Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Nhân vật và người kể chuyện trong tiểu thuyết Lê Lựu ( Luận văn ThS. Văn học )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 178 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ XUÂN THOẢ

NHÂN VẬT VÀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Lý luận Văn học





HÀ NỘI 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VŨ XUÂN THOẢ


NHÂN VẬT VÀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Lý luận Văn học
Mã số : 60 22 01 20


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :
PGS. TS ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG


HÀ NỘI 2014
LỜI CẢM ƠN


Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực cố gắng của riêng bản
thân tôi, còn nhờ sự tận tình giúp đỡ của các thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc, em xin gửi tới PGS.TS
Đoàn Đức Phương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài luận văn.
Xin cảm ơn các thầy, cô giáo thuộc tổ bộ môn Lý luận Văn học, khoa
Văn học và các cán bộ phòng đào tạo SĐH của Trường ĐH KHXH&NV Hà
Nội đã trang bị kiến thức cũng như tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin cám ơn Sở GD&ĐT Hải Dương, Ban Giám hiệu cùng các cán bộ,
giáo viên Trường trung học phổ thông Đường An nơi tôi công tác đã ưu ái tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn cũng như khoá học này.
Xin cảm ơn và tỏ lòng tri ân sâu sắc đến tất cả mọi người trong gia đình,
các anh chị, các bạn lớp cao học văn K56 những người đã luôn giúp đỡ, chia
sẻ mọi khó khăn và luôn động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.


Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn



Vũ Xuân Thỏa






MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………….
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ………………………………………
5. Cấu trúc luận văn……………………………………………………
NỘI DUNG
Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢY TIỂU
THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Bức tranh chung của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới
1.1.1. Cơ sở của công cuộc đổi mới văn học …………………………….
1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới …………………………….
1.2. Quá trình sáng tác và vị trí của tiểu thuyết Lê Lựu trong văn học
Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
1.2.1. Quan điểm nghệ thuật……………………………………………
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu……………………………………
1.2.3. Vị trí của tiểu thuyết Lê Lựu trong văn học Việt Nam thời kỳ

Đổi mới…………………………………………………………………….
Chƣơng 2: NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
2.1. Nhân vật văn học và nhân vật tiểu thuyết ………………………….
2.2. Cảm hứng bi kịch và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
2.2.1. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ
Đổi mới ……………………………………………………………………
2.2.2. Nhân vật rơi vào bi kịch do hoàn cảnh ………………………
2.2.3. Bi kịch cá nhân trong mỗi nhân vật…………………………………
2.2.4. Nhân vật rơi vào bi kịch do nhận thức, quan niệm duy ý chí ……….



1
4
8
9
11




12
13


20
21

23


26
28

29
34
43
50


2.2.5. Nhân vật với bi kịch của lối sống thực dụng, ích kỷ, biến chất
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ………………………………
2.3.1. Nghệ thuật tạo tình huống…………………………………………
2.3.2. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm……………………………………….
2.3.3. Nghệ thuật tổ chức xung đột…………………………………………
Chƣơng 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
3.1. Khái lƣợc về ngƣời kể chuyện trong loại hình tự sự
3.1.1. Khái niệm người kể chuyện…………………………………………
3.1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện…………………
3.2. Ngôi kể và điểm nhìn
3.2.1. Ngôi kể…………………………………………………………………
3.2.2. Điểm nhìn …………………………………………………………….
3.3. Phƣơng thức kể chuyện
3.3.1. Trần thuật khách quan hóa trong tiểu thuyết Lê Lựu……………
3.3.1.1. Trần thuật hòa mình với nhân vật…………………………………
3.3.1.2. Trần thuật “ủy thác” cho nhân vật………………………………
3.3.1.3. Người trần thuật có giọng nói riêng……………………………….
3.3.2. Trần thuật theo hướng chủ quan hóa trong tiểu thuyết Lê Lựu…
3.4.Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu
3.4.1. Giọng điệu trần thuật………………………………………………
3.4.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu

3.4.2.1. Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh, giễu nhại…………………………
3.4.2.2. Giọng điệu trữ tình xót xa, thương cảm……………………………
3.4.2.3. Giọng suy tư chiêm nghiệm………………………………………
3.4.2.4. Giọng phê phán, lên án, tố cáo ……………………………………
KẾT LUẬN………………………………………………………………
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………
59
66
67
73
76


83
85

88
89

94
95
105
113
118

125

129
135
140

145
149
156

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc ta - kỉ nguyên của độc lập, tự do. Sự kiện đó được coi là
“cuộc tái sinh màu nhiệm” của dân tộc Việt Nam, thì mốc lịch sử sau ngày
30/04/1975 có thể được coi là sự đổi thay kì diệu của hiện thực đời sống
chính trị, xã hội và văn hóa. Đất nước ta khép lại trang sử chiến tranh, bước
sang một trang mới: xây dựng và tái thiết đất nước trong bối cảnh hòa bình.
Cuộc sống trở lại với quy luật bình thường, con người trở về đối diện với
muôn mặt phức tạp, xô bồ của cuộc sống. Văn học cũng có sự thay đổi, các
nhà văn có sự mẫn cảm với cuộc sống đã nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống
và họ đã phát hiện ra nhiều vấn đề có ý nghĩa. Từ thể tài lịch sử dân tộc vốn
được coi là thể tài chủ đạo, văn học đã chuyển sự quan tâm chủ yếu sang thể
tài thế sự. Nhiều tác phẩm văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn,
sâu sắc về con người mà hạt nhân cơ bản là tư tưởng nhân văn, nhân bản. Con
người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế, trong tính đa chiều
của các mối quan hệ: con người xã hội, con người với cuộc sống, con người
trong các mối quan hệ với gia đình, dòng họ, với phong tục tập quán và với
chính mình. Con người cũng được văn học khám phá ở nhiều tầng bậc: ý thức
và vô thức, tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, con người với bản năng,
khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con
người trong tính nhân loại, phổ quát. Đây là những vấn đề cần được nghiên
cứu một cách sâu sắc và toàn diện.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã “cởi trói” những quan niệm

nghệ thuật không còn phù hợp với thời đại để tài năng nghệ sĩ được tự do
tung cánh. Sự đổi mới ấy đã đem đến cho văn nghệ một luồng sinh khí mới.
Cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi là một đợt sóng rất cao

2

và mới của tiểu thuyết. Đã không ít cây bút mới xuất hiện với những cảm
hứng và quan niệm nghệ thuật mới ra đời. Một loạt tiểu thuyết triển khai trên
nhiều đề tài đã tái hiện bức tranh đời sống xã hội Việt Nam thời hiện đại trong
toàn bộ tính phức tạp của nó như: Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng, Ông cố vấn của Hữu Mai, Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Bến không chồng của
Dương Hướng, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Thời xa vắng, Đại tá
không biết đùa của Lê Lựu Các nhà văn đã lựa chọn thể loại tiểu thuyết làm
phương tiện phản ánh hiện thực cuộc sống và bày tỏ quan điểm nghệ thuật
của mình. Thể loại này chiếm vị trí hết sức quan trọng trong các loại hình văn
xuôi nghệ thuật, là hành trang chủ yếu của các cây bút văn xuôi, là dấu hiệu
trưởng thành của một nền văn học. Tiểu thuyết được coi là “máy cái” của văn
học, nhiều cuốn tiểu thuyết được coi là những pho "bách khoa toàn thư" về
đời sống xã hội. Giá trị nhận thức, những kinh nghiệm sống quý báu mà tiểu
thuyết mang đến cho con người là không thể đo đếm hết. Bức tranh hiện thực
toàn cảnh mà tiểu thuyết mang lại cũng bộn bề, phức tạp, đa dạng, đa chiều và
đa tầng như chính bản thân sự tồn tại của đời sống con người. Từ những
"khuôn vàng thước ngọc" của đạo đức, phong tục đến những lĩnh vực bao la,
rộng mở của khoa học, nghệ thuật; từ những cuộc giao tranh đẫm máu của
lịch sử đến những hình ảnh rực rỡ lấp lánh sắc mầu của thiên nhiên; từ những
vinh quang chói lọi của các bậc đế vương đến những chặng đường hưng thịnh
hay suy vong của một thời đại đến cái kết cục bi thảm của một thân phận tăm
tối, thấp hèn tất cả đều hiện lên trong những trang tiểu thuyết với dáng vẻ
chân thực và sinh động.

Dòng chảy của tiểu thuyết thời kì Đổi mới có những chuyển biến phong
phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽ của tiểu thuyết giai đoạn
trước. Đọc tiểu thuyết hôm nay, độc giả dễ có cảm giác nó đã áp sát đời sống,

3

xông thẳng vào các “mắt bão” của cuộc đời và nói được nhiều vấn đề bức
thiết của cuộc sống thông qua những số phận có tính bi kịch. Con đường đổi
mới này dẫu còn nhiều thử thách, dẫu chưa thật hoàn thiện nhưng chúng ta
thấy cũng đã phần nào định hình. Trên con đường ấy, có thể nói, Lê Lựu là
một trong những tác giả đặt những bước chân đầu tiên để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng người đọc, nhiều tác phẩm của ông đã tập trung phản ánh số phận,
bi kịch của con người trước thực tại. Độc giả đã biết đến Lê Lựu với những
truyện ngắn làm rung động lòng người như: Trong làng nhỏ, Người cầm
súng, Chuyện kể từ đêm trước, Người về đồng cói, Quê hương người
lính…Nhưng phải đến Thời xa vắng thì Lê Lựu mới thật sự trở thành một
hiện tượng, tác phẩm đã gây được tiếng vang, thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu văn học về việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết.
Người ta thấy khắp nơi diễn đàn về Thời xa vắng. Anh chàng nhà quê Giang
Minh Sài của nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cả
biên giới, ra khỏi địa phận nước Việt. Có thể nói Lê Lựu đã thành công vang
dội. Sau thành công ấy, ông vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh
thần của ông lại lần lượt ra đời như: Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện
làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995), Hai nhà (2000) Trong từng tác
phẩm, ông đã thể hiện sự đổi mới của mình ở nhiều góc độ trên con đường
tìm tòi, sáng tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Chính sự đổi mới ấy đã góp
phần đem đến cho văn học những hình tượng mới lạ về người lính trong chiến
tranh, người lính trong đời thường và những hiện tượng nóng bỏng đang được
quan tâm trong xã hội. Thành quả của quá trình lao động không mệt mỏi đã
được đền đáp xứng đáng, Lê Lựu đã khẳng định mình ở nhiều thể loại như:

tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn… Tên tuổi và tác phẩm của ông được
khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải Nhì Hội thi truyện ngắn báo
Văn Nghệ 1967-1968 (không có giải nhất) với truyện ngắn Người cầm súng,

4

giải A cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà văn, Bộ thương binh với
truyện Người về đồng cói. Đặc biệt với giải thưởng của Hội nhà văn dành cho
Thời xa vắng, có thể nói Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương đương
đại được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự thành công
cho Lê Lựu? Có rất nhiều yếu tố, trong đó theo chúng tôi không thể không kể
đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là về nhân vật và
người kể chuyện. Tuy nhiên, ở góc độ thi pháp thì chưa có công trình nghiên
cứu một cách đầy đủ hệ thống tác phẩm của ông mà chỉ khai thác ở vài khía
cạnh như nghệ thuật trần thuật, thế giới nghệ thuật, đổi mới nghệ thuật, thế
giới nhân vật trong các bài viết hoặc ở một số luận văn.
Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu không phải tất cả đều là đỉnh cao, là
kiệt tác nhưng nó có sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì
khó mà dứt ra được hay nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những truyện xoàng xoàng,
người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một đoạn
tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật”. Lê Lựu có một vị trí khá
quan trọng trong văn học thời kì Đổi mới, tác phẩm của ông xứng đáng được
nghiên cứu riêng biệt trong một công trình. Vì vậy, trong luận văn này chúng
tôi vận dụng một số kiến thức lý luận văn học về văn học thời kì Đổi mới mà
bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập và nghiên cứu với mong muốn
chỉ ra được một số nét nổi bật về nhân vật và người kể chuyện qua một số tác
phẩm của Lê Lựu. Hy vọng rằng với luận văn này, chúng tôi có thể đóng góp
một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu chung về Lê Lựu để thấy được
đóng góp của nhà văn đối với nền văn học dân tộc một cách sâu sắc, toàn diện

trong quá trình đổi mới tiểu thuyết từ góc độ thi pháp đồng thời góp phần
khảng định vị trí của nhà văn trong văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề

5

Theo tìm hiểu của chúng tôi, đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến Lê Lựu và sự nghiệp sáng tác của ông. Qua những tác phẩm của Lê
Lựu, độc giả không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
mà còn cảm nhận một cách sâu sắc những biến chuyển tinh tế nhất của đời
sống tư tưởng con người thời đại. Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không rơi vào
khoảng không im lặng mà có thể nhận thấy, cùng với các cây bút văn xuôi lúc
bấy giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh Lê Lựu đã
làm cho đời sống văn học nước ta thêm phần sôi động.
Lịch sử văn học cho thấy, những nhà văn nào được giới nghiên cứu, phê
bình quan tâm thì càng được bạn đọc chú ý. Và dù khen hay chê cũng đều
khiến tác phẩm thêm nổi tiếng, người đọc tìm đến nó nhiều hơn. Lê Lựu là
một trường hợp như vậy. Nhà phê bình Ngô Thảo trong một bài viết Về
truyện ngắn Lê Lựu đã nhận định: “Lê Lựu là một người đang tìm tòi. Truyện
nào của anh cũng tìm được những nét tính cách mới, những hướng khai thác
vấn đề mới”. Bàn về truyện ngắn Người cầm súng, nhà nghiên cứu Bích Thu
đã khẳng định: “Có thể nói Người cầm súng như là cái mốc đánh dấu một
chặng đi mới của Lê Lựu trên con đường vào nghề, nó đã khơi mở được
nguồn mạch sáng tác của anh”. Mãi đến 1986, cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng
“trình làng” mới thực sự gây xôn xao trong dư luận và được đánh giá là “một
cọc tiêu tiền trạm” của công cuộc đổi mới văn học. Tác phẩm này nhanh
chóng thu hút được sự chú ý của nhiều cây bút phê bình như Nguyễn Văn
Lưu, Nguyễn Hòa, Phong Lê, Vương Trí Nhàn, Bích Thu… Có thể nói rằng
Lê Lựu đã dám nhìn thẳng vào sự thật khắc nghiệt, những góc khuất của hiện
thực cuộc sống để “nhận thức lại thực tại”.

Nối tiếp nguồn cảm hứng của Thời xa vắng thời gian sau đó, Lê Lựu
cho ra mắt bạn đọc hàng loạt tác phẩm: Đại tá không biết đùa (1989),
Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2003)…và thật

6

sự đã gây được nhiều tiếng vang trong dư luận như Lê Lựu từng tâm sự: “Có
những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bởi tự thân nội dung đặc sắc của nó đi được
vào mạch ngầm tâm tư tình cảm của nhân vật (Thời xa vắng), cũng có những
cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bởi tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có những
cuốn tiểu thuyết khi lên phim mới nổi đình nổi đám và kéo theo đó là tai bay
vạ gió”. Song ở bất cứ tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ, Lê Lựu cũng có một vấn
đề gì đó để gửi gắm. Và giá trị của những cuốn tiểu thuyết ấy là không thể
phủ nhận. Nhận xét về tiểu thuyết Lê Lựu, tác giả Lê Hồng Lâm đã phát biểu:
“Sở dĩ tác phẩm của Lê Lựu gây được dư luận và có chỗ đứng riêng trên văn
đàn như Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông, Hai nhà…là bởi ông luôn viết hết
mình như ông sống, yêu ghét rạch ròi và đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách
nhân vật Ở một phương diện nào đó, trong những hoàn cảnh điển hình nhà
văn đã tạo ra những nhân vật điển hình”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lưu trong bài viết “Nhu cầu nhận thức lại
qua Thời xa vắng” in trên Tạp chí văn học số 5 – 1987 cho rằng: “Tiểu thuyết
Thời xa vắng của Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển
biến trong nhìn nhận, đánh giá thực tại”. Nghĩa là yêu cầu nhà văn một sự
khám phá sâu hơn vào những vùng hiện thực mà trước đây chưa được chú ý
đúng mức. Người đọc thấy Lê Lựu trong Thời xa vắng khác hẳn Lê Lựu
trong các tác phẩm trước đó. “Ở đây, tác giả đã có sự chuyển hướng rõ rệt
trong phong cách nghệ thuật. Do cách nhìn hiện thực mới, sâu sắc và nhuần
nhị hơn, đã đem lại những cảm hứng mới, giọng điệu mới cho tác giả”. Ông
cũng khẳng định tài năng của Lê Lựu: “Phải là người nông dân nghèo khổ
mới viết được những câu văn ứa lệ như vậy, đó là những trang văn hay của

văn xuôi Việt Nam”.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa - người đồng hương và cũng là người vô cùng
quý mến Lê Lựu đã có những nhận xét xác đáng về cuốn tiểu thuyết này: “Lê

7

Lựu đã dựng lên một loạt bức tranh nông thôn đặc sắc. Có nhiều trang đạt
chuẩn Nam Cao. Có thể nói tắt từ Nam Cao qua một chút Kim Lân đến
Nguyễn Khắc Trường và Lê Lựu, chúng ta mới lại có nhà văn nông thôn thứ
thiệt”. Nhắc đến Lê Lựu, người ta hay nói đến Thời xa vắng, tác phẩm đưa
ông trở thành “sỹ quan” trong làng văn. Không phải đơn giản cuốn tiểu thuyết
này lại nhận được nhiều lời khen chê, bởi lẽ tác phẩm đã khơi gợi sứ mệnh
thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay muốn đảm nhiệm. Theo
nghĩa này, Vương Trí Nhàn đã khẳng định: “Thời xa vắng nên được xem là
cuốn sách biết làm đúng nhiệm vụ của một tác phẩm văn học cần làm”.
Bích Thu trong bài viết: Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam
từ sau Đổi mới, in trong cuốn Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (Viện
Văn học 1999) đã nhận xét: “Đọc tiểu thuyết Lê Lựu, người đọc nhớ câu
chuyện, nhớ nhân vật của một thời đã qua mà ai cũng thấy thấp thoáng chút ít
mình trong đó”.
Ngoài ra, đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm của Lê Lựu như:
Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn của Phong Vũ; Thời xa
vắng - Một tâm sự nóng bỏng của Lê Thành Nghị; Chuyện phiếm với anh Sài
của Hồng Vân; Nghĩ về một Thời xa vắng của Thiếu Mai; Đọc Thời xa vắng
của Lê Lựu của Hoàng Ngọc Hiến, Suy tư từ một Thời xa vắng của Nguyễn
Hoà; Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay của Vương Trí
Nhàn; Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - Những tìm tòi và thể nghiệm
của Nguyễn Ngọc Thiện; Một giờ với nhà văn Lê Lựu của Nguyễn Hữu Sơn;
Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị của Nguyễn Thu Hằng; Lê Lựu
- Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn; và tất cả những bài viết này được

chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình.
Bên cạnh những tài liệu, sách, báo và tạp chí, một số luận văn cũng đề
cập đến những vấn đề xoay quanh tiểu thuyết Lê Lựu như: Tiểu thuyết viết về

8

nông thôn trong văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới (1999), luận văn thạc sĩ
Nguyễn Thị Hương Lan, ĐHSPHà Nội. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới
(2002), luận văn thạc sĩ Trần Thị Kim Soa, ĐHSP Hà Nội. Những cách tân
nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay (2005), luận văn Thạc
sĩ Nguyễn Thị Minh Thủy, ĐH Vinh. Phong cách tiểu thuyết Lê Lựu (2007),
luận văn Thạc sĩ Ngô Thị Diệu Thúy, ĐH Vinh. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi
mới (2007) luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền – ĐHSP TP Hồ Chí Minh. Tiểu
thuyết viết về nông thôn thời kì đổi mới (2009), luận văn thạc sĩ Phùng Thị
Hồng Thắm – ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội. Không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới (2010) luận văn thạc sĩ
Đào Thị Cúc – ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội…Những luận văn trên có
điểm chung là đều đề cập đến quan niệm nghệ thuật về con người, hoặc khai
thác sức hấp dẫn về nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Lựu, những đặc điểm của
phong cách tiểu thuyết Lê Lựu với nhiều phát hiện mới mẻ, thú vị, trong đó
nhiều người đặc biệt quan tâm đến tiểu thuyết Thời xa vắng.
Các luận văn được điểm qua trên đây mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu
một phương diện, một góc độ nào đó, chưa có một công trình khoa học
chuyên biệt nào khảo sát kĩ lưỡng về nhân vật và người kể chuyện trong
thuyết Lê Lựu. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài: “Nhân vật và người kể chuyện
trong thuyết Lê Lựu”, chúng tôi mong muốn đề xuất một cách nhìn khái quát,
toàn diện hơn để từ đó không chỉ làm rõ những kiểu nhân vật và người kể
chuyện trong tiểu thuyết của Lê Lựu mà đồng thời còn chỉ ra những đóng góp
cũng như vị thế của một cây bút “tiền trạm” trong công cuộc đổi mới văn học
Việt Nam hiện đại.

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

9

Nhằm cung cấp một khía cạnh nghiên cứu mới về tiểu thuyết Lê Lựu từ
góc nhìn về nhân vật và người kể chuyện. Đề xuất hướng nghiên cứu đa chiều
mới về nhân vật và người kể chuyện trong tiểu thuyết Lê Lựu dựa trên bối
cảnh lịch sử, các kiểu nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật; ngôi kể, điểm
nhìn, phương thức trần thuật, ngôn ngữ trần thuật
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu về Lê Lựu và sự nghiệp sáng tác của ông đã có rất nhiều ý kiến
bàn luận nhưng chưa đi sâu tìm hiểu nghệ thuật lựa chọn và kiến tạo về nhân
vật và người kể chuyện. Trong luận văn này, từ việc lấy những đặc điểm tiểu
thuyết đương đại làm cơ sở, từ đó chúng tôi hướng đến tìm hiểu những đặc
điểm tiểu thuyết của Lê Lựu. Dựa vào thể loại, và tác phẩm chúng tôi cố gắng
chỉ ra những đặc điểm, những ưu thế riêng biệt, những chuyển biến về quan
niệm con người, về người kể chuyện, những trăn trở tìm tòi cũng như cách
thức biểu hiện chúng…để góp phần làm sáng tỏ những đóng góp và sáng tạo
mới của Lê Lựu trong lĩnh vực tiểu thuyết.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu diễn ra trong gần nửa thế kỉ với số lượng
tác phẩm khá phong phú: 9 tập truyện, 2 tập kí và 8 cuốn tiểu thuyết, tạp
văn Trong phạm vi luận văn, do hạn chế về mặt thời gian chúng tôi không
thể tiến hành khảo sát về nhân vật và người kể chuyện ở trong tất cả tác phẩm
của Lê Lựu mà chủ yếu khảo sát qua một số tác phẩm của ông trong thời kì
Đổi mới (từ 1986).
- Thời xa vắng (1986), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
- Chuyện làng Cuội (1991) Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
- Sóng ở đáy sông (1995), Nxb Hải Phòng

- Hai nhà (2000), Nxb Thanh Niên, Hà Nội

10

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ đặt những sáng tác
trên trong toàn bộ hệ thống tiểu thuyết Lê Lựu để thấy được những đặc điểm
chung nhất về phương diện nhân vật và người kể chuyện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp lịch sử – xã hội
Văn học là bức tranh phản chiếu sinh động về đời sống hiện thực. Văn
học nói chung và tiểu thuyết của Lê Lựu nói riêng đều mang hơi thở của thời
đại. Chính vì vậy, không xem xét đến yếu tố hiện thực, đặc biệt là nhiệm vụ
do đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra thì không thể nào thấy được sự tất
yếu phải thay đổi, phải chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn
này. Sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội sẽ giúp cho việc lý giải những cơ
sở thực tiễn và nguyên nhân sự chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm
của Lê Lựu.
4.2. Phương pháp so sánh
Văn học chịu sự chi phối trực tiếp và hết sức mạnh mẽ của hoàn cảnh xã
hội. Sự chuyển biến, đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới
đang diễn ra trên toàn xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh (lịch đại,
đồng đại) giúp chúng tôi có điều kiện so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật về
phương diện nhân vật và người kể chuyện của Lê Lựu trong thời kỳ Đổi mới
cũng như những điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu
thuyết của các tác giả cùng thời.
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Muốn làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nhân vật và người kể chuyện
trong tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không phân tích các khía cạnh của tác
phẩm để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của nó. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp
chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân

vật cũng như nghệ thuật kể chuyện của nhà văn trên từng trang viết.

11

4.4. Phương pháp hệ thống
Số lượng tác phẩm của Lê Lựu rất nhiều, nên chúng tôi sử dụng phương
pháp hệ thống. Hơn nữa, khi sử dụng phương pháp này, chúng tôi muốn khái
quát các hình thức chủ thể nhân vật và người kể chuyện thành một mô hình,
trong đó có sự thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố. Từ đó, giúp người đọc nhận
thức về phương diện nhân vật và người kể chuyện một cách đầy đủ, toàn diện.
Vận dụng phương pháp này, giúp ta xác định được các kiểu nhân vật, ngôi kể
điểm nhìn, phương thức trần thuật, giọng điệu trần thuật qua một số tác phẩm:
Thời xa vắng, Chuyện làng cuội, Sóng ở đáy sông, Hai nhà trong sáng tác
của Lê Lựu giúp ta có được cái nhìn mang tính bao quát về tiểu thuyết Lê Lựu
thời kì Đổi mới và trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

5. Cấu trúc luận văn
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, luận văn có ba chương:
- Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết đương đại
- Chương 2: Nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu
- Chương 3: Người kể chuyện trong tiểu thuyết Lê Lựu












12














Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
TRONG DÒNG CHẢY TIỂU THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI

1.1. Bức tranh chung của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới
1.1.1. Cơ sở của công cuộc đổi mới văn học
Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất. Thắng lợi to lớn nhưng
thách thức cũng hết sức nặng nề, sức người, sức của phải dồn vào việc khôi
phục cuộc sống sau chiến tranh. Cả đất nước đứng trước một yêu cầu sống
còn: phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường. Trước thực tế ấy, Đảng
đã khởi xướng đổi mới một cách toàn diện trong Đại hội lần thứ VI (1986).
Về văn học nghệ thuật, nghị quyết 05 của Bộ chính trị nhấn mạnh: “…Thực

hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kỹ
thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc

13

giao lưu giữa các nước và các nền văn hoá ngày càng mở rộng…văn nghệ
nước ta cũng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”.
"Phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật phát triển lên một bước
mới" [19 tr. 35]. Như vậy, đổi mới trở thành một quy luật tất yếu. Từ việc đổi
mới kinh tế sẽ kéo theo việc đổi mới cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực. Đổi
mới toàn diện trước hết là đổi mới tư duy, trong đó văn học nghệ thuật là một
hoạt động tư duy sắc bén. Vì vậy, văn học đã được đặt lên hàng đầu ở công
cuộc đổi mới này.
Từ yêu cầu thực tiễn, Đảng xác định sứ mệnh của văn học nghệ thuật giờ
đây không phải là cổ vũ, động viên, ca ngợi mà xây dựng tình cảm lành mạnh,
tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống con người với "Tư
tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật luôn luôn là linh
hồn của nghệ thuật chân chính" [123, tr.88] được thể hiện đậm nét trên nhiều
trang viết. Đảng yêu cầu tác phẩm văn học phải: "Phản ánh các nhân tố mới
trong xã hội, cổ vũ cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái
xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ " [170, tr.112]. Với chủ trương mới ấy,
văn học nghệ thuật đã được trả lại bản chất vốn có trong việc khám phá và thể
hiện cuộc sống. Để có sự đổi mới thực sự, Đảng khuyến khích giới văn nghệ
sỹ hãy tìm tòi sáng tạo và có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng
tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức
biểu hiện. Bởi vì tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sỹ là một trong những yếu
tố quan trọng quyết định sự đổi mới diện mạo văn học. Hơn nữa, tự do sáng
tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hoá, nghệ
thuật. Như vậy, các Nghị quyết và chỉ thị trong Đại hội lần thứ VI (1986) đã

chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của Đảng dành cho đời sống tinh thần của con
người, mà cụ thể ở đây là văn học nghệ thuật.

14

1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Văn học Việt Nam trong suốt 30 năm chiến tranh đã đáp ứng yêu cầu
"phản ánh chân thực và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới" hay "phản
ánh hiện thực trong xu thế phát triển cách mạng của nó". Khi nước nhà độc
lập thống nhất, thực tiễn cuộc sống mới đòi hỏi văn học nghệ thuật phải thay
đổi. Giờ đây văn học nghệ thuật không còn được hiểu đơn giản là công cụ
chính trị hay vũ khí của công tác tư tưởng, hoặc phương tiện tuyên truyền,
giáo dục quần chúng mà là "một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng,
văn hoá". Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị là dành riêng cho văn nghệ trong
giai đoạn mới, đã mở ra một hướng đi mới mà nhà văn là người hiểu rõ các
đặc trưng của văn chương và sứ mệnh của mình đối với cuộc sống. Những
sáng tác của họ không nhằm minh hoạ các khẩu hiệu hay cổ vũ cho các phong
trào, giúp thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước mà
"tập trung miêu tả số phận con người, mang đến cho con người cái đẹp, tình
yêu cuộc sống, làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân, đồng
thời phải nghiên cứu những vấn đề của xã hội đang diễn. Từ đó rút ra bài học,
những tư tưởng mang tính khái quát, không chỉ quan trọng về triết học, đạo
đức, nhân sinh mà còn có thể mang ý nghĩa chính trị lớn lao" [150, tr.18].
Nhận thức về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực lúc bấy giờ, nhiều
nhà nghiên cứu đã có những đánh giá sâu sắc "yêu cầu văn học trong điều
kiện lịch sử mới phải góp phần vào sự hoàn thiện bức tranh hiện thực còn
trong dạng phác thảo của một thời đã qua, sao cho chân thực hơn, được soi tỏ
dưới nhiều góc cạnh hơn [96, tr.106]. Giờ đây, với yêu cầu mới khiến cho
nhiệm vụ của văn học thay đổi, nó không chỉ phản ánh thế giới khách quan
mà còn thể hiện thế giới chủ quan. Nhận định về văn xuôi trong khoảng mười

năm, Hoàng Ngọc Hiến trong bài Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo
cho rằng: "Trong sáng tác văn học, cái nhìn mâu thuẫn trong hiện thực đời

15

sống hết sức quan trọng. Những biến đổi sâu sắc trong văn xuôi của ta khoảng
mười lăm năm nay bắt nguồn từ sự thay đổi trong cách nhìn những mâu thuẫn
trong đời sống xã hội" [66, tr.239].
Lê Ngọc Trà trong một loạt bài nghiên cứu của mình đã tập trung đề cấp
đến vấn đề bản chất văn học: "Tác phẩm văn học là tiếng nói của những ấn
tượng, những suy nghĩ vừa như xác định vừa như chưa xác định, vừa như trọn
vẹn lại vừa như chưa trọn vẹn, vừa như có ý giới hạn lại vừa như miên man,
vô bờ bến. Đó là những cảm giác mang tính hình tượng Văn học chính là
nỗi buồn về cái đẹp, về lý tưởng, là nỗi đau giằng xé về số phận con người, là
sự cắn rứt lương tri không yên, là cuộc đấu tranh nội
tâm " [95, tr160].
Trong bài viết Văn học trên con đường đổi mới, Nguyễn Văn Hạnh đã
khẳng định: "Tư tưởng quan trọng bậc nhất mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã
trang bị cho nhận thức xã hội trong thời kỳ đổi mới, cũng là tư tưởng đã tạo
nên bước ngoặt thật sự trong tư duy nghệ thuật mấy năm qua, chính là tư
tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi sự thật luôn luôn là linh
hồn của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật tiến bộ" [59, tr 65].
Có thể nói, những đánh giá trên được nhìn nhận khá chính xác và chúng
tôi tâm đắc với ý kiến: "Những nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, thiết tha với
công cuộc đổi mới do Đảng đề ra đã nhìn thấy phải bắt đầu quá trình đổi mới
văn học đúng ngay từ chỗ phải bắt đầu nói sự thật. Mà người đọc từng trải,
thông minh chân tình của chúng ta cũng hiểu như vậy. Họ chú ý đến tác phẩm
mới, hoan nghênh nhà văn trước hết ở sự trung thực, ở lời nói thật. Cái nhìn
mới mẻ, trước hết bắt nguồn từ thái độ trung thực và tinh thần trách nhiệm đối
với cuộc sống, từ niềm tin vào chính nghĩa và sức mạnh của cách mạng, do đó

mà có đủ ý thức và dũng cảm để nói lên sự thật, dù đó là một sự thật không
đơn giản, thậm chí phũ phàng” [153, tr 89].

16

Nhận định về tiểu thuyết trong thời đại mới, Cao Tiến Lê đã khái quát:
"Tiểu thuyết của ta mấy năm gần đây đã khởi sắc, nhất là những năm 1988 -
1990, có đổi mới, tự do hơn, nêu được nhiều vấn đề, văn học đã đi vào cuộc
sống đời thường một cách tự nhiên. Mỗi một con người đều bình đẳng trước
cái nhìn của nhà văn. Tất cả mọi người trước nhà văn đều là nhân vật, nhà văn
coi trọng ở chỗ số phận của họ đóng góp được gì cho văn học."[98].
Như vậy, với công cuộc đổi mới trên toàn xã hội, văn xuôi đang chuyển
mình một cách mạnh mẽ. Giờ đây nó "không xuôi chiều kiểu êm chèo, mát
mái nữa" mà mạnh dạn "phanh phui các mặt trái của xã hội, các uẩn khúc
hoặc tráo trở của lòng người”. Đến với những tác phẩm giai đoạn này, người
đọc tìm thấy mọi cung bậc của tình cảm: từ buồn bã, cô đơn cho đến căm
phẫn, xót xa. Văn học đã làm một cuộc "cách mạng" thực sự. Nó giàu chất
thực hơn, miêu tả cuộc sống trần trụi và mạnh dạn phơi bày sự băng hoại đạo
đức nếu thấy cần thiết. Giờ đây, yêu cầu tái hiện lịch sử phải đi sâu vào số
phận mỗi cá nhân, phải đặt lại mọi vấn đề, suy nghĩ lại mọi niềm tin và có thể
vượt qua mọi cấm đoán kiêng kỵ. Điều này được Phan Cư Đệ nhận định trong
công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử và lý luận
(2005): "Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi
bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình, như là một sự lắng lại, suy ngẫm về
cuộc đời đã qua Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một
sự tự phán xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện" [44,
tr 152]. Cho nên tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, đã ghi nhận những diễn
biến tinh vi nhất về cuộc sống mới đa dạng, phức tạp. Văn học nói chung và
tiểu thuyết nói riêng nhận thức trở lại chính bản thân nó. Nhận thức về mối
quan hệ giữa văn học và hiện thực. Nhận thức mối quan hệ giữa văn học với

chính trị. Yêu cầu mới đòi hỏi văn học phải trả lời được những câu hỏi như:

17

Mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống. Nghệ sĩ anh là ai? Bản chất của văn
học là gì?
Văn học nghệ thuật trong thời đại mới trở về với thiên chức vốn có của
mình là "món ăn tinh thần" đặc sắc nhất mà không một ngành nghệ thuật nào
có thể thay thế được. Văn học mang sứ mệnh to lớn như vậy nên người nghệ
sỹ cũng xác định nhiệm vụ của mình trong nghệ thuật là phải sáng tạo, phải
thể nghiệm mình. Điều này từng được Nam Cao khẳng định qua lời nhân vật
Hộ: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài
kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Điều
này một lần nữa được Thạch Lam khẳng định trong tác phẩm của mình: " là
một thứ khí giới thanh cao và đắc lực làm cho lòng người trong sạch và
phong phú".
Sau chiến tranh, khi tư duy nghệ thuật thay đổi, văn học không chỉ nhìn
lại quá khứ bằng việc miêu tả hiện thực đời sống chiến tranh hay trở lại những
vấn đề lịch sử dưới một cái nhìn mới mà quan trọng hơn là đi sâu vào số phận
mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê. Cuộc sống được phản ánh vào tác
phẩm không chỉ là phần anh hùng, cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con
người thời hậu chiến. Đấy là cuộc sống đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa
bận rộn nhưng cũng không kém phần sôi động, quyết liệt. Đặc biệt “con
người” trở thành một đối tượng thực sự trong văn học- một thế giới đầy bí ẩn
đồng cũng là đối tượng khám phá không cùng của văn học. Con người với
đầy đủ các “phẩm chất” và “thuộc tính”, “bản năng” và “ý thức”, “thấp hèn”
và “cao thượng”, “phần con” và “phần người”… Từ con người tập thể sang
con người đời thường với tất cả tính chất mâu thuẫn phức tạp, con người anh
hùng và con người bi kịch.…Một quan niệm mới về con người được hình

thành, đó là con người cá nhân, con người chịu trách nhiệm trước mọi quyết

18

định của chính bản thân mình. Con người ấy không còn "nguyên phiến sử thi"
- chữ dùng của Trần Đình Sử, mà hiện lên với nhiều mâu thuẫn. Những mặt
trái của đời sống được phơi bày cụ thể. Sự tha hoá về nhân cách, những số
phận bi kịch, những tâm trạng lo âu, khắc khoải đựơc đặc tả. Giọng điệu mỉa
mai, phê phán tự vấn thay thế giọng điệu ngợi ca, vỗ về, ngọt ngào, êm ái.
Con người được hình dung nhiều mặt không chỉ có ý chí, tư tưởng, tình cảm
mà còn được khắc hoạ ở các phương diện bản năng, vô thức, tâm linh, nghịch
lý. Ánh sáng lý tưởng với những hào quang giờ đây nhạt dần. Những người
chiến sĩ, những anh hùng không còn vị trí trung tâm mà được thay thế bởi
những con người đời thường, có khi là tầm thường nữa. Do đó, khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn phải nhường chỗ cho cảm hứng thế sự đời tư với
những trăn trở tìm tòi. Nhiệt tình ca ngợi, khẳng định được thay thế bằng sự
phê phán. Điều này thể hiện hầu như trong các tác phẩm có giá trị lúc bấy giờ:
Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, Thời xa vắng của Lê Lựu…
Có thể nhận thấy trên các trang tiểu thuyết của văn học giai đoạn này,
những mặt trái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống mà trước đây bị lờ
đi, bị gác lại thì nay đã được các ngòi bút văn xuôi với thế mạnh riêng, lật xới
lại hầu hết mọi vấn đề. Những nhân vật xấu trước đây chỉ được miêu tả như
những thiếu sót, những khuyết điểm có thể sửa chữa được, còn về cơ bản vẫn
là người tốt thì nay hoàn toàn khác. Những kẻ xấu là những kẻ mang bộ mặt
đạo đức giả. Chúng lợi dụng danh nghĩa Đảng - cách mạng để trục lợi, để thoả
mãn ham muốn quyền lực cá nhân. Chúng trù dập người khác nhằm nâng cao
uy tín của bản thân, của gia đình và dòng họ mình. Phong Lê quả là sắc sảo
khi cho rằng :"Tiểu thuyết thời kỳ này không ngần ngại "vục vào cái sự thật
tối tăm, oan khổ" nhưng đem lại hiệu qủa "thanh lọc, tẩy rửa" [97, tr.130].


19

Tìm hiểu những trang tiểu thuyết hôm nay, người đọc bắt gặp những số
phận riêng với những bi kịch rất đời thường của con người trong xã hội mới.
Thực ra, đây không phải là điều mới mẻ gì, không phải là lần đầu tiên xuất
hiện, bởi xu thế này đã có trên những trang văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945.
Tuy nhiên, với thời gian của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm buộc văn học
phải quan tâm đến cái chung còn những vấn đề cá nhân đời thường, số phận
riêng mỗi con người phải tạm gác sang một bên. Giờ đây, khi chiến tranh kết
thúc, cảm hứng đời tư thế sự với những trăn trở, tìm tòi được thể hiện đậm nét
trên những trang tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng, Sao đổi ngôi của Chu Văn, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân Và
không chỉ có tiểu thuyết mà trong những truyện ngắn, cảm hứng thế sự cũng
được khai thác mạnh mẽ. Cỏ lau, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bi
kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài đều là những khám phá mới mẻ về cuộc đời con người.
Dưới ngòi bút chính luận Nguyễn Khải, con người hiện lên sắc sảo với
cách ứng xử thấu đáo và những suy nghĩ sâu sắc. Trong thế giới nghệ thuật
Ma Văn Kháng, con người được soi chiếu cả ở phần thể chất lẫn tâm hồn nên
vừa nồng nàn trong niềm khát khao được giao cảm lại vừa bận rộn với những
tính toán trong cuộc mưu sinh. Ngòi bút nhà văn dường như luồn thật sâu vào
mọi ngõ ngách trong tâm hồn con người để lần tìm những rung động dù rất
nhỏ. Cuộc sống thường nhật cũng như đời sống tâm hồn được miêu tả chân
thực hơn. Ở đấy không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có đau đớn, tủi
nhục, bất hạnh. Cuộc sống con người hiện lên trên trang viết hôm nay thật
phong phú đa dạng. Các nhà văn đã tiếp cận con người từ nhiều chiều và thể
hiện những cảm nhận về con người bằng nhiều cách khác nhau. Chiến tranh
đã kết thúc nhưng những dư âm của cuộc chiến vẫn còn. Giờ đây, chiến tranh


20

được tái hiện trên nhiều bình diện nhưng đằm lại và sâu lắng hơn. Hình tượng
người chiến sĩ gần hơn với cuộc sống đời thường.
Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự
cuốn hút đặc biệt. Các nhân vật trong truyện vừa đáng thương vừa đáng giận.
Những con người ấy hiện lên trên trang viết đầy bi kịch. Những bi kịch do xã
hội mang lại và những bi kịch do chính họ tạo ra. Chúng ta vừa thương vừa
giận Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Tâm trong Hai nhà, Núi trong
Sóng ở đáy sông và ngay cả sự tha hoá trong con người của Lưu Minh Hiếu
trong Chuyện làng Cuội. Mỗi người đọc tuỳ thuộc vào những tiêu chuẩn
thẩm mỹ riêng mà có cách tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích khác nhau.
Tác phẩm Lê Lựu ra đời lúc bấy giờ thực sự đã góp phần làm cho đời sống
văn học Việt Nam thêm sôi động. Điều này đã được nhận định: “Ông Lê Lựu
từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó. Có
cuốn nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm
tư tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi tai tiếng như
Chuyện làng Cuội, lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình
nổi đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông.” [104, tr. 708].
Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật văn xuôi nói chung và tiểu thuyết
nói riêng giai đoạn này đã thực sự mở rộng đường biên trong việc phản ánh vì
nó được viết dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn. Văn học đã thực sự được
cởi trói, cho nên chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò ép, không bị giới
hạn. Văn học đã tìm về với "con người đời thường", "con người cá nhân"
nhưng vẫn "mới", vẫn không dẫm chân lên lối cũ "mà đầy sáng tạo" trong sự
vận động không ngừng của cuộc sống mới. Văn học được trả lại “thiên chức”
của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh
trong mỗi tác phẩm, trong từng tác giả.

×