Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

TÀI LIỆU HỌC TẬP TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH



PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN



TÀI LIỆU HỌC TẬP
“TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN”
NĂM 2012






Lưu hành nội bộ
****
TP. Hồ Chí Minh, tháng 9/2012

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -2-
PHẦN I
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH “SUỐT


ĐỜI PHẤN ĐẤU CẦN, KIỆM, LIÊM,CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƢ, LÀM
NGƢỜI CÔNG BỘC TẬN TỤY, TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN, ĐỜI TƢ
TRONG SÁNG, CUỘC SỐNG GIẢN DỊ”

I. TƢ TƢỞNG, TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ
MINH SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ
TƢ, LÀM NGƢỜI CÔNG BỘC TẬN TỤY, TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN,
ĐỜI TƢ TRONG SÁNG, CUỘC SỐNG RIÊNG GIẢN DỊ
1. Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ
Hồ Chí Minh khẳng định: Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Người quan niệm: đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai
cũng có thiện, có ác trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không
tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở,
cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thường xuyên
trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong
mọi mối quan hệ của mình.
Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một Đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Chính tấm gương đạo đức trong sáng, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư là sự quy tụ đặc sắc nhất những giá trị của đạo đức cách mạng của
Người. Đặc biệt, việc Hồ Chí Minh giải thích cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
bằng thực tiễn, bằng tấm gương rèn luyện đạo đức cần mẫn hằng ngày của Người, đã
củng cố thêm giá trị những phẩm chất này, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống nhân
dân.
Theo Hồ Chí Minh, cần có nghĩa là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học tập,

trong lao động, trong chiến đấu và trong sản xuất; cần còn có nghĩa là làm việc có
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -3-
phương pháp, có khoa học và có trí tuệ. Cần mà không có trí tuệ thì đó cũng chỉ là bán
thân bất toại.
Kiệm là tiết kiệm thời gian, tiền bạc của cải vật chất và tinh thần cho nhân dân,
không lãng phí, tiêu dùng hợp lý nhằm mục đích mở rộng sản xuất và không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Liêm là liêm khiết, trong sáng, không tham của cải vật chất, không tham địa vị,
không tham sung sướng; không nịnh hót kẻ trên và cũng không thích người khác tâng
bốc mình.
Chính là luôn đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, lên án những cái xấu, cái sai trái.
Chí công vô tư là mình vì mọi người; luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ
quốc, của nhân dân lên hàng đầu; khi khó khăn thì đi trước, hưởng thụ sau; không tham
tiền tài, địa vị, danh vọng, chỉ có một mục đích cao nhất là làm sao để cuộc sống của
nhân dân no đủ, hạnh phúc, đất nước phồn vinh.
Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng,
thiên tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn
chí công vô tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Hồ Chí Minh thực hành triệt để tất cả những quan niệm đạo đức mình đưa ra,
thậm chí Người còn làm nhiều hơn, tốt hơn những gì Người nói.
Trong công việc, Hồ Chí Minh sắp xếp có kế hoạch, giờ nào việc ấy và bằng mọi
cách duy trì thời gian biểu đã vạch ra. Người thường xuyên suy nghĩ để đổi mới cách
nghĩ, cách làm, tìm tòi những biện pháp tối ưu để công việc được tiến hành nhanh
chóng, đạt hiệu quả cao nhất.

Không chỉ xây dựng kế hoạch làm việc của cá nhân, Hồ Chí Minh còn phân
công hợp lý công việc cho mọi người, để ai cũng có thể làm đúng năng lực, phát huy sở
trường, khắc phục sở đoản của mình. Đặc biệt, trong công việc và sinh hoạt đời thường,
Hồ Chí Minh luôn tôn trọng nhân cách người khác; Người biết nâng cao con người lên,
khuyến khích, động viên để con người thấy rõ giá trị đích thực của cuộc sống, có khát
vọng sống làm người mãnh liệt và có ý nghĩa. Người tin tưởng ở tính tự giác và tinh
thần trách nhiệm của mọi người, nhưng không bao giờ sao nhãng việc kiểm tra, đánh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -4-
giá công việc của từng người, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân cần cù,
sáng tạo trong công việc.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, giữ liêm khiết, trong
sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi. Người sống trung thực,
chân thành với chính mình và với người khác.
Hồ Chí Minh là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi chống lại cái ác, cái
xấu trong xã hội, trong mỗi con người, chống lại những biểu hiện tiêu cực, nhất là căn
bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước để các cơ
quan đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, đại diện cho nhân dân, Hồ Chí Minh
có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội của từng cá nhân. Người viết nhiều bài
báo giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên không được phép làm “quan cách mạng”,
phòng tránh những cám dỗ đời thường để không bị gục ngã trước những “viên đạn bọc
đường”. Người đã trực tiếp chỉ đạo xét xử những vụ án lớn; phân tích thấu tình đạt lý
những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên có
chức, có quyền. Người chỉ ra hậu quả kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức mà các hành vi
phạm tội gây ra, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào luật pháp, vào sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
2. Suốt đời vì dân, vì nƣớc, làm ngƣời công bộc tận tụy trung thành của
nhân dân
Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu nước,

văn hiến, Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý sống của cha ông:
Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ việc làm người một cách thành thật, đúng
nghĩa. Người cũng bộc lộ rất sớm một nét tính cách lớn: Sống có lý tưởng trong tâm
hồn, trung kiên trong bản chất. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thuở nhỏ Hồ Chí
Minh đã có ý thức gắn vận mệnh cá nhân mình với vận mệnh chung của đồng bào, đất
nước, luôn đau đáu một nỗi niềm: Hỏi xem non nước mất hay còn! Đấy chính là những
biểu hiện ban đầu của một nhân cách lớn, một trí thức chân chính: luôn trăn trở, đau
đớn trước nỗi nhục mất nước, đồng bào nô lệ, lầm than, suy nghĩ về những vấn đề liên
quan đến số phận con người và các giá trị làm người. Bài học đạo đức lớn nhất mà Hồ
Chí Minh để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam chính là bài học ở đời và làm người mà
nội dung và chiều sâu nhân văn của nó là yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau
khổ bị áp bức, bóc lột.
Gia đình, quê hương, đất nước đã hình thành nên một Hồ Chí Minh mang nhân
cách vĩ đại, giàu lòng yêu nước, thương dân, nhất là những người nghèo khổ, giúp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -5-
Người thấu hiểu được sức mạnh của ý chí tự cường, tinh thần tự tôn dân tộc. Hồ Chí
Minh luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả
những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán
trong con người Hồ Chí Minh. Người đi sang Pháp, sang các nước phương Tây nhằm
mục đích học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước giúp đồng bào
mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và Hồ Chí Minh đấu tranh không ngừng,
không nghỉ, thậm chí phải hy sinh bằng mọi giá giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do
cho đồng bào.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh phát biểu mục đích cuộc sống mà
Người theo đuổi là: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (30-5-1946), Hồ Chí Minh khẳng
định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh
phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội,
xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh
được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn
nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo
đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”.
Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu dân, yêu đồng bào. Không thể
nói yêu nước mà lại không thương dân, không lấy nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu
của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình. Là lãnh tụ dân tộc, là người đứng đầu
Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của cá nhân là lo cho
dân, cho nước từ việc lớn đến việc nhỏ: từ việc tìm đường cứu nước, bảo vệ, đấu tranh
thống nhất đất nước, xây dựng, phát triển mọi mặt xã hội, đến việc tương, cà, mắm,
muối để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, để mọi người đều có cơm ăn,
có áo mặc, có chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn day dứt với một suy nghĩ: Người
chưa làm tròn nghĩa vụ cách mạng với dân, với nước. Vì thế, Hồ Chí Minh từ chối mọi
danh hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, nhân dân, bạn bè quốc tế dành
riêng cho Người. Năm 1963, khi biết tin Quốc hội định trao tặng Người Huân chương
Sao vàng cao quý, Hồ Chí Minh đã phát biểu rất chân thành: “Tôi vừa nhận được một
tin tức làm cho tôi rất cảm động và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -6-
tôi Huân chương Sao vàng, Huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết
ơn Quốc hội. Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi chưa nhận Huân chương ấy. Vì sao?
Vì Huân chương là để tặng thưởng người có công huân; nhưng tôi tự xét chưa có công
huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội”. Và Người mong
muốn: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất,
Bắc – Nam xum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi

Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.
Hồ Chí Minh dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển
đất nước, làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường
quốc năm châu. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “VỀ VIỆC RIÊNG – Suốt đời tôi hết
lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ
biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Và điều mong muốn cuối cùng của Người
là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”.
Đối với Hồ Chí Minh phạm trù nhân dân là một phạm trù cao quý nhất, là một
phạm trù chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. Hồ Chí Minh đã
nhìn thấy sức mạnh của nhân dân không chỉ đơn thuần là sức mạnh chính trị mà còn là
chiều sâu của tư tưởng nhân văn: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đó là một minh chứng
điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì
binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi.
Người quan niệm cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân tộc là chân lý, và Người
xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho dân là một việc làm cao
thượng. Vì lẽ đó cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là một tấm gương mẫu mực
về gần dân, học dân, kính trọng, phục vụ nhân dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ rằng: quần
chúng nhân dân là người làm ra lịch sử, làm nên thành công của cách mạng, là người
chủ đất nước; mỗi đảng viên, cán bộ ở bất cứ cương vị nào, làm công việc gì đều phải
“vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân”.
Hồ Chí Minh là người đã hóa thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào trong nhân
dân. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để
không ngừng thực hành dân chủ cho nhân dân.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN


TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -7-
Trong hoạt động cách mạng cũng như trong cuộc sống đời thường, Hồ Chí Minh
đã nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân. Người từng nói:
Dân ta rất thông minh, biết giải quyết mọi công việc một cách nhanh chóng mà nhiều
cán bộ nghĩ mãi không ra, “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy,
nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: Phải
không ngừng học dân. Có gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân mới hiểu được
rằng: “Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ
có rất nhiều kinh nghiệm quý báu”. Vì vậy, Người khuyên cán bộ “cần tham gia tổng
kết những kinh nghiệm quý báu ấy”.
Người tâm niệm: Nhà nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân
vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Là công bộc, là đầy tớ của
dân thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm lo cho đời sống của nhân dân. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu
kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
Người còn nói “Chúng ta đã hi sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã
tranh được rồi Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì
tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà
dân được ăn no, mặc đủ”.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là
chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, nhân dân thật sự là ông chủ tối cao của chế độ
mới. Người viết: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm
chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “nước ta là
nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói” hay “Nhiệm vụ của chính quyền
dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người
chủ”. Trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ

thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong
xã hội Việt nam, nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của dân. Các cơ quan
đảng và nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công vụ cho dân.
Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: Dân là chủ và dân
làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân. Đầy tớ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -8-
là công bộc của dân, với nội hàm là vì lợi ích chung mà gánh vác việc dân, trung thành
và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Họ phải như những người lính vâng mệnh quốc
dân mà thi hành nhiệm vụ, thay mặt dân để ra quyết định, toàn tâm, toàn ý phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân. Khi bàn về mục tiêu hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng
định Đảng không có mục tiêu nào khác là đem lại lợi ích cho dân. Để thực hiện được
mục tiêu đó, Đảng phải thu phục, chinh phục được nhân dân, muốn vậy, Đảng phải làm
tròn trách nhiệm là người đầy tớ của nhân dân. Người đã viết thật sâu sắc “Người xưa
nói: quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy.
Các công việc Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh
phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi nhân
dân lên trên hết thảy”. Người nói: “Làm Chủ tịch nước mệt lắm. Trăm việc đều phải lo.
Trời mưa, trời nắng, gió bão, chưa ai lo, mình đã phải lo”. Người thấy được một triết
lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà
ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo,
nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời
nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi
cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy
sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
3. Đời tƣ trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và khiêm tốn hết mực
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hằng
ngày, đó là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và đức khiêm tốn hết mực. Người
coi khinh sự xa hoa để sống một cuộc đời trong sạch, suốt đời thực hành cần, kiệm,

liêm, chính một cách cần mẫn.
Hồ Chí Minh luôn luôn nói đi đôi với làm. Trong hành trình tìm đường cứu
nước, dù ở đâu, làm gì, Hồ Chí Minh chấp nhận mọi công việc, miễn là việc đó có lợi
cho tổ chức, cho cách mạng. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, người đứng
đầu ở vị trí cao nhất nhưng luôn trung thành, tận tụy vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân,
không mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình. Người tâm sự khi phải giữ trọng
trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào.
Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng
như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đông bào
cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -9-
nơi có non xanh, nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái
củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút
nào”một lần nữa lại được Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước kỳ họp thứ hai Quốc
hội khóa I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách
Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ
Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận. Giờ tôi tuyên bố
trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ
tham quyền cố vị, mong được thăng quan, phát tài”. Trong lời tuyên bố của Hồ Chí
Minh, chúng ta chú ý rằng Người nhấn mạnh việc đảm nhận chức vụ trong một hoàn
cảnh đất nước khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh khi “Việt Nam chưa được độc lập, chưa
được thống nhất”. Chức vụ đó là do Quốc hội (nhân dân) ủy thác thì phải gắng sức làm.
Còn khi đồng bào đã cho lui thì lại vui vẻ trở về cuộc sống của một người dân bình
thường.
Người luôn khẳng định: Sự nghiệp anh hùng cách mạng Việt Nam là của toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân ta; còn khuyết điểm thì Người nhận về mình. Hiếm có một vị
lãnh tụ nào trên thế giới đứng trước toàn dân để Tự phê bình, nhận lấy khuyết điểm của
mình và cho rằng do mình “tài hèn đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự mong
muốn của đồng bào”. Có lẽ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ duy nhất trên thế giới có nhiều
đóng góp vĩ đại cho Tổ quốc mình, nhưng khi đi vào cõi vĩnh hằng trên ngực áo không
hề có bất kỳ một tấm huân, huy chương nào.
II. YÊU CẦU RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, nêu cao tinh thần phụng
sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Điểm mấu chốt của sự khác biệt căn bản giữa đạo đức cũ và đạo đức mới, như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, là: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng
lên trời”. Đạo đức cũ là đạo đức của giai cấp tư sản, của phong kiến, đạo đức áp bức và
bóc lột. Còn đạo đức mới là đạo đức cách mạng, đạo đức hướng tới giải phóng nhân
dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, đưa lại cuộc sống ấm no, tự do cho tất cả mọi người.
Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần phải ý thức được sự nghiệp cao cả đó; đưa nhân dân từ
thân phận nô lệ trở thành người chủ nước nhà, sự nghiệp cách mạng đó là của toàn dân.
Người cán bộ, đảng viên phải thấu hiểu và thấm nhuần một cách triệt để: Trung thành
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -10-
với cách mạng chính là trung thành với sự nghiệp của nhân dân. Hồ Chí Minh nhắc
nhở, dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết,
trước hết. Cán bộ phải ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung
thành phục vụ nhân dân. Có trung thành và quyết tâm phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng
của Đảng và của dân tộc thì mới dám dũng cảm hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. Lòng
trung thành cao đẹp ấy phải được thể hiện bằng hành động thiết thực, cụ thể hàng ngày,
trong từng công việc phải biến khát vọng làm sao cho “nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được

học hành” của Hồ Chí Minh thành hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy mỗi cán bộ rằng: “Trong xã hội không có gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Người khuyên bảo cán bộ: “Việc
gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Phải hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân và tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, tổ chức
tuyên truyền, thuyết phục nhân dân, đồng thời phải lắng nghe, học tập nhân dân. Thấm
nhuần lời dạy của Người, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định:
“Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và
nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Trong chế độ chúng ta, địa vị của người dân là cao nhất, dân là chủ: “Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Một yêu cầu có tính nguyên tắc mà Hồ Chí
Minh đã đặt ra là phải xây dựng pháp luật để bảo đảm các quyền tự do dân chủ và cán
bộ phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của nhân dân, cho dù ở bất kỳ tình huống
nào cũng phải đặt lợi ích của dân lên trên hết và trước hết. Người viết: “Các bạn là viên
chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hoà mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể
Dân chủ Cộng hòa của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách,
nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai. Do đó, nhiệm vụ các bạn phải tuyệt đối
trung thành với chính quyền dân chủ”.
Cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng, với đất nước phải được thể hiện
trong công việc hàng ngày, đó là: hướng tới phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.
Bảo vệ thành quả chính đáng của cách mạng cũng có nghĩa là phải bảo vệ quyền tự do,
dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đó là đạo đức chân chính của người cách
mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.
2. Kiên quyết chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hành dân chủ.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -11-
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, tham nhũng đang làm cản
trở công cuộc kiến thiết đất nước, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất

nước, là kẻ thù nguy hiểm của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng
là để triệt diệt những cái xấu, xây dựng những cái tốt. Chúng ta làm cách mạng là tiêu
diệt triệt để chế độ thực dân, phong kiến, để xây dựng dân chủ mới. “Thực dân, phong
kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc xấu của nó (tham ô, lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì
cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm
ngầm phá hoại sự nghịêp xây dựng của cách mạng”.
Với quyết tâm đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011).Cương lĩnh chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ
ở nước ta là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Để thực hiện thành công
mục tiêu tổng quát này, Đại hội đặc biệt chú trọng đến việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí một cách có hiệu quả. Trong cuộc đấu tranh này,
cần phải: “Nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức; công khai, minh bạch
tài sản của cán bộ, công chức. Tăng cường công tác giám sát, thực hiện dân chủ, tạo cơ
chế để nhân dân giám sát các công việc có liên quan đến ngân sách, tài sản của Nhà
nước”. Rõ ràng, chống tham nhũng là một quyết tâm chính trị lớn của Đảng. Để thực
hiện quyết tâm đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tự giác “thực hiện chế độ
công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính…; thực hiện có hiệu quả việc kê khai và
công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định”. Mỗi cán bộ, công
chức, đảng viên và nhân dân phải sống và làm việc theo pháp luật; sáng tạo, kỷ cương
trong lao động; tiết kiệm trong lối sống và công việc. Muốn đạt được mục tiêu chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đề ra, ngoài việc phát huy tốt các yếu tố nội lực và ngoại lực, thực hiện triệt
để, đồng bộ các giải pháp, thì một yếu tố quan trọng và cần kíp là chống tham nhũng.
Đi liền với nạn tham nhũng là nạn lãng phí, đó cũng là một thứ giặc nội xâm.
Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí. Trong thời gian qua, do cách tổ chức quản lý chưa tốt của cán bộ nên có không ít
nơi để xảy ra tình trạng lãng phí của công đến mức phải cảnh báo. Hồ Chí Minh quan

niệm lãng phí của công tuy không lấy của công cho riêng cá nhân như tham nhũng,
song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ, có khi tai hại hơn cả tham
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -12-
nhũng và trộm cướp. Lãng phí của công điển hình là các cơ quan công quyền dùng vật
liệu, điện nước một cách phí phạm; các xí nghiệp dùng máy móc và nguyên liệu không
đúng mức; các cơ quan dùng xe vào mục đích cá nhân, không tiết kiệm xăng dầu; các
dự án đầu tư dàn trải, không hiệu quả,… Những thứ bệnh đó một phần là do hậu quả
của xã hội cũ để lại, do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ, hại dân mà ra. Điều này tất yếu sẽ dẫn
đến thâm hụt ngân sách nhà nước, làm khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cho nên nhiệm vụ
của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước là phải triệt để loại bỏ những căn
bệnh đó và tăng cường thực hành tiết kiệm; có như thế mới thực hiện được đạo đức
mới, đạo đức cách mạng, mới làm cho dân cường, nước thịnh.
Khi nói về vai trò của việc chống lãng phí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin đã từng căn dặn chúng ta là phải thông qua pháp luật để nhổ tận gốc tất cả
những hiện tượng lãng phí. Hồ Chí Minh còn lưu ý chúng ta là ngoài vai trò của pháp
luật, phải phát động tư tưởng của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tham ô,
lãng phí, để biến “hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng” thành những
ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí còn chỗ ẩn nấp,
góp phần làm cho Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách
mạng thành công.
Để làm được những điều này, dứt khoát phải chống bệnh quan liêu vì quan liêu
đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô và lãng phí. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí; nơi nào
bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô”. Vì vậy, chống tham
ô, lãng phí phải gắn với chống quan liêu và là việc làm cần thiết, thường xuyên. Bệnh
quan liêu làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta. Nó phá hoại
những phẩm chất đạo đức cách mạng mà chúng ta đang xây dựng là: Cần, kiệm, liêm,
chính. Thấy được tác hại của căn bệnh này, chúng ta cần phải quyết tâm tẩy sạch nó đi.

Cũng như: “ Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón
phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia sản
xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng
phí và bệnh quan liêu”.
Nguyên nhân sinh ra quan liêu, từ đó sinh ra tham nhũng, lãng phí là do xa dân,
xa rời cuộc sống của nhân dân; vì không tin dân; vì coi thường dân, không thương dân;
vì sợ dân. Để chữa bệnh quan liêu, cần phải gần dân, học hỏi ở dân và đặc biệt là phải
thực hành dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng của quần chúng, đi đúng đường lối
của quần chúng. Cho nên, “Phong trào chống tham ô, lãng phí,quan liêu ắt phải dựa
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -13-
vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Cũng như mọi việc khác, chúng ta phải
động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ cho dân, phải làm cho quần chúng hiểu
rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công, phải làm sao
để phát huy được tiếng nói của tất cả các tầng lớp nhân dân, phát huy dân chủ để phòng
và chống có hiệu quả tham ô, lãng phí, quan liêu.
3. Ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đưa ra quyết tâm trong nhiệm kỳ này
phải “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đại hội xác định bảy nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:
(1) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
(2) Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.
(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.
(4) Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao

thông.
(5) Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực
của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.
(6) Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối
sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).
(7) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là góp
phần thiết thực và trực tiếp thực hiện tốt cả bảy nhiệm vụ nêu trên, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh là phải thường xuyên và tự giác trong việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, lối
sống của mỗi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, theo tấm gương đạo đức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Trên tinh thần đó, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cần phải tự cảm thấy bức
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -14-
xúc, tự cảm nhận nhu cầu tự thân phải thực hiện cho chính mình, vì chính sự phát triển
của cá nhân và tập thể mình.
Một yêu cầu quan trọng nữa là tính hiệu quả phải được quan tâm đúng mức. Từ
đó, cấp ủy đảng các cấp phải đặc biệt coi trọng việc gắn nhiệm vụ này với việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng tại địa phương, đơn vị mình, nhất là xác định một số nội dung cụ thể, một số
vấn đề tư tưởng, đạo đức gây bức xúc trong ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, để tập
trung chỉ đạo giải quyết mang lại kết quả cụ thể, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Quan tâm đúng mức với vấn đề xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo
đức, đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cán bộ, đảng
viên. Từ công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai đòi hỏi tinh thần chủ động, sáng tạo của
các ngành, các cấp, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trên cơ sở yêu cầu chung, dựa trên đặc điểm, tình hình của từng địa phương,
từng đơn vị để lựa chọn lộ trình hợp lý cho từng nội dung công việc, phân công trách
nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức, từng cán bộ phụ trách để phù hợp với điều kiện
thực tiễn. Càng xây dựng kế hoạch sát hợp với thực tiễn, việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh càng đi vào cuộc sống một cách thiết thực, tránh bệnh
hình thức, qua loa, chiếu lệ, hoặc ngược lại, cầu kỳ, lãng phí.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
1. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền tƣ tƣởng “tận trung với nƣớc, tận hiếu
với dân”, nâng cao nhận thức về trách nhiệm đối với Tổ quốc, với nhân dân.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”,
không một phút ngơi nghỉ, suốt đời suy nghĩ, lo lắng, chăm lo cho nước, cho dân. Việc
đẩy mạnh công tác giáo dục và tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với
dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay sẽ khuyến khích mỗi cán bộ,
đảng viên tuyệt đối trung thành với lợi ích của đất nước, của nhân dân, đặt độc lập dân
tộc, chủ quyền và lợi ích quốc gia lên trên hết và trước hết.
Ý thức hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của mỗi người
phải được phát hiện, cổ vũ, động viên trong từng hành động nhỏ nhất, khuyến khích
mỗi người đem hết tài năng, sức lực cống hiến cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho sự
phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là người công bộc tận
tụy, trung thành của nhân dân thì mỗi cán bộ, công chức phải hoàn thành nhiệm vụ,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -15-
chức trách của mình theo đúng Luật cán bộ công chức. Biểu hiện cụ thể là: Làm tốt
những công việc hàng ngày, nhất là những việc liên quan trực tiếp tới đời sống của
người dân.
Đồng thời với việc nâng cao ý thực trách nhiệm của người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân, công tác giáo dục, tuyên truyền cần kiên quyết đấu tranh, phê

phán những quan niệm và biểu hiện sai trái. Đó là sự lầm lẫn giữa trọng trách được tổ
chức giao phó với quyền lực cá nhân. Sự lẫn lộn đó dẫn tới cơn khát quyền lực, chạy
quyền, mua quyền, bán quyền, lộng quyền, cửa quyền, tham quyền cố vị. Khi có quyền
mà thiếu lương tâm sẽ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân, đục khoét dân, “dĩ
công vi tư”. Sinh thời Bác Hồ đã cảnh báo: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi
ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân.
Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với
dân”.
2. Hiện thực hóa và quyết tâm tổ chức thực hiện là “ngƣời công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân” trong tất cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,
trong từng cơ quan, đơn vị, địa phƣơng.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm cho lòng dân không yên. Vì thế, bên cạnh việc
giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì việc quyết tâm thực hiện và làm theo
tấm gương của Bác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nói phải đi đôi với làm, lý luận phải gắn
liền với thực tiễn. Quần chúng đã chán cái lối “nói mà không làm”, “nói hay nhưng làm
dở”, “nói người nhưng mình không làm”… của một bộ phận cán bộ. Để thực sự lấy lại
được hình ảnh những cán bộ, đảng viên tận tụy, trung thnàh vì dân, một mặt, chúng ta
cần động viên, khích lệ cán bộ, đảng viên làm theo lời Bác; mặt khác, cần kiên quyết
trừng trị và loại trừ những kẻ hành dân, khinh dân, lừa đảo và ăn cắp của dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, mỗi người, dù ở cương vị nào cũng cần phải tu
dưỡng, rèn luyện về đạo đức. Người đã có nhiều lời dạy rất cụ thể về đạo đức của giai
cấp, tầng lớp, nhóm xã hội. Đến nay những lời dạy của Người vẫn còn nguyên giá trị và
cần được cụ thể hóa trong điều kiện mới. Cơ sở để vận dụng, cụ thể hóa những lời dạy
của Bác với các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội là đường lối, quan điểm, giải pháp…
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển
và cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đó là bảo đảm quyền làm chủ của
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN


TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -16-
dân “dân biếit, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực hiện đường lối quần chúng “gần
dân, học dân, gắn bó với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực hiện
được nhiệm vụ của người cán bộ “nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, đảm bảo dân
sinh, nâng cao dân trí”. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức dù làm việc ở vị
trí nào cũng đều cần quán triệt những quan điểm chung đó.
Cần cụ thể hoá thái độ tận tụy, trung thành phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân
thành các nhiệm vụ trên từng vị trí công tác, từng loại công việc. Thấm nhuần, quán
triệt sâu sắc tư tưởng và tấm gương vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ của Bác Hồ
để vận dụng, cụ thể hóa nội dung những lời dạy của Bác đối với ngành, địa phương,
giới mình trong điều kiện mới, gắn với hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị.
3. Kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức, hƣớng dẫn với động viên, kiểm tra, giám
sát việc làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hướng vào việc
nâng cao vai trò tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cần động viên, khuyến
khích, hướng dẫn mọi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự
giác đề ra chỉ tiêu phấn đấu thiết thực. Trong đợt học tập chuyên đề lần này, mỗi cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức công tác ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cán bộ
lãnh đạo chủ trì, chủ chốt, cần xây dựng kế hoạch cá nhân học tập và làm theo lời Bác
với những việc làm cụ thể, định kỳ báo cáo trước chi bộ, cơ quan, đơn vị.
Để hỗ trợ mỗi cá nhân thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, mỗi tập thể đảng, chính quyền, đoàn thể xây dựng các chương trình hành động,
giúp đỡ, giám sát và kiểm tra việc tự giác làm theo của cán bộ, đảng viên, hội viên,
đoàn viên của mình. Định kỳ yêu cầu các cá nhân báo cáo những việc đã làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
4. Phát huy vai trò nêu gƣơng trong học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức
Hồ Chí Minh.
Một trong những nguyên tắc thực hành đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
phải nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người đều phải nêu gương về

đạo đức. Ông bà nêu gương cho con cháu, cha mẹ nêu gương cho con, anh chị nêu
gương cho em, đảng viên nêu gương cho quần chúng… Phát huy vai trò nêu gương
trong thực hành đạo đức có ý nghĩa to lớn không chỉ trước mắt mà còn mãi mãi sau này.
Trong phạm vi xã hội, việc nêu gương về đạo đức của cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong tác
phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -17-
Minh đã chỉ ra câu nói rất hay và rất đúng của nhân dân là “Nhân dân thường nói: đảng
viên đi trước, làng nước theo sau”. Theo yêu cầu đó của dân, trong đảng và hệ thống
quản lý nhà nước, việc lãnh đạo đi trước, làm trước để đảng viên, quần chúng, nhân dân
đi sau, làm theo có ý nghĩa rất quan trọng. Yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản
lý là phải biết nêu gương. Không biết nêu gương, không nêu gương được thì không,
hoặc chưa xứng đáng là người lãnh đạo tốt.
Việc nêu gương về đạo đức không chỉ là sự vận động, mà phải trở thành những
quy định, sự ràng buộc trách nhiệm để mỗi người đều tự giác và cần phải thực hiện. Các
cấp, các ngành cần chủ động tổ chức thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -18-
PHẦN II
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ IV BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƢƠNG
KHÓA XI MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY

I. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó

khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh
nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức
mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong
sự nghiệp cách mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ
trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước
được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với
Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành
và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng.
Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có
sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế,
yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm
được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa
chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi
lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị
trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc
Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được
xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -19-

phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không
đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp
đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố
trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát
triển của ngành, địa phương và cả nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào
hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá
nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng
dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người
đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc
trách, trì trệ hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
3. Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan do việc thực hiện đổi mới kinh
tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động của mặt trái
cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng
và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, còn thiếu những cơ chế,
chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn ngừa những vi phạm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh
đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó
là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển.
Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến
hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá,
chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy
yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhƣng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan:
Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi
trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm,
nói không đi đôi với làm hoặc làm chiếu lệ.

Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị
buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác
kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật
thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -20-
nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố
trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng
dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút,
năng lực yếu kém.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi
còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của
cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt
không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm
minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp
chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm
túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.
4. Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới,
cần tiếp tục thực hiện tốt 8 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng mà Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu
dài và phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời tập trung cao độ để lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc

tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
II. MỤC TIÊU, PHƢƠNG CHÂM
1. Mục tiêu:
Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém
trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân
chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -21-
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị quyết của Đảng.
2. Phƣơng châm:
Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né
tránh. Các giải pháp phải bảo đảm đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, kết hợp
"chống và xây", "xây và chống", nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề
bức xúc, trì trệ nhất. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện với trách nhiệm và quyết tâm chính trị
cao trong toàn Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy
đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật
sự gương mẫu để cho các cấp noi theo. Phải làm kiên quyết, kiên trì, xác định rõ lộ
trình thực hiện, thời gian hoàn thành, làm từng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra,
giám sát chặt chẽ. Làm tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng cũng chính là để thúc đẩy thực
hiện nhiệm vụ chính trị. Phải bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan; đồng thời
không để rơi vào trì trệ, hình thức, không chuyển biến được tình hình; giữ đúng nguyên
tắc, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích động, xuyên tạc,
đả kích gây rối nội bộ.
III. GIẢI PHÁP

Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định
đã có về xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện tốt các nhóm giải pháp sau đây:
1. Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương
mẫu của cấp trên. Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương tập
trung kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều
năm nhưng chậm được khắc phục, có mặt còn yếu kém, phức tạp thêm; làm rõ nguyên
nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng
Đảng. Hai là, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương tiến hành kiểm điểm, đánh giá liên hệ bản thân về kết quả thực hiện nhiệm
vụ được giao liên quan đến một số vấn đề cấp bách nêu trong nghị quyết này, đề ra biện
pháp khắc phục. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói
đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống. Ba là, các đồng chí ủy viên ban cán sự
đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương
Đảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự
phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế. Trong quá trình kiểm điểm
cần liên hệ, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định; việc giải quyết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -22-
những vấn đề về tổ chức, cán bộ; về giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, cơ
quan hoặc địa phương.
Trước khi kiểm điểm, cần có hình thức phù hợp lấy ý kiến góp ý, gợi ý kiểm
điểm.
2. Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm,
liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân
chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực hiện quy định về những điều đảng viên
không được làm, theo cương vị công tác. Làm tốt việc kiểm điểm để có căn cứ xem xét,
sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp ủy, các

chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới.
Hai là, phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy chế chất
vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy
các cấp. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở
rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ,
có tín nhiệm thấp cần được sắp xếp phù hợp, có cơ chế kịp thời thay thế không chờ hết
nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở
cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài
sản theo quy định của Đảng và Nhà nước. Kê khai tài sản phải trung thực và được công
khai ở nơi công tác và nơi cư trú.
Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban
nhân dân cấp xã, cấp huyện; gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực
sự có hiệu quả, ngăn chặn sự lạm quyền, độc đoán. Sơ kết rút kinh nghiệm để có chủ
trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy có
số dư. Triển khai thực hiện quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-
2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu,
chuyên gia cấp chiến lược. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ trì cấp
trên nói chung phải qua chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ trì ở cấp dưới. Hướng dẫn để
sớm thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Quy định việc thực hiện lấy phiếu tín
nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -23-
thể. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được
xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Bốn là, thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy
viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ

nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy
trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải
trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét,
quyết định.
Năm là, chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ; thực hiện nghiêm
nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Sớm
tổng kết toàn diện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm; bổ sung, sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng. Kiện toàn và tăng cường trách
nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng. Xét xử
nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được
nhân dân quan tâm.
Bảy là, định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
3. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
Một là, khẩn trương rà soát, loại bỏ các cơ chế, chính sách đã lạc hậu, xây dựng,
ban hành đồng bộ các chính sách để đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ. Trọng tâm là
đánh giá cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ
làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán
bộ; quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và
cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý
kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư;
ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng
thành viên ban thường vụ cấp ủy cấp mình.
Thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản pháp
luật có liên quan đến công tác cán bộ. Ủy ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm tra,
giám sát đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý trong việc chấp hành các quy định
của Đảng và Nhà nước về cán bộ, công chức; hằng năm cần có báo cáo kết quả thực

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -24-
hiện của cán bộ thuộc cấp ủy quản lý trong việc chấp hành quy định của Đảng và Nhà
nước về công tác cán bộ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Xây dựng, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác
cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí
công tác để trục lợi.
Hai là, rà soát cơ chế, chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật để
quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn và tài sản nhà nước.
Ba là, tích cực thực hiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách hành chính
trong Đảng. Rà soát, loại bỏ những cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở việc
thực thi công vụ của cán bộ, công chức; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy
định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách nhiệm và quyền hạn của
người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, vừa phải tôn trọng nguyên
tắc tập thể, vừa phải phát huy vai trò cá nhân người đứng đầu; khuyến khích, bảo vệ
người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích
riêng.
Bốn là, đẩy nhanh việc cải cách, thực hiện sớm chế độ tiền lương, nhà ở, chống
bình quân, cào bằng; đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; gắn với tinh giảm biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức.
Năm là, trong năm 2012 ban hành quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp) của
nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; trong đó có
cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, việc tổ chức lấy
ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền.
4. Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TƯ, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị; tập trung lãnh

đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả.
Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và biện pháp giải quyết
vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng của các cấp theo tinh thần nghị quyết
này, tạo niềm tin trong Đảng và nhân dân.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH – PHÒNG CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ SINH VIÊN

TÀI LIỆU HỌC TẬP “TUẦN SINH HOẠT CÔNG DÂN” NĂM 2012 -25-
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa vào nền
nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp trung ương.
Bốn là, chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý có hiệu quả hoạt
động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Chú trọng làm tốt hơn việc
nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời
phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ
lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống Tập trung chấn chỉnh, quản
lý thông tin trên mạng internet, các mạng xã hội và blog cá nhân.
Năm là, cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp xúc,
đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư
tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội.

×