn bệnh khó chữa này bắt nguồn từ chữ “Sợ”: Sợ liên lụy, sợ
chuốc họa vào thân, sợ gặp phải phiền phức v…v… đã khiến cho mọi người xung quanh nhất là
giới trẻ hiện nay trở nên vơ cảm. Họ khơng còn quan tâm hoặc thích thú với những hoạt động,
những sự kiện trong đại, những vấn đề quan trọng của cộng đồng, của xã hội, của đất nước. Họ
tự tạo ra một cái hang để chui rúc vào đó, và tách biệt bản thân với xã hội. Vì đơn giản họ chỉ
muốn được sống cho riêng bản thân mình, cho lợi ích của mình, khơng phải lo âu về những
phiền tối của người khác.Ngun nhân thứ hai dẫn đến căn bệnh vơ cảm này chính là sự kích
động tinh thần của thế hệ trẻ khi xem phim hành động hay chơi game – trò chơi bạo lực đã làm
cho con người trở nên sắt đá, tính tình nguội lạnh , chẳng còn cảm giác hay suy nghĩ gì về
những điều xung quanh mình.v v. Các bạn có thể dễ dàng nhận thấy ngày nay khi ra đường nếu
khơng may gặp phải cướp giật mà có la thật to, thật lớn kêu cướp thì mọi người xung quanh
cũng chỉ đứng nhìn và ít khi nào có một “hiệp sĩ đường phố” đứng ra bắt cướp và giúp đỡ bạn.
Cũng có những trường hợp té xe hay tai nạn trên đường mọi người đi đường xung quanh nhìn
thấy, họ ngối đầu nhìn, họ chỉ trỏ và họ quay lưng đi. Ngay cả trên các trang mạng xã hội, khi
có một ai đó khơng may qua đời, hay những sự việc nào đó khơng vui xảy ra thì các bạn trẻ còn
sẵn sàng lập ra những fanpage đại loại như là: 1000000 like cho ca sĩ X sống lại, hay là
1000000 cho A và B quay lại với nhau? Liệu chỉ một cái nhấp chuột có thể cải tử hồn sinh, và
chỉ một cái nhấp chuột có thể hóa giải mọi thứ, biến xấu thành tốt? Tất cả chỉ vì lợi ích của bản

thân, vì kinh doanh.Khi các bạn làm điều đó tức là các bạn đang đánh mất chính bản thân mình,
vơ cảm với sự mất mát của người khác và vơ cảm với mọi thứ xung quanh. Rõ ràng bệnh vơ
cảm đã và đang gây những tác hại to lớn đối với xã hội, với nhân cách của mỗi con người vì
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
21
TRƯỜNG THPT ĐỨC HỊA
LỚP 11A1
vậy cần phải khắc phục ngay căn bệnh này. Muốn ngăn chặn, tiêu diệt hiện tượng này thì cải
cách giáo dục một cách tồn diện từ mục đích, phương pháp cho đến cách thức là điều cực kỳ
cần thiết. Chúng ta cần một nền giáo dục khơng còn những giáo điều, lý thuyết khơ khan, nặng
nề, khơng cần thiết nữa mà thay vào đó là những bài học sinh động, thực chất dể phát triển tâm
hồn, nhân cách, nhân phẩm của mỗi học sinh. Chỉ có như thế, thì vơ cảm mới có thể được giảm
thiểu ở mức thấp nhất.Hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, đừng để đến khi “cơn đại dịch” này lan
rộng ra tồn xã hội thì lúc đó e là ta đã q trễ, đừng để rồi đến một lúc nào đó, con người tiến
hóa thêm một bậc nữa, mà khi đó phần “người” hồn tồn biến mất trong họ.
Đềâ 4
Lòng yêu thương con người của thanh niên hiện nay
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Chúng ta đã đối xử thế nào với mọi người xung quanh?” hoặc
“Bạn cảm thấy thế nào nếu đối xử tốt với ai đó?”. Có thể bạn sẽ thấy vui vì “Tình thương là
hạnh phúc của con người”. “Nếu có một gia vị làm tăng thêm hơi ấm và ý nghĩa trong cuộc
sống… đó chính là tình u thương. Nếu có một tình cảm thiêng liêng giúp chúng ta vượt qua
bao khó khăn,thử thách đó chính là tình u thương”.Sự ân cần, ấm áp cảu tình thương thật
đẹp! Với tình thương đó,chúng ta có thể chia sẽ những cảm xúc và thấu hiểu lẫn nhau. Tình u
thương giúp chúng ta trong lúc khó khăn bởi vì nó giúp ta kết nối ngơn ngữ trái tim. Có tình
thương chúng ta cùng sát cánh bên nhau khắp mọi nẻo đường đời. Có tình thương, chúng ta
cùng ươm mầm cho trái tim hồi bão và khát vọng. Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ:” Tình
thương là hạnh phúc của con người”.Trên thế gian này, có rất nhiều cách để định nghĩa tình
thương nhưng nhìn chung tình thương u là một cảm giác đến từ sự chân thành cảu trái tim, nó
vơ cùng đơn giản, mộc mạc, khơng mang những mưu toan, tính tốn và tình thương hiện diện

khắp mọi nơi. Hạnh phúc là cảm giác vui vẻ, sung sướng hay đơn giản chỉ là sự thanh tịnh
trong tâm hồn. Chính vì mà tình thương u và hạnh phúc ln tồn tại trong nhau.Xã hội ngày
nay ln bận rộn trong guồng máy cơng việc, con ngừoi ln phải chạy đua với thời gian,
nhưng khơng vì thế mà tình thương u giữa người và người bị mất đi. Ở đâu đó vẫn còn rất
nhiều những tấm lòng chan chứa u thương ln rộng mở. Có rất nhiều bạn học sinh, sinh viên
tham gia các chiến dịch “Mùa hè xanh”, "Hoa phượng đỏ" để giúp đỡ những người kém may
mắn.Các bạn khơng quản khó khăn để mang con chữ đến cho các bạn vùng sâu vùng xa.Hay
như bản thân chúng ta, khi trung thu đến ta vẫn thường qun góp lồng đèn giúp các em nhỏ
vui tết Trung thu. Tất cả những điều đó đã phần nào chứng minh cho tình u ln hiện hữu ở
tất cả mọi nơi. mặt khác tình thương còn là tấm lòng người mẹ, ngừoi cha, người ơng, người bà,
… đối với con cháu. Họ cả đời lo lắng, chăm sóc, dành những gì tốt nhất cho người thân u.
Thế đấy, sự thương u mn màu mn vẻ với mn nghìn sự thể hiện. Nó tồn tại ở khắp mọi
nơi và trong nhiều mối quan hệ từ bạn bè, gia đình đến xã hội.Thế nhưng tấm huy chưong nào
cũng có mặt trái của nó, tình u cũng vậy. Nếu chúng ta khơng đặt đúng chỗ, khơng mang đến
cho những người cần thì nó sẽ trở thành một tác nhân xấu cho gia đình và xã hội. Ví như một
người mẹ thì lúc nào cũng u thương con nhưng nếu người mẹ đó lầm tưởng rằng u thương
là cưng chiều thì sớm muộn đứa con ấy sẽ trở nên hư hỏng vì chúng cho rằng chúng là
nhất.Khơng những thế, cuộc đời mn hình vạn trạng, có người tốt cũng có kẻ xấu. Tuy xã hội
có rất nhiều người tình u thương vơ bờ đối với mọi người xung quanh nhưng cũng tồn tại
những kẻ ích kỷ.Những người đó chỉ biết cuộc sống của mình, họ khơng quan tâm đến bất cứ
ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP HỌC KỲ I – NGỮ VĂN 11 – CÁC BÀI TLV VÀ NLXH
NĂM HỌC: 2013-2014
22
TRNG THPT C HềA
LP 11A1
ai. H khụng h bit rng cuc i l tp hp ca rt nhiu s phn may mn, bt hnh. Vỡ vy
nhng s phn may mn cn dang rng vũng tay yờu thng giỳp nhng s phn bt
hnh, giỳp h vt qua khú khn ca cuc i.Trờn th gian ny, khụng cú v thn no p hn
thn mt tri, khụng cú ngn la no p hn ngn la yờu thng. Chỳng ta hóy m rng cỏnh
ca trỏi tim, m rng tm lũng yờu thng, mang tỡnh yờu n vi mi ngoi. Vỡ nh ta khụng

nhng hnh phỳc n cho mi ngi, cho chớnh mỡnh m cũn giỳp nhng ngi bt hnh hiu
rng th gii ny vn vụ cựng m ỏp tỡnh ngi.
ẹeõ 5
Tớnh trung thửùc trong hoùc taọp
Trung thc l mt c tớnh khỏ quan trng, nhng khụng trung thc hin nay li ngy cng
ph bin. c bit l lp tr hin nay, nú ó din ra quanh ta.
Trung thc la thõt tha , thanh thõt vi ban thõn minh , khụng noi dụi , khụng che giõu nhng
thoi xõu, luụn tụn trng s tht, tụn trng chõn lớ, l phi, sng ngay thng. V iu quan trng
nht th hin c tớnh trung thc ú l dng cm nhn li khi b mc khuyt im. Ngay t tui
u th, tui hc trũ, chỳng ta cn phi rốn luyn, xõy p tớnh trung thc. Khụng phi bõy gi
m t rt lõu hc sinh vn luụn cú tỡnh trng thiu trung thc. C nhỡn vo cỏc gi kim tra, cỏc
kỡ thi c, hay t hi, mỡnh ó mt ln núi di b m, thy cụ giỏo cha l rừ. y th m nhiu
bn cũn r rờ nhau, bao che cho nhau. Mụt hoc sinh trung thc luụn khụng hờ quay cop, khụng
gian lõn trong thi c, biờt thu nhõn nhng cai sai cua minh. Tớnh trung thc rt cn c chỳ
trng trong giỏo dc, cn nht l rốn luyn t khi cũn nhng ngy cp sỏch n trng, luụn
thnh thc vi bn thõn mỡnh. Ch cú nh vy v duy nht ngi ta mi khụng di trỏ vi bn
thõn mỡnh. Trung thc l ct lừi, xoay quanh nú cũn nhiu c tớnh khỏc m quan trng nht l
thỏi thng thn, tinh thn, hnh ng dng cm. Khụng cú c tớnh ny, trung thc ch nh
ca quý b du kớn. Thng thn, dng cm li phi chõn thnh, khộo lộo. Nờu khụng trung thc -
thng thn - dng cm s khụng cú tỏc dng hoc b hn ch tỏc dng. Ta nờn rỳt ra mt iu :
rốn luyn tu dng cỏc tớnh tt l rt cn nhng th hin nú trong x th cũn quan trng hn.
Cú trung thc, chỳng ta mi c mi ngi cao, tụn trng v tin yờu.
c tớnh trung thc l mt trong nhng c tớnh cn phi cú mi ngi. Nhng duy trỡ nú
thỡ tht khụng d dng. Vỡ vy chỳng ta cn phi rốn luyn ngay t khi cũn ngi trờn gh nh
trng, n khi ra i chỳng ta s nhn bit c nú l mt trong nhng iu cn thit nht
bc vo cuc sng hin i ngy nay.
CNG ễN TP HC K I NG VN 11 CC BI TLV V NLXH
NM HC: 2013-2014
23

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×