Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Vấn đề gìn giữ và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.79 KB, 72 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


1


LỜI CAM ĐOAN

Khoá luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
giảng viên Lê Thị Minh Thảo. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
Sinh viên thực hiện:


Nguyễn Thị Lan

















TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
********





NGUYỄN THỊ LAN

VẤN ĐỀ GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA TỈNH BẮC
NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Người hướng dẫn khoa học :
GV. LÊ THI MINH THẢO



HÀ NỘI - 2011
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


2

LỜI CẢM ƠN


Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới giảng viên Lê Thị Minh
Thảo- người cô đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các quý thầy, cô trong Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy, cô Khoa Giáo dục chính trị và các thầy
cô trong tổ Chủ nghĩa xã hội đã giảng dạy em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn tới gia gia đình, bạn bè và Trung tâm
văn hoá- thông tin tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành
khoá luận.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân,
nên khoá luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của các
thầy, cô cũng như của các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội tháng 05 năm 2011
TÁC GIẢ KHOÁ LUẬN


Nguyễn Thị Lan







Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


3


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….1
CHƯƠNG 1 : LÍ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ…………………………7

1.1. Sơ lược các quan điểm về văn hoá 7
1.2. Định nghĩa văn hoá và văn hoá truyền thống 13
1.3. Cấu trúc và chức năng của văn hoá 18
1.4 Cơ sở hình thành giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh
trong giai đoạn hiện nay 23.
CHƯƠNG 2 : VẤN ĐỀ GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA TỈNH BẮC NINH TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY 31
2.1. Những giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh 31
2.2. Những hoạt động bảo tồn và quảng bá văn hoá truyền thống
của tỉnh Bắc Ninh hiện nay 44
2.3. Một số giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay 61
KẾT LUẬN 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


4

MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài

Trải qua hàng chục thế kỉ, Việt Nam đã tạo được một cốt cách, tâm
hồn, một dáng vẻ độc đáo rất riêng. Đó là một đất nước có nền văn hiến lâu
đời với những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp. Những giá trị đó tồn tại lâu
đời và xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển của dân tộc. Lịch sử dân tộc
Việt Nam đã trải qua nhiều bước thăng trầm với bao biến cố. Song đó cũng là
minh chứng cho sức mạnh hùng hồn và tác dụng to lớn của giá trị văn hoá
truyền thống. Chính nó đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và
trở thành hệ quy chiếu trong lối sống, cách nghĩ, cách ứng xử, trong mối quan
hệ của con người. Ngoài ra, giá trị văn hoá truyền thống còn ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình hình thành, phát triển nhân cách của con người.
Xã hội ngày càng phát triển và muốn phát triển vững mạnh thì con
người lại càng phải hiểu biết sâu sắc về giá trị truyền thống của dân tộc mình.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn cách mạng mới với nhiệm vụ mới- thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tham gia hội nhập và toàn
cầu hoá tạo tiền đề và động lực cho sự phát triển đất nước. Trong xu thế đó,
bên cạnh những thời cơ thuận lợi do các trào lưu mới mang lại thì con người
không ít chịu những ảnh hưởng tiêu cực đến từ các lĩnh vực của đời sống xã
hội mà nhất là phong cách lối sống, mối quan hệ giữa con người với con
người.
Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia không chỉ đơn thuần phụ
thuộc vào mức độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển khoa học- kĩ thuật mà còn
phụ thuộc vào chất lượng cuộc sống, vào sự giàu có cả về vật chất lẫn tinh
thần. Do đó, văn hoá nói chung và giá trị văn hoá truyền thống nói riêng
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


5

không thể thiếu trong chiến lược phát triển lâu bền của mỗi quốc gia. Điều

này đã được khẳng định ở các kì Đại hội IV, VII, VIII, IX, X của Đảng, ở Đại
hôị X khẳng định: “ Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội”.
Như vậy, để tồn tại và phát triển, đất nước ta phải biết kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại và tạo được mạch nguồn, sức mạnh dân tộc làm động
lực và là chỗ dựa vững chắc. Từ những vấn đề cấp thiết trên, một yêu cầu đặt
ra là phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của những giá trị văn hoá
truyền thống trong quá trình phát triển đất nước- đặc biệt là Việt Nam đang
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì vấn đề này phải được quan tâm
và nghiên cứu, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cho việc gìn
giữ và phát huy những giá trị truyền thống đó. Cần phải nghiên cứu thực trạng
ở từng cơ sở địa phương để đưa ra phương hướng, giải pháp phù hợp với văn
hoá truyền thống ở địa phương đó.
Bắc Ninh là một vùng quê rất giàu văn hoá, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đến bất cứ nơi đâu mảnh đất Bắc Ninh- miền quê “địa linh nhân kiệt”, nơi
đây nghìn đời xưa cho đến hiện nay luôn là phên dậu phía Bắc của Kinh thành
Thăng Long- Đống Đa- Hà Nội, cũng đầy ắp những kỉ niệm lịch sử được kết
tinh trong những di sản văn hoá tiêu biểu ở khắp các làng quê của vùng đất
này. Đặc biệt Bắc Ninh còn được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, quê
hương của sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc và phát triển tới đỉnh cao. Hầu
như làng nào cũng có lễ hội, trong đó có nhiều lễ hội, trong đó có nhiều lễ hội
tiêu biểu cả vùng, cả nước. Người Bắc Ninh: thông minh, cần cù, tài khéo,
năng động và tinh xảo trong hoạt động kinh tế, sáng tạo trong hoạt động văn
hoá văn nghệ và bao trùm là hoạt động sống “uống nước nhớ nguồn”, quý
trọng cái tình cái nghĩa, sự chung thuỷ trong quan hệ ứng xử giữa người với
người “bốn biển một nhà”, “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm”, tôn
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


6


vinh tình yêu thương con người và sự say mê các hoạt động văn hoá nghệ
thuật. Vì vậy, về với Bắc Ninh là về với quê hương của thi ca, nhạc hoạ, về
với cội nguồn dân tộc và văn hoá Việt Nam. Nhưng do những thay đổi về sự
vận hành kinh tế, văn hoá Bắc Ninh nói chung và đặc biệt là giá trị văn hoá
của tỉnh đang phải đối diện với những giá trị của nền văn minh thế giới hiện
đại, đã thấy sự cần thiết phải tiếp thu, nhưng vẫn còn lúng túng, đối diện với
những giá trị mới nhưng vẫn còn ngỡ ngàng, chưa tìm được vị trí thích đáng.
Tình hình đó đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, lựa chọn và vận dụng sao cho phù
hợp. Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài: Vấn đề gìn giữ và phát
huy giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nói về văn hoá nói chung và văn hoá truyền thống ở tỉnh Bắc Ninh nói
riêng đã có rất nhiều tài liệu bàn tới vấn đề này cụ thể:
Trong cuốn “Hà Bắc văn hiến” tập 1, của tác giả Thanh Hương và
Phương Anh viết đầy đủ chi tiết về nghệ thụât, kiến trúc của các di tích lịch sử
Bắc Ninh. Đây là một trong những nét nổi bật của văn hoá truyền thống Bắc
Ninh “đây là những mái đình Việt Nam, những mái đình Hà Bắc với triết lí “
phép vua thua lệ làng”. Đây là những ngôi chùa ẩn trong luỹ tre xanh, biểu
hiện lòng nhân ái của con người Bắc Ninh. Tất cả nổi bật thành những công
trình hoành tráng giữa non sông gấm vóc, hoà với thần thoại, truyền thuyết,
tiếng nói, giàu và đẹp cốt cách làm ăn, phong tục tập quán,lề lối ứng xử xã
hội- tạo thành văn hoá Bắc Ninh” [14, tr.7].
Trần Đình Luyện với cuốn “văn hiến Kinh Bắc” tập 1 giới thiệu một số
di tích lịch sử văn hoá, làng quê, và những danh nhân khoa bảng tiêu biểu trên
nền tảng tinh thần- xã hội tạo dựng “văn hiến Kinh Bắc” là mối liên kết đặc
biệt giữa con người và cộng đồng.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD



7

Trong quyển “Hà Bắc ngàn năm văn hiến” tập 3, các tác giả đã trình
bày những suy nghĩ về văn hoá Lí- Trần trên đất Kinh Bắc xưa, đặc biệt cuốn
sách viết khá rõ về văn hoá sinh hoạt của người dân Kinh Bắc tiêu biểu là sinh
hoạt hát Quan họ với 49 làng quê.
Cuốn “Lịch sử Hà Bắc” tập 1- hội đồng lịch sử Hà Bắc xuất bản năm
1986, đã trình bày về quá trình hình thành và phát triển của thành Luy Lâu,
ngoài ra tác giả có đề cập về một số lễ hội tiêu biểu của Bắc Ninh, cũng như
những làng nghề truyền thống, đặc biệt là làng tranh Đông Hồ.
Cuốn “Địa chí Hà Bắc” thư viện tỉnh Hà Bắc xuất bản 1982. Đây là
cuốn sách tổng hợp nhất khi viết về văn hoá truyền thống Bắc Ninh trên rất
nhiều mặt. Có thể nói là cuốn sách cổ ghi chép khá chi tiết về phong tục tập
quán, lễ hội, các di tích lịch sử, sinh hoạt văn hoá của người dân Kinh Bắc
xưa.
Ngoài ra, một số bài nghiên cứu về từng khía cạnh nào đó của văn hoá
trưyền thống Bắc Ninh đăng trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử như:
- “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” của Giáo sư
Trần Văn Giàu (nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội).
- “Tìm hiểu tính cách dân tộc” của Giáo sư Nguyễn Hồng Phong (nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1963).
- “Giá trị truyền thống- nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển
đất nước, dân tộc” của PGS. PTS Nguyễn Văn Huyên (tạp chí triết học số 4
năm 2006).
- “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển” của
Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn (tạp chí triết học số 6 năm 2002).
Đồng thời vấn đề giá trị văn hoá truyền thống cũng là một lĩnh vực
nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước. Do đó, nó cũng nhận
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD



8

được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như quần chúng nhân
dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận chung về văn hoá, về vai trò của nó, khoá
luận làm rõ hơn vấn đề gìn giữ và phát huy một số giá trị văn hoá truyển
thống cơ bản của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay, và đề xuất một số
giải pháp có tính định hướng trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên khoá luận phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nêu một số quan niệm về văn hoá, xác định khái niệm, cấu trúc, chức
năng của văn hoá, nêu lên cơ sở hình thành nền văn hoá truyền thống Bắc
Ninh.
- Tìm hiểu về một số giá trị văn hoá truyền thống cơ bản của tỉnh Bắc
Ninh từ truyền thống đến hiện đại, thực trạng và vai trò của văn hoá truyền
thống của tỉnh Băc Ninh trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng chiến lược phát
triển văn hoá hướng tới sự phát triển bền vững của tỉnh Bắc Ninh nói riêng và
của đất nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Khoá luận nghiên cứu đề tài: Vấn đề gìn giữ và phát huy giá trị văn
hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Khoá luận đi sâu vào tìm hiểu các vấn đề: Văn hoá, cơ sở hình thành
văn hoá, thực trạng và vai trò của văn hoá đối với sự phát triển lâu bền của

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


9

Bắc Ninh. Do hạn chế về thời gian và kiến thức nên khoá luận chỉ tập trung đi
sâu vào một số giá trị văn hoá truyền thống cơ bản của tỉnh Bắc Ninh.
- Khoá luận lí giải dưới góc độ chủ nghĩa xã hội vấn đề: Vấn đề gìn giữ
và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn
hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nêu trên, khoá luận đã dựa vào một
số cơ sở lí luận; phương pháp luận của chủ nghĩa xã hội khoa học; phân tích-
tổng hợp; phương pháp lịch sử; hệ thống hoá; khái quát hoá;…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Khoá luận làm rõ hơn cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài: Vấn đề gìn
giữ và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn
hiện nay.
- Khoá luận có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong việc tìm
hiểu và nghiên cứu giá trị văn hoá truyền thống của tỉnh Bắc Ninh nói riêng
và của dân tộc Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu của khoá luận
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo còn có
phần nội dung. Phần nội dung thì bao gồm 3 chương cụ thể như sau:
+ Chương 1 : Lí luận chung về văn hoá
+ Chương 2 : Vấn đề gìn giữ và phát huy giá trị văn hoá truyền thống
của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay






Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


10

CHUƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VĂN HOÁ

1.1. Sơ luợc các quan điểm về văn hoá
Văn hóa là sản phẩm do con nguời sáng tạo, từ thủa bình minh của xã
hội loài người. Văn hoá là khái niệm mở, có tính xã hội và tính lịch sử. Cùng
với sự phát triển của xã hội, khái niệm văn hoá luôn đuợc bổ sung và mở
rộng. Vì vậy, từ lâu văn hoá đã đuợc các nhà nghiên cứu cả phương Tây lẫn
phương Đông quan tâm.
* Quan niệm của phương Tây
Ở phương Tây, thuật ngữ văn hoá bắt nguồn từ tiếng Latinh là Cultus
(Cultusagri) có nghĩa là trồng trọt vun xới ngoài đồng, sau đuợc chuyển thành
trồng trọt tinh thần (Cultusanimi).
Vào thế kỉ XVIII, khái niệm văn hoá đuợc tiếp cận như một thuật ngữ
khoa học Pu-phen-đoóc (Pufendorf)- nhà nghiên cứu pháp luật nguời Đức là
nguời đầu tiên đưa thuật ngữ văn hoá vào khoa học. Ông cho văn hoá là tất cả
những gì đối lập với tự nhiên. Quan điểm này hiểu văn hoá quá rộng sau Pu-
phen-đoóc, Hécđe (Hender) cho rằng: “Văn hoá là sự hình thành lần thứ hai
của con người”, ông nói: lần thứ nhất con người xuất hiện như một thực thể tự
nhiên, lần thứ hai con người hình thành như một thực thể xã hội, tức là văn
hoá theo nghĩa toàn vẹn của từ này.
Đây là quan niệm tiêu biểu nhất của thế kỉ này, nó có ý nghĩa to lớn
đánh dấu việc con người bằng văn hoá đã vạch ra đường ranh giới tách mình

ra khỏi các hình thức tồn tại khác của vật chất, tách con người ra khỏi giới
động vật. Nó đánh dấu việc chuyển từ tư duy tôn giáo sang tư duy trí tuệ,
khắc phục những hạn chế trong quan niệm trung cổ về con người.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


11

Đến thế kỉ XIX, thuật ngữ văn hoá được những nhà nhân loại học
phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn
hoá(văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ
cao nhất và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vậy, họ cho cho rằng,
bản chất của văn hoá hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành
văn minh, đại biểu là E.B Taylo (E.B Taylor) theo ông, văn hoá là toàn bộ
phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, phong tục,
những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một
thành viên của xã hội.
Học thuyết văn hoá giữ một địa vị khá quan trọng trong hệ thống triết
học của Kantơ (E.Kant); Hêgghen (Hêgel)…. Các nhà triết học Đức đều có
quan điểm duy tâm về văn hoá coi nhẹ cơ sở vật chất về văn hoá. Kantơ quan
niệm về văn hoá là sự phát triển, sự bộc lộ khả năng, sức mạnh, các năng lực
thiên bẩm ở người ở. Hêghen lại đồng nhất văn hóa với giáo dục.
Các nhà khai sáng Pháp cũng rất quan tâm đến văn hoá. Vôn-te cho văn
hoá là văn minh, là sự phát triển các ngành nghề. Rút-xô quan niệm văn hoá
là một hiện tượng xã hội và chỉ ra rằng tư hữu tư sản là nguồn gốc của sự đồi
bại về đạo đức.
Trong xã hội phương Tây hiện đại, khái niệm văn hoá được phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú. Dựa trên các quan niệm khác nhau về văn
hoá mà các nhà nghiên cứu xếp thành những nhóm định nghĩa nhất định như:
- Định nghĩa mang tính chất miêu tả

- Định nghĩa mang tính chất lịch sử, nhấn mạnh vào sự kế thừa di sản
xã hội.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào nếp sống xã hội.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào tính thích ứng con người.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


12

- Định nghĩa nhấn mạnh vào tính chất di truyền xã hội, tức khả năng
học tập của con người.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào phương thức ứng xử.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào khía cạnh tư tưởng của văn hoá.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào phương diện giá trị của văn hoá.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào hoạt động sạng tạo lịch sử, nhằm hình
thành nên hệ thống giá trị xã hội.
- Định nghĩa nhấn mạnh vào mô hình các thể chế xã hội.
- Định nghĩa mang tính chất điều khiển học, nhấn mạnh vào phương
diện thông tin của văn hoá
Đặc điểm chung của các nhóm định nghĩa văn hoá trên đây là các nhà
nghiên cứu thường nhấn mạnh vào một khía cạnh nào đó của văn hoá, phù
hợp với cách tiếp cận của họ.
Sang thế kỉ XX, khái niệm văn hoá thay đổi, theo F.Bao(F.Boas) ý
nghĩa văn hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt
nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá
từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối
luận” của văn hoá. Văn hoá không xét theo ở mức độ thấp cao mà ở góc độ
khác biệt. Như vậy, trong lịch sử phương Tây từ cổ đại đến hiện đại đã tồn tại
rất nhiều các quan niệm khác nhau về văn hoá.
* Quan niệm của phương Đông

Ở phương Đông khái niệm văn hoá cũng đựơc xác định và bổ sung theo
tiến trình lịch sử. Ở Trung Quốc khái niệm văn hoá xuất hiện khá sớm. Trong
Chu Dịch quẻ Bi đã có từ văn và hoá: xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo
hoá thiên hạ. Về sau văn hoá được dùng với nghĩa “văn trị giáo hoá” nghĩa là
dùng thi, thư, lễ, nhạc để cai trị thiên hạ. Văn là cái đẹp, hoá là hoá thành cái
đẹp, giáo là giáo dục. “văn trị giáo hoá” là dùng cái đẹp để giáo dục thiên hạ,
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


13

để họ cảm nhận được chân lí và tuân theo. Văn hoá với hàm nghĩa “văn tự
giáo hoá” được dùng tới thế kỉ XIX.
Như vậy, từ thời cổ đại quan niệm về văn hoá ở phương Đông và
phương Tây đều có điểm giống nhau: coi văn hoá gắn với giáo dục. Nhưng ở
phương Đông quan niệm văn hoá chịu ảnh hưởng khá rõ nét của tư tưởng
Nho giáo.
Quan niệm về văn hoá của các nhà nghiên cứu Việt Nam trong dòng
chảy chung của nhân loại cũng dần hình thành. Tiêu biểu là của Đào Duy
Anh- một nhà nghiên cứu văn hoá. Trong “Việt Nam văn hoá sử
cương”(1938) ông quan niệm: văn hoá là sinh hoạt. Điều kiện của mỗi dân tộc
khác nhau do đó đời sống tinh thần của họ khác nhau, sinh hoạt là tiêu chí để
thấy sự khác nhau giữa các dân tộc.
Phạm Văn Đồng- nhà chính trị, nhà văn hoá Việt Nam, trong tác phẩm
“văn hoá và đổi mới” đưa ra định nghĩa: “Nói một cách đơn giản và theo
nghĩa rộng thì văn hoá là tất cả những gì không phải của thiên nhiên mà là tất
cả những gì ở trong con người do con người làm ra”.
Trường Chinh trong “chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam”(1949): văn
hoá là một vấn đề rất lớn bao gồm cả văn hoá, văn nghệ, khoa học, triết học,
phong tục, tập quán, tôn giáo…

Căn cứ vào nghĩa gốc của Culute trong tiếng Latinh, giáo sư Vũ Khiêu-
nhà văn hoá học Việt Nam cho rằng: “văn hoá thể hiện trình độ được vun
trồng của con người, của xã hội… văn hoá là trạng thái của con người ngày
càng tách ra khỏi giới động vật, ngày càng xoá bỏ những đặc tính của động
vật, để khẳng định những đặc tính cuả con người” [13, tr.21].
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong
lĩnh vực nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về văn hoá.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


14

Quan điểm về văn hoá trong học thuyết Mác tiếp nhận các yếu tố hợp lí
trong quan điểm văn hoá của loài người. Các ông xem xét sự vận động cuả
giá trị văn hoá gắn với sự vận động của phương thức sản xuất và của đấu
tranh giai cấp. Tìm nguyên nhân kinh tế- xã hội làm cho con người bị tha hoá,
giải phóng và phát triển những năng lực, bản chất của con người.
Nói về sự sáng tạo các giá trị văn hoá, C. Mác và Ăngghen bàn về các “
lực lượng bản chất người”. Trong “ bản thảo kinh tế triết học”, C. Mác viết:
“chúng ta nhận thấy lịch sử công nghiệp và sự tồn tại của nền công nghiệp là
quyển sách mở của lực lượng sản xuất người”. Trong một tác phẩm khác, C.
Mác và Ăngghen viết: “của cải là gì nếu không phải là sự biểu hiện tuyệt đối
của những tài năng sáng tạo của con người không cần đến tiền đề nào khác
ngoài sự phát triển đã có, sự phát triển vốn lấy cái chỉnh thể của sự phát triển
làm mục đích tự thân, tức là mọi lực lượng bản chất người, bất chấp mọi quy
luật đã định trước. Căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người biến thành
bản chất người. Tức là mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo thì
có thể xét được trình độ văn hoá chung của con người” [2, tr.39].
Như vậy, C. Mác và Ăngghen lần đầu tiên chứng minh tính chất xã hội

của các lực lượng bản chất người. Một trong các lực lượng bản chất ấy là sức
lao động, là tài năng sáng tạo cuả con người. Đó không phải là lực lượng bẩm
sinh, xuất hiện một cách tự nhiên mà chúng biến đổi do tác động của các quan
hệ sản xuất, do trình độ phát triển văn hoá. Các lực lượng ấy được khách thể
hoá thông qua hoạt động cải tạo thế giới của con người, chính hoạt động này
là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời sống xã hội.
Vậy là, xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, C.Mác và
Ăngghen đã đưa ra khái niệm về văn hoá. Theo đó cách tiếp cận này, văn hoá
là sản phẩm sáng tạo của con người. Nó bao gồm hai lĩnh vực là văn hoá vật
chất và văn hoá tinh thần. Hai lĩnh vực này quan hệ biện chứng với nhau. Sự
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


15

phân chia như vậy chỉ có ý nghĩa tương đối. Văn hoá là sản phẩm của một quá
trình lịch sử - xã hội, do đó là một hiện tượng lịch sử và xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ cách mạng Việt Nam, danh nhân văn
hoá thế giới thế kỉ XX tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là tinh
thần chủ nghĩa Mác, suy ngẫm về văn hoá, Người viết “vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó, tức là văn hoá. Văn hoá là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với bỉểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”
[12, tr.413].
Để xây dựng nền văn hoá mới sau khi giành được độc lập phải có
nguồn lực con người. Con người có học vấn, có đời sống vật chất đảm bảo và
sống trong hoà bình ổn định và yếu tố quan trọng nhất trong sự nghiệp đó. Vì

vậy, Người đã phát động phong trào ba chống: chống giặc đói, giặc dốt và
giặc ngoại xâm. Ngay từ những năm đầu cách mạng tháng Tám, Người cho
rằng: “văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất”.
Tóm lại, điểm thống nhất giữa quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và
tư tưởng của các nhà sáng lập ra học thuyết mácxít ở chỗ: các ông đều xem
xét lao động là sáng tạo, là cội nguồn của văn hoá.
Tại hội nghị quốc tế Mêhicô, do UNESCO chủ trì từ ngày 26/7 đến
ngày 6/8/1983 người ta đã đưa ra 200 định nghĩa. Đến ngày 21/1/1988, khi
phát động “thập kỉ thế giới phát triển văn hoá”; ông tổng giám đốc UNESCO
khi ấy là Federico Mayor cũng đưa ra một định nghĩa như sau: “văn hoá phản
ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống con
người đã diễn ra trong quá khứ và cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


16

hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị truyền thống,
thẩm mĩ và lối sống mà dựa trên điều kiện từng dân tộc để tự khẳng định bản
sắc riêng của mình” [4, tr. 18].
Ngày nay các định nghĩa về văn hoá tiếp tục tăng lên. Theo thống kê
của hai nhà văn hoá học người Mĩ là Cô- rô- bơ và Cơ- lác- khôn, tính đến
năm 1950 đã có 164 định nghĩa văn hoá. Theo nhà xã hội học người Pháp là
Moles, đến năm 1967 có 250 định nghĩa, và đến năm 1994 theo Phan Ngọc-
nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam, tổng kết có khoảng 400 định nghĩa văn
hoá.
1.2. Định nghĩa văn hoá và văn hoá truyền thống
* Định nghĩa văn hoá
Tiếp thu tinh thần chung của các quan niệm văn hoá chúng ta có thể
hiểu “văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con

người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người vời môi trường tự nhiên và xã hội” (2, tr,102).
Khi nói đến văn hoá là nói đến những giá trị, đó là những giá trị tốt
đẹp. Nói đến giá trị là nói đến cái tốt, cái hay con người cần phải có để cuộc
sống con người thực sự có tính người. Đó là chuẩn mực của chân- thiện- mĩ.
Các hành vi tham nhũng, ăn hối lộ, chiến tranh phá hoại… đều là những hành
vi phản giá trị bị xã hội lên án, bài trừ lí tưởng mà mọi xã hội đều hướng tới là
công bằng, bình đẳng, không có áp bức bóc lột, mọi người được sống tự do,
hạnh phúc, cùng đoàn kết đưa xã hội phát triển. Nói đến văn hoá không chỉ đề
cập đến những giá trị văn hoá riêng lẻ mà là nói đến tổng thể các giá trị vật
chất và giá trị tinh thần. Trong đó mọi giá trị văn hoá đều quan hệ với nhau và
cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội. Nói văn hoá là một tổng thể vì
chúng có mặt trong mọi hoạt động sống của con người: văn hoá, giáo dục, văn
hoá đạo đức, văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật… đặc biệt văn hoá trong
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


17

sản xuất vật chất thuộc quan hệ xã hội nói chung. Bản thân các lĩnh vực này
xét một cách thuần tuý thì chưa gọi là văn hoá, chỉ khi nào bản thân các lĩnh
vực đó phù hợp cuộc sống con người, đáp ứng các mục tiêu nhân bản vì sự
phát triển của con người thì nó mới có văn hoá. Ví dụ: khi sản xuất công cụ
phục vụ lao động là văn hoá, nhưng sản xuất những vũ khí nhằm phục vụ
chiến tranh phá hoại lại là phi văn hoá.
Nói đến văn hoá là nói đến những gì con người sáng tạo ra. Văn hoá là
sản phẩm do con người sáng tạo nên. Nói cách khác, là cái tự nhiên thứ hai do
con người nhận thức thế giới và tự ý thức về mình, nó tạo nên một thế giới tối
ưu cho mình. Sự sáng tạo không phải là bừa bãi mà theo quy luật của tự
nhiên, của xã hội. Văn hoá là kết quả của một quá trình hoạt động thực tiễn,

từ thực tiễn con người nhào nặn tự nhiên tạo ra cái mới. Chính quá trình đó và
thành quả của nó mới là văn hoá. Tư liệu sinh hoạt như: cơm ăn, áo mặc hàng
ngày đến các tư liệu sản xuất đều là thành quả của lao động. Nhờ lao động mà
con người có được các công trình kiến trúc như: Vạn Lí Trường Thành, Kim
Tự Tháp, các công trình công cộng, viện bảo tàng… ngày nay vẫn còn tồn tại.
Những công cụ sinh hoạt ngày càng tinh vi, hiện đaị là điều kiện cho
con người khám phá thế giới tự nhiên và hiểu sâu sắc chính bản thân mình.
Có thể nóí văn hoá là sản phẩm, là kết quả những sáng tạo mà con người có
được từ hoạt động thực tiễn. Và nói đến văn hoá là nói đến một hiện tượng
mang tính lịch sử. Theo dòng lịch sử, những gì tốt đẹp đều được loài người
lưu giữ, tích luỹ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Kho tàng giá trị văn
hoá không ngừng được chắt lọc bổ sung thêm phong phú và giàu có. Văn hoá
là tổng thể những giá trị tốt đẹp của một cộng đồng người trong quá trình lịch
sử lâu dài. Nó thể hiện sức sống và bản lĩnh của một dân tộc.
* Giá trị truyền thống
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


18

Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những yếu tố của di tồn
văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập
quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của cộng đồng người được hình
thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời
khác và được lưu giữ lâu dài. Lịch sử cho thấy rằng truyền thống mang trong
bản thân nó tính hai mặt rõ rệt:
Một là, truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì là quý giá, là
cốt cách, là nền tảng cho sự phát triển, cho sự vận động đi lên của cộng đồng
dân tộc. Xét từ mặt này thì truyền thống mang ý nghĩa tích cực, là cái góp
phần tạo nên sức mạnh, là chỗ dựa không thể thiếu của dân tộc trên đường đi

tới tương lai
Hai là, truyền thống đồng thời cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi
cho sự dung dưỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi
mà điều kiện và hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Mặt thứ hai này có tác dụng
không nhỏ trong việc kìm hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển của một quốc
gia, dân tộc này hạn chế giao lưu hoặc thi hành chính sách đóng cửa với thế
giới bên ngoài vì các lí do khác nhau. Nói cách khác, khi nói đến giá trị truyền
thống là nói đến những truyền thống nào đã có sự đánh giá, đã được thẩm
định nghiêm ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng
định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng trong những giai đoạn lịch
sử nhất định. Mỗi dân tộc trên khắp hành tinh này, dù ở trình độ văn minh cao
hay thấp, dù đã phát triển hay đang phát triển thì cũng đều có những truyền
thống đặc trưng của riêng mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh tất cả
những gì tốt đẹp nhất qua các thời đại lịch sử khác nhau của dân tộc để làm
nên bản sắc riêng. Nó được truyền lại cho thế hệ sau và cùng với thời gian,
cùng với sự tiến triển của lịch sử sẽ được bổ sung bằng các giá trị mới. Trong
hệ thống các giá trị truyền thống Việt Nam có không ít những giá trị mà
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


19

chúng ta có thể bắt gặp ở các dân tộc khác. Điều đó cũng thật dễ hiểu bởi vì
trong cái dân tộc không bao giờ nằm ngoài cái nhân loại.
* Khái niệm văn hoá truyền thống
Truyền thống là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, không thể nói đến
sự phát triển nếu không có sự kế thừa và phát huy những gì tốt đẹp có trong
quá khứ.
Thuật ngữ truyền thống xuất phát từ tiếng Latinh ( Traditio) có nghĩa là
lưu truyền, luân chuyển, mang lại, trao lại. Bách khoa toàn thư Liên Xô định

nghĩa “truyền thống là tục lệ, trật tự, quy tắc cư xử truyền từ đời này qua đời
khác”. Từ điển tiếng Việt giải thích “truyền thống là đức tính, tập quán, tư
tưởng, lối sống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”.
Giáo sư Phan Ngọc Liên cho rằng: “truyền thống là những hoạt động
mang tính chất xã hội được lặp đi lặp lại nhiều lần và cố định ở một thời điểm
lịch sử nào đó. Truyền thống ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm và tính cách của
con người trong môi trường phổ biến của nó. Truyền thống không phải là
hành động ngẫu nhiên, bất kì khi đã hình thành, truyền thống được tư tưởng
gìn giữ, bảo vệ, phát triển, nhưng cũng có thể bị loại trừ khi nó không còn phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội mới” [38,13].
Theo giáo sư Phan Trọng Luân “ truyền thống bao gồm những lĩnh vực
tinh thần và vật chất. Đó là những định chế, những khế ước xã hội, là những
chuẩn mực đạo lí, hoặc những cái đẹp hơn, nhiều khi chỉ là một thứ tục lệ,
một thói quen thuộc thang giá trị lâu đời…nhưng tất cả đã ăn sâu vào đời
sống tâm linh của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội và mỗi cá thể trong
cộng đồng như một thứ bản lĩnh, bản năng tri phối hàng ngày, hàng giờ từng
hành vi ứng xử của mỗi con người” [26, tr.10]. Giáo sư Hà Văn Tấn nêu rõ
đặc điểm cơ bản của truyền thống là: tính ổn định, tính bền vững, “tương
đối”, tính chuyển biến.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


20

Truyền thống là cái trong lịch sử, trong những điều kiện lịch sử nào đó,
nhưng có khi những điều kiện đó không còn nữa, mà truyền thống vẫn còn.
Đó là biểu hiện tính bền vững của truyền thống. Tính bền vững tương đối của
truyền thống là truyền thống có thể bị suy thoái hoặc mất đi. Truyền thống
thường mất đi khi các điều kiện làm nảy sinh nó hay đã nuôi dưỡng nó không
được duy trì. Lúc đó nảy sinh ra hiện tượng “đứt gãy truyền thống” [25,

tr.23]. Mặt khác trong những điều kiện xã hội mới của xã hội, các truyền
thống mới lại nảy sinh, cùng với thời gian sẽ cố định trở lại thành bền vững.
Truyền thống tốt và truyền thống xấu lại là hai mặt đối lập trong truyền thống
dân tộc cùng hình thành trong lịch sử cộng đồng dân tộc, từ những điều kiện
lịch sử tự nhiên, xã hội nhất định chịu tác động của tính cộng đồng và tính
giai cấp của dân tộc. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định “thói quen và
truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng
tiến bộ, chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn
thận, rất chịu khó, rất lâu dài [24, 14].
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu “truyền thống là những
yếu tố sinh hoạt văn hoá, tư tưởng, tình cảm,… hình thành trong quá trình lịch
sử của mỗi dân tộc, của mỗi giai cấp, một địa phương, một đơn vị nào đó,
truyền từ đời này sang đời khác, thế hệ trước sang thế hệ sau. Truyền thống có
phần tích cực giúp vào sự tồn tại và phát triển, như truyền thống yêu nước, lao
động (truyền thống tốt đẹp) cũng có phần tiêu cực xoá bỏ” [28, 127].
Như vậy, truyền thống không phải là một cái gì có sẵn nảy sinh trong
một thời gian và bất biến mà là chuẩn mực, quy tắc ứng xử xã hội của một
cộng đồng lớn hay nhỏ được lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ trong một không
gian ít thay đổi lớn và ăn sâu vào tiềm thức, tình cảm của con người trong đời
sống hàng ngày của mỗi cộng đồng xã hội. Vì thế nhận thức được đặc điểm
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


21

và bản chất của truyền thống giúp chúng ta biết trân trọng gìn giữ và phát huy
truyền thống tốt đẹp, đồng thời biết cải tạo truyền thống xấu.
Điều này đối lập với những quan điểm sai lầm của các học giả và tiến sĩ
khi cho rằng: truyền thống là vĩnh cửu bất biến, chỉ có truyền thống tốt, không
có truyền thống xấu, chỉ cần kế thừa phát huy mà không cần phải thay đổi

hoặc bổ sung. Nhưng truyền thống chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi được
vun xới chăm chút một cách công phu, lâu dài bằng những biện pháp, hình
thức có tầm cỡ chiến lược xã hội cho đến hành vi cụ thể hàng ngày trong sinh
hoạt gia đình, học đường của mỗi con người cụ thể [16, tr.10].
Từ những định nghĩa của truyền thống nêu trên sẽ là cơ sở để xác định
những thành tố của truyền thống để dạy cho thế hệ sau. Truyền thống bao
gồm những thành tố cơ bản sau:
- Một là: Tập hợp những tư tưởng tình cảm, những tập quán, thói quen
của một cộng đồng (khi nghiên cứu từng truyền thống để tăng tính cụ thể và
để xác định rõ hơn nội dung của truyền thống, nên cụ thể hoá truyền thống
thành quan niệm, tình cảm, thái độ).
- Hai là: Được hình thành trong lịch sử và đã trở thành ổn định.
- Ba là: Được lưu truyền từ đời này qua đời khác.
- Bốn là: Được biểu hiện trong tâm lí, lối sống của cộng đồng (với ý
nghĩa lối sống là toàn bộ hoạt động sống của con người).
Vậy truyền thống chính là một bộ phận của văn hoá nó thể hiện tính
liên tục của văn hoá, đánh dấu trình độ phát triển và tương đối ổn định của
văn hoá trên các lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, biểu hiện
mối quan hệ giữa người với người, ổn định mối quan hệ trong gia đình và
ngoài xã hội thoả mãn những nhu cầu tiến bộ và hạnh phúc của cá nhân.
1.3. Cấu trúc và chức năng của văn hoá
* Cấu trúc văn hoá
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


22

Do nhiếu cách tiếp cận trong việc nghiên cứu văn hoá vì vậy có nhiều
quan điểm khác nhau về cấu trúc của văn hoá. Một số tác giả chia văn hoá
thành: văn hoá vật chất; văn hóa xã hội; văn hóa tinh thần hay văn hoá tư

tưởng… song cách chia phổ biến và thường được nhiều người thừa nhận hơn
cả là cách tiếp cận chia văn hoá thành hai lĩnh vực: văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần. Con người có hai nhu cầu cơ bản là: nhu cầu vật chất và nhu
cầu về mặt tinh thần. Từ đó các dạng tồn tại của văn hoá (văn hoá vật thể và
văn hoá phi vật thể) chính là cơ sở của cách phân chia này.
Văn hoá vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được
thể hiện trong các sản phẩm vật chất do xã hội tạo ra, kể cả các tư liệu sản
xuất cho đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn khác nhau
của xã hội, các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai
đoạn khác nhau của xã hội. Những sản phẩm vật chất do con người tạo ra như
đồ ăn, đồ mặc, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, phương tiện đi lại… là các giá
trị văn hoá vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, hoạt động khoa
học, con người không ngừng chinh phục tự nhiên, tôn tạo thêm những cảnh
đẹp thiên nhiên để chúng trở thành những danh lam thắng cảnh, những kì
quan phục vụ chính con người, đó là: vịnh Hạ Long, Hội An, rừng Cúc
Phương,… Những giá trị văn hoá vật chất, vì thế mà ngày càng phong phú
thêm theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
Văn hoá tinh thần là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao
gồm cả khoa học và nghiên cứu để áp dụng những thành tựu khoa học vào sản
xuất và sinh hoạt, trình độ học vấn, giáo dục y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo
đức trong hành vi của các thành viên trong xã hội, trình độ phát triển nhu cầu
của con người,… văn hoá tinh thần còn thể hiện trong những phong tục, tập
quán, trong những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


23

Việc phân chia văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ là tương đối,
không thể quá tách bạch giữa các lĩnh vực. Bởi lẽ, ngay trong văn hoá vật thể

lại có văn hoá phi vật thể và ngược lại. Những giá trị văn hoá thường gắn với
cá nhân nhưng trong các cá nhân đó đã thể hiện tính xã hội, cá nhân tạo ra sản
phẩm văn hoá dựa trên cơ sở xã hội nhất định. Giá trị văn hoá của cá nhân
cũng mang tính xã hội, có tính xã hội khi được xã hội công nhận. Cho nên văn
hoá mang tính xã hội cùng với lịch sử các giá trị văn hoá được lưu truyền qua
các thế hệ, tạo nên bản sắc văn hoá của các dân tộc và khẳng định sự tồn tại
của dân tộc ấy.
Chủ nghĩa Mác- Lê coi văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần có quan
hệ biện chứng với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Khi xã hội phát triển,
nhu cầu vật chất tăng lên. Sự sáng tạo các giá trị vật chất phát triển đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng lên đó. Nhu cầu vật chất phát triển kéo theo nhu cầu
tinh thần cũng phát triển. Nhu cầu tinh thần phát triển đến một mức độ nhất
định sẽ tác động trở lại làm cho nhu cầu vật chất phát triển cao hơn. Do đó,
những sáng tạo vật chất và tinh thần tác động thúc đẩy nhau cùng phát triển.
* Chức năng của văn hoá
Văn hoá thực hiện chức năng cơ bản sau:
- Chức năng tổ chức xã hội
Đây là chức năng quan trọng của văn hoá. Cơ sở xuất phát hình thành
chức năng nay là đặc trưng tính hệ thống của văn hoá. Văn hoá có tính hệ
thống, hệ thống đó bao gồm những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần
có quan hệ hữu cơ với nhau bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhờ
đó văn hoá thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Xã hội loài người được
tổ chức theo những cách thức đặc biệt thành những làng xã, quốc gia, đô thị,
tổ nhóm… mà giới động vật chưa hề biết tới- đó là nhờ văn hoá. Làng xã,
quốc gia, đô thị của mỗi dân tộc lại cũng khác nhau, do đó văn hoá khác nhau,
mỗi dân tộc lai có bản sắc văn hoá riêng.
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD


24


Hệ thống văn hoá bao trùm lên mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Thực hiện chức năng tổ chức xã hội, văn hoá là yếu tố thường xuyên làm tăng
sự ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội những phương cách ứng phó với
môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
- Chức năng điều chỉnh xã hội
Cơ sở của chức năng điều chỉnh xã hội là tính giá trị của văn hoá. Văn
hoá gắn liền với những giá trị của nó. Đó là những cái tốt đẹp đối lập với
những cái phi giá trị và xấu xa. Văn hoá vì vậy là thước đo giá trị nhân bản
của xã hội và con người.
Nhờ việc thường xuyên sàng lọc, tích luỹ và tạo nên giá trị mà văn hoá
thực hiện được chức năng điều chỉnh xã hội. Trong những điều kiện lịch sử
nhất định, hệ giá trị cũng được thay đổi để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của
văn hóa. Văn hoá là căn cứ để đánh giá đúng, sai của hoạt động con người.
Mọi sinh hoạt đều có khả năng thích nghi với môi trường xung quanh bằng
cách tự biến đổi mình sao cho phù hợp với môi trường tự nhiên qua cơ chế di
truyền và chọn lọc tự nhiên. Con người thì hành xử theo một cách thức hoàn
toàn khác, đó là dùng văn hoá để biến đổi tự nhiên phục vụ cho mình bằng
cách tạo ra đồ ăn, quần áo, nhà cửa, vũ khí máy móc, thuốc men [20, tr. 35].
Những hành động phản giá trị sẽ bị lên án, trừng trị theo pháp luật. Trong bối
cảnh đầy phức tạp và biến động của xã hội hiện đại thì những giá trị văn hoá
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sự cân bằng và định
hướng phát triển của xã hội. Nó duy trì xã hội trong trạng thái cân bằng động.
Nó giúp xã hội tự hoàn thiện thích ứng với những biến đổi của môi trường.
Nhờ chức năng điều chỉnh mà văn hoá trở thành chuẩn mực, mục tiêu và động
lực của sự phát triển trong xã hội loài người.
- Chức năng giáo dục
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Lan – K33A GDCD



25

Đây là chức năng bao trùm nhất của văn hoá. Nói cách khác, chức năng
tập trung của văn hoá là bồi dưỡng con người, hướng lí tưởng, đạo đức và
hành vi con người vào “điều hay lẽ phải, điều khôn lẽ thiệt”,… theo những
khuôn mẫu, chuẩn mực mà xã hội quy định [26, tr.102].
Văn hoá bao giờ cũng hình thành trong mọi quá trình và được tích luỹ
qua nhiều thế hệ, mang tính lịch sử và tạo ra cho xã hội một bề dầy, bề sâu.
Tính lịch sử tạo nên truyền thống văn hoá, đó là những giá trị tương đối ổn
định được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời
gian, được đúc kết thành khuôn mẫu xã hội và cố định hoá dưới dạng ngôn
ngữ, phong tục tập quán, nghi lễ, pháp luật, dư luận.
Văn hoá giáo dục các thế hệ kế tiếp gìn giữ những giá trị văn hoá
truyền thống: tinh thần yêu nước, đoàn kết, tính tự lực, tự cường,… những
phong tục tập quán tốt đẹp… Văn hoá làm hình thành nhân cách con người,
dưỡng dục nhân cách con người, tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội.
Trong mỗi chế độ khác nhau tồn tại những hệ giá trị khác nhau. Trong
xã hội phong kiến phương Đông, việc giáo dục con người chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi các chuẩn mực giá trị của Nho giáo tạo ra mẫu người thụ động
luôn tuân theo khuôn phép nghiêm ngặt. Ngày nay, hệ giá trị mới sẽ tạo ra
những nhân cách mới, năng động, nhanh nhạy, sáng tạo,… đáp ứng yêu cầu
của xã hội. Văn hoá thực hiện nhiệm vụ này thông qua chức năng giáo dục.
- Chức năng giao tiếp
Văn hoá mang tính nhân bản. Mọi giá trị văn hoá đều do con người
sáng tạo ra, đều mang dấu ấn của con người. Nhờ tính nhân bản, văn hoá trở
thành sợi dây nối liền con người với con người. Văn hoá thực hiện chức năng
giao tiếp và có tác dụng liên kết các thế hệ với nhau. Qua các sản phẩm văn
hoá, chúng ta có thể hiểu văn hoá của cha ông, đánh giá được trình độ phát
triển xã hội qua từng giai đoạn lịch sử xã hội. Văn hoá là trung gian để thế hệ

×