Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở tỉnh Hưng Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 95 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LƯU THỊ HÀ



PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC -
CÔNG NGHỆ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học







HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LƯU THỊ HÀ



PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC -
CÔNG NGHỆ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08




Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Nguyễn Anh Tuấn



HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan này luận văn thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của
tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS,TS. Nguyễn Anh Tuấn. Luận văn có sự kế
thừa các công trình nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc và có sự bổ sung
của những tƣ liệu đƣợc cập nhật mới nhất.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.

Người cam đoan




Lưu Thị Hà

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn quá trình dạy
dỗ tận tình, thấu đáo của các thầy, cô giáo khoa Triết học, trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Đặc biệt, em gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS,TS. Nguyễn Anh
Tuấn, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện luận
văn thạc sĩ. Sự chỉ bảo tận tình của thầy đã tạo động lực và giúp đỡ em hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, nhƣng do thời gian có hạn nên luận văn
không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của
các thầy, cô giáo để em có thể tiếp tục phát triển hƣớng nghiên cứu này.

Hà Nội, ngày 05 tháng 09 năm 2014
DANH LỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Công nhân : CN
Công nhân kỹ thuật : CNKT
Công nghệ thông tin : CNTT
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa : CNH, HĐH
Khoa học – công nghệ : KH-CN
Khoa học xã hội nhân văn : KHXHNV
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1

2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 7
8. Kết cấu của luận văn 7
CHƢƠNG 1. NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 8
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ 8
1.1. Nguồn nhân lực và nguồn nhân lực khoa học - công nghệ 8
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực 9
1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực khoa học - công nghệ 18
1.2. Phát triển nguồn nhân lực KHCN 22
1.3 Vai trò của phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ 28
Kết luận chương 1 34
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ Ở TỈNH HƢNG YÊN HIỆN NAY 35
2.1. Các nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực khoa học – công
nghệ tỉnh Hưng Yên 35
2.1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên, môi trường và dân số 35
2.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội 37
2.1.3. Lợi thế và khó khăn, thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội 39
2.2 Thực trạng phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ ở tỉnh Hưng
Yên hiện nay 40
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học –
công nghệ ở tỉnh Hưng Yên 59
2.3.1. Đẩy mạnh và làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền để nâng cao nhận
thức, thay đổi tâm lý xã hội, tạo động lực phát triển nhân lực chất lượng cao . 59
2.3.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục - đào tạo là biện pháp có tầm quyết định
hàng đầu trong phát triển nhân lực khoa học – công nghệ 61

2.3.3. Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất - kỹ thuật 68
2.3.4. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách phát triển nhân lực khoa học – công
nghệ 69
2.3.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong phát
triển khoa học - công nghệ 76
Kết luận chương 2 80
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83













1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang tác động
mạnh mẽ, sâu sắc đến quá trình phát triển của xã hội loài ngƣời. Không có
một quốc gia nào trên thế giới ngày nay lại không nhận thấy sự cần thiết và
cấp bách phải nắm lấy khoa học và công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội,
làm cho dân giàu, nƣớc mạnh và nâng cao vị thế quốc tế của mình.

Tuy nhiên, một chiến lƣợc phát triển đất nƣớc bằng khoa học và công
nghệ chỉ có thể thành công khi hoạch định đƣợc một chính sách khoa học và
công nghệ đúng đắn mà nội dung chủ yếu của chính sách ấy là phát triển các
nguồn lực khoa học và công nghệ.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của khoa học và công nghệ trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ƣơng ĐCSVN Khóa VIII ngày
24/12/1996 về “Định hƣớng chiến lƣợc phát triển khoa học và công nghệ trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000” Đảng ta đã
nhấn mạnh: “Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc
gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài ngƣời”, đồng thời
Nghị quyết cũng đã vạch ra phƣơng hƣớng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nƣớc ta là: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc phải bằng và dựa
vào khoa học và công nghệ; cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” [16, 48-59].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VIII của Đảng đã khẳng
định từ nay đến năm 2020 phải “ra sức phấn đấu để đƣa nƣớc ta cơ bản trở
2

thành nƣớc công nghiệp”; “khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao dân trí, bồi dƣỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con ngƣời Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [15, 19-21].
“Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Khoa học và công nghệ
giữ vai trò then chốt trong sự phát triển lực lƣợng sản xuất hiện đại, bảo vệ
tài nguyên và môi trƣờng, nâng cao năng suất, chất lƣợng, hiệu quả, tốc độ

phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công
nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, phát
triển kinh tế tri thức, vƣơn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng
bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ gắn với phát triển văn hóa và nâng
cao dân trí” [24, 78].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XI của Đảng ta đồng thời
với việc tiếp tục khẳng định quan điểm xuyên suốt, coi “Phát triển khoa học và
công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”, đã
nhấn mạnh sự cần thiết phải “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ làm
động lực nâng cao năng suất, chất lƣợng, hiệu quả, phát triển nhanh, bền vững
nền kinh tế. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, chính sách
phát triển khoa học và công nghệ; gắn các mục tiêu, nhiệm vụ khoa học, công
nghệ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội” [24, 42].
Cũng nhƣ các địa phƣơng trong cả nƣớc, tỉnh Hƣng Yên chỉ có thể thực
hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 và
đi đến thành công trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh khi thực hiện tốt chiến
lƣợc con ngƣời, phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực KH-CN.
3

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, mật độ dân số đông,
nguồn lao động dồi dào trong quá trình phát triển tỉnh Hƣng Yên luôn luôn
quan tâm tới công tác phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực
KH-CN. Nguồn nhân lực của tỉnh Hƣng Yên đã có những chuyển biến tích
cực về số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu. Tuy nhiên, nguồn nhân lực KH-CN
của tỉnh vẫn còn nhiều yếu kém: số lƣợng chƣa nhiều, chất lƣợng còn thấp,
cán bộ KH-CN đầu ngành còn rất ít và đang có nguy cơ hụt hẫng, cơ cấu
phân bố nhân lực chƣa hợp lý…
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hƣng Yên lần thứ XVII (năm 2010)
đã đề ra nhiệm vụ: “Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ gắn

với giải quyết việc làm cho ngƣời lao động; nâng cao chất lƣợng nguồn nhân
lực; coi trọng chất lƣợng, hiệu quả, tăng trƣởng và phát triển bền vững” [26,
20] nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh một trong những
vấn đề cấp bách nhất là phát triển nhanh nhân lực chất lƣợng cao, trong đó có
bộ phận nhân lực KHCN.
Với lý do đó, tôi chọn vấn đề Phát triển nguồn nhân lực khoa học
công nghệ ở tỉnh Hưng Yên hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ngày nay, cả trên bình diện lý luận và thực tiễn ngƣời ta đều nhất trí
khẳng định rằng, sự phát triển kinh tế của bất kì quốc gia nào cũng tùy thuộc
vào nguồn lực con ngƣời là chủ yếu thay vì dựa vào tài nguyên thiên nhiên,
nguồn vốn vật chất nhƣ trƣớc đây. Các lý thuyết tăng trƣởng kinh tế gần đây
cũng chỉ ra rằng, động lực quan trọng nhất của sự tăng trƣởng kinh tế bền vững
chính là con ngƣời, nhƣng không phải là con ngƣời bất kỳ, mà là những con
ngƣời có trí tuệ, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm nhất định. Trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng nhiều lần nhấn
4

mạnh tầm quan trọng của yếu tố con ngƣời. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI khẳng định: “Con ngƣời là trung tâm của chiến lƣợc phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển… Phát triển và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một đột phá chiến lƣợc, là yếu tố
quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trƣởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng
nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [24, 76-130]. Từ ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc gắn tăng trƣởng kinh tế với phát triển nguồn
nhân lực mà những năm gần đây, xung quanh vấn đề phát triển kinh tế, chú
trọng đầu tƣ cho con ngƣời đã đƣợc nhiều nhà lãnh đạo Đảng ta, nhiều nhà
khoa học nghiên cứu dƣới các góc độ và mức độ khác nhau.

Vũ Hy Chƣơng (2002) trong Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa [8] đã phân tích, đánh giá rõ hiện trạng của các
nguồn lực bao gồm nhân lực, tài lực, khoa học công nghệ, tài nguyên và nêu
các giải pháp cơ bản để tạo lập và phát huy mạnh các nguồn lực đó; trong đó
nhân lực chỉ là một bộ phận nguồn lực đƣợc phân tích, và không đi sâu về
nguồn nhân lực KH-CN. Đề tài Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tầng lớp trí
thức - Những định hướng chính sách [10] do Phạm Tất Dong (1999) chủ trì
đã phân tích những yêu cầu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với
sự phát triển đội ngũ trí thức nƣớc ta hiện nay, nêu các định hƣớng chính sách
lớn trong đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với trí thức nhằm phát huy
cao độ sự đóng góp to lớn của tầng lớp trí thức Việt Nam trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc; có thể hiểu đó là những chính sách
chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ nƣớc ta. Phạm
Minh Hạc (2001) trong Nghiên cứu con người và nguồn lực con người đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [32] đề cập đến nguồn lực con ngƣời nói
5

chung, trong đó có nguồn nhân lực KH-CN, nhƣng không phân tích sâu vào
việc phát triển nguồn nhân lực KH-CN.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết công bố trên báo, tạp chí nhƣ: tạp chí
Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Giáo dục… bàn về nguồn nhân lực dƣới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Điển hình là các bài Phát triển con người
tạo nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [58] của GS.VS.
Nguyễn Duy Quý (1998); Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tây Nguyên [59] của tác giả Lê Văn
Thanh (2005); Vấn đề xây dựng con người và phát triển nhân lực trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam [2] của Hà Văn Ánh (2007) và nhiều
công trình nghiên cứu khác có liên quan.
Nhìn chung, bàn về vấn đề nguồn nhân lực có rất nhiều công trình, bài
viết đề cập dƣới nhiều khía cạnh khác nhau từ triết học, xã hội học, tâm lý học,

sử học… nhƣng chƣa có một công trình nào nghiên cứu hệ thống về nguồn
nhân lực và phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ ở tỉnh Hƣng Yên
hiện nay. Vì vậy, để làm rõ hơn và đầy đủ hơn vấn đề phát triển nguồn nhân
lực khoa học - công nghệ ở tỉnh Hƣng Yên hiện nay, căn cứ vào tình hình thực
tế tỉnh Hƣng Yên, đặc điểm tình hình của ngƣời dân trong tỉnh, luận văn nghiên
cứu về nguồn nhân lực khoa học - công nghệ ở tỉnh Hƣng Yên với thực trạng,
đặc điểm nguồn nhân lực KH-CN từ đó có những giải pháp phù hợp nhằm khai
thác, sử dụng và phát triển hiệu quả nguồn nhân lực KH-CN tỉnh Hƣng Yên
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực
KH-CN trong sự phát triển kinh tế - xã hội, luận văn làm rõ thực trạng phát
6

triển nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm phát triển hiệu quả nguồn nhân lực KH-CN của tỉnh.
* Nhiệm vụ:
Thứ nhất, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn
nhân lực KH-CN và vai trò của nguồn nhân lực KH-CN đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh
Hƣng Yên trong những năm qua, chỉ ra những kết quả và hạn chế trong phát
triển nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh này, làm rõ nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra từ sự phát triển đó.
- Đề xuất một số giải pháp để phát triển có hiệu quả hơn nguồn nhân
lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn thực hiện trên cơ sở những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng

sản Việt Nam về phát triển con ngƣời, nguồn nhân lực.
* Cơ sở thực tiễn: Từ thực tiễn phát triển nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh
Hƣng Yên và cả nƣớc ta, các số liệu, các công trình đã đƣợc công bố trong và
ngoài nƣớc, các kết quả nghiên cứu ở tỉnh Hƣng Yên. Bên cạnh đó, luận văn kế
thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy vật, các phƣơng pháp
chủ yếu: phân tích và tổng hợp, so sánh, thống nhất lịch sử - logic.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phát triển nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên.
- Phạm vi nghiên cứu: tỉnh Hƣng Yên trong những năm đầu thế kỷ XXI.

7

6. Đóng góp của luận văn
- Đánh giá thực trạng đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng và quản lý nguồn nhân
lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần tìm hiểu thêm và làm rõ về phát triển
nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
nghiên cứu, giảng dạy một số môn học về chủ nghĩa xã hội khoa học, làm
luận cứ đề ra chính sách phát triển nguồn nhân lực KH-CN ở tỉnh Hƣng Yên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo luận
văn gồm hai chƣơng và 6 tiết.














8

CHƢƠNG 1. NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
1.1. Nguồn nhân lực và nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
Một trong những đặc điểm quan trọng của thời đại ngày nay là sự phát
triển nhƣ vũ bão của khoa học và công nghệ, chỉ trong vòng một vài thập kỷ
đã làm thay đổi bộ mặt và trật tự thế giới. Ngày nay khoa học không những
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra phƣơng pháp để
phát triển lực lƣợng sản xuất, nâng cao năng suất chất lƣợng và hiệu quả của
sản xuất mà còn có thể trực tiếp làm ra sản phẩm nhƣ sản xuất phần mềm, tạo
lập các ngành công nghiệp công nghệ cao… Khoa học đã trở thành một bộ
phận của lực lƣợng sản xuất trực tiếp và vai trò quan trọng của nó ngày càng
trội vƣợt lên hơn các bộ phận khác. Hầu nhƣ giữa khoa học công nghệ và sản
xuất không còn khoảng cách. Sự nhất thể hóa giữa khoa học công nghệ và sản
xuất tạo ra tiền đề cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế mới, nền kinh tế
dựa vào tri thức, trong đó lao động trí tuệ của con ngƣời nói riêng, tri thức nói
chung trở thành nhân tố chủ yếu, nhân tố quyết định nhất của sự phát triển.
Nếu coi giáo dục là nền tảng của kinh tế tri thức thì khoa học và công nghệ là

mũi chủ công của nó. Do đó phải chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ, phát triển tài năng, phát huy tri thức của nguồn nhân lực
khoa học và công nghệ, kể cả tri thức tiềm ẩn của họ vì tri thức tiềm ẩn lại
chính là nền tảng của năng lƣc sáng tạo và kỹ năng của con ngƣời.
Sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế - xã hội không chỉ thể hiện qua
việc đổi mới tƣ duy kinh tế, thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
phát triển kinh tế thị trƣờng, mà còn ở quan điểm khẳng định khoa học và
công nghệ là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, là phƣơng tiện để thực
hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, là mục tiêu của sự phát triển.

9

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay, có thể nói rằng đối với bất cứ quốc gia nào
việc xác định một cách đúng đắn và huy động có hiệu quả những nguồn lực
tiềm năng đi vào hoạt động, đều đƣợc coi là điều có ý nghĩa to lớn đối với
việc thực hiện chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Việt Nam muốn phát triển trong điều kiện trình độ phát triển
kinh tế còn thấp kém, đi lên từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu lại bị tàn phá
bởi các cuộc chiến tranh liên miên trong suốt nửa sau thế kỷ XX, thì việc xác
định và phát huy tất cả các nguồn lực có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến
lƣợc phát triển đất nƣớc. Trong đó xác định đúng đắn tầm quan trọng và phát
huy tốt nguồn lực con ngƣời trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội sẽ là
một động lực to lớn thúc đẩy sự tiến bộ nhanh chóng của đất nƣớc. Vậy
nguồn lực con ngƣời là gì? Vai trò của nguồn nhân lực trong sự phát triển là
nhƣ thế nào? Trƣớc tiên, ta cần hiểu khái niệm “nguồn lực”. Qua tìm hiểu có
thể thấy rằng dƣới dạng tổng quát “nguồn lực” đƣợc hiểu là toàn bộ các yếu
tố cả về vật chất lẫn tinh thần, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển,
và trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của
một quốc gia dân tộc.

Nhƣ vậy, khái niệm “nguồn lực” bao hàm trong mình không chỉ năng
lực, sức mạnh đã qua, hiện có; mà cả những năng lực, sức mạnh dƣới dạng
tiềm năng. Đồng thời, nó cũng vạch ra không chỉ yếu tố cội nguồn sản sinh,
nuôi dƣỡng, bồi đắp các năng lực, sức mạnh này mà còn thể hiện cả về mặt số
lƣợng và chất lƣợng ngày càng tăng lên của chúng.
Trong thực tế có rất nhiều nguồn lực khác nhau, việc phân loại nguồn
lực tùy thuộc vào cách xác định các tiêu chí và ở việc xem xét chúng trong
các quan hệ nhất định. Theo tiêu chí khái quát nhất nguồn lực đƣợc phân
thành nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần. Ngoài ra, theo các tiêu chí và
10

các quan hệ khác nữa còn có nguồn lực bên trong, nguồn lực bên ngoài;
nguồn lực chủ quan (con ngƣời), nguồn lực khách quan (vị trí địa lý, vốn…).
Theo quan hệ từ rộng đến hẹp thì tất cả những yếu tố đó đều có thể tạo ra
nguồn lực. Tuy nhiên, ở đây muốn nói đến nguồn lực giới hạn ở những yếu
tố thuận lợi, làm tiền đề, cơ sở tạo ra sức mạnh cho sự phát triển nói chung.
Ví dụ nhƣ: nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, khoa học - công
nghệ và nguồn lực con ngƣời… Nhƣ vậy, các tiêu chí để phân loại nguồn lực
rất đa dạng, phong phú trong đó con ngƣời đƣợc coi là một nguồn lực và là
nguồn lực có ý nghĩa quyết định nhất đảm bảo cho quá trình phát triển cũng
nhƣ tiến bộ xã hội của bất kỳ một quốc gia hay một dân tộc nào, bởi vì những
nguồn lực kia chỉ có thể đƣợc vận hành và phát huy tác dụng khi có sự tham
gia tích cực của yếu tố, nguồn lực con ngƣời.
Khái niệm “nguồn nhân lực” hay “nguồn lực con ngƣời” đƣợc sử dụng
từ những năm 60 ở nhiều nƣớc trên thế giới. Ở Việt Nam thuật ngữ này đƣợc
sử dụng từ đầu thập niên 90, đến nay nó đã trở nên phổ biến rộng rãi. Tuy
nhiên, chƣa có tài liệu chính thức nào đƣa ra định nghĩa về “nguồn lực con
ngƣời” - “nguồn nhân lực”. Trong lý thuyết phát triển, “nguồn nhân lực”, theo
nghĩa rộng đƣợc hiểu nhƣ nguồn lực con ngƣời của một quốc gia, một vùng
lãnh thổ, dùng để chỉ khả năng và phẩm chất của lực lƣợng lao động. Nội

dung của khái niệm này không chỉ nói đến số lƣợng và khả năng chuyên môn
mà còn nói đến trình độ văn hóa, thái độ đối với công việc và mong muốn
hoàn thiện của lực lƣợng lao động.
Theo nghĩa hẹp, “nguồn nhân lực” là một bộ phận dân số bao gồm
những ngƣời trong độ tuổi quy định có khả năng lao động. Nguồn nhân lực
nói chung không phải sản sinh ra để đáp ứng yêu cầu kinh tế mà sự sản sinh
đó chủ yếu do các nhân tố xã hội và sinh học quy định. Tuy nhiên, sự phát
11

triển của nguồn nhân lực có tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế - xã hội
và ngƣợc lại.
GS. Hoàng Chí Bảo (1993) trong bài báo Ảnh hưởng của văn hóa đối
với việc phát huy nguồn lực con người cho rằng, “nguồn lực con ngƣời là sự
kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lƣợng - hiệu quả
hoạt động và triển vọng mới phát triển của con ngƣời” [3, 14]. Theo Lê Văn
Thanh (2005) trong bài báo Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tây Nguyên thì: Nguồn nhân lực đó là
tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lƣợng thể hiện sức mạnh và
sự tác động của con ngƣời trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội [xem:
59]. Còn tác giả Đoàn Văn Khái (1995) trong bài báo Nguồn lực con người -
yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã cho
rằng, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất
lƣợng con ngƣời với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển
xã hội [xem: 39].
Từ những quan niệm của các nhà nghiên cứu nêu trên cho thấy, khi đề
cập tới khái niệm nguồn nhân lực hay nguồn lực con ngƣời cần xác định rõ,
đó là toàn bộ lực lƣợng lao động đang trực tiếp tham gia vào mọi khâu của
quá trình sản xuất nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và cả những
lực lƣợng đang đƣợc chuẩn bị để sẵn sàng tham gia vào quá trình này. Do đó,
nguồn nhân lực bao gồm tổng thể các tham số phát triển thể xác và tinh thần

mà con ngƣời có đƣợc nhờ sự nỗ lực cố gắng phấn đấu của bản thân mỗi
ngƣời và nhờ sự trợ giúp của cộng đồng xã hội, là tổng thể số lƣợng dân cƣ và
chất lƣợng theo các tham số đó của họ. Đồng thời nguồn nhân lực cũng là
tổng thể sức mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống, nhân cách, đạo đức, lý
tƣởng, năng lực văn hóa, chuyên môn và sự năng động trong công việc mà
12

bản thân con ngƣời và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động và sáng
tạo vì sự phát triển của xã hội.
Nhân lực là nguồn lực về con ngƣời, con ngƣời là nhân tố trung tâm và
là mục đích của nền sản xuất xã hội. C. Mác cho rằng: sức lao động hay năng
lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
cơ thể, trong một con ngƣời đang sống và đƣợc ngƣời đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng. Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí
lực của con ngƣời, nó phản ánh khả năng lao động của con ngƣời và là điều
kiện tiên quyết của mọi quá trình lao động xã hội. Quá trình vận động, phát
triển sản xuất xã hội đòi hỏi sức lao động ngày càng có chất lƣợng cao hơn.
Nguồn nhân lực có khi còn đƣợc gọi là “vốn ngƣời”. Theo cách tiếp
cận lý luận về vốn ngƣời, con ngƣời đƣợc xem là yếu tố của quá trình sản
xuất, một phƣơng tiện để phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, lý luận về
vốn ngƣời còn xem xét con ngƣời từ quan điểm nhu cầu về các nguồn lực
của sự phát triển.
Tổ chức Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ
vốn ngƣời (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu, ở
đây nguồn nhân lực đƣợc coi nhƣ nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất
khác nhƣ: vốn tiền, vốn công nghệ, vốn tài nguyên thiên nhiên. Việc đầu tƣ
cho con ngƣời chiếm vị trí trung tâm trong các loại đầu tƣ và đƣợc coi là cơ
sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững. Theo nhƣ cách hiểu này, con ngƣời
chiếm vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nguồn
nhân lực là một nguồn vốn đặc biệt [xem: 54, 24].

Nguồn nhân lực là dân số và chất lƣợng con ngƣời, bao gồm cả thể chất
và tinh thần, sức khỏe, trí tuệ, năng lực và phẩm chất. Với quan niệm trên về
khái niệm “nguồn nhân lực” ta có thể thấy rằng khái niệm “nguồn nhân lực”
có nội dung phong phú và khá rộng. Nó bao gồm rất nhiều phƣơng diện khác
13

nhau nhƣ số lƣợng dân cƣ và lao động, cơ cấu dân cƣ và cơ cấu lao động,
tổng thể các yếu tố quy định chất lƣợng dân cƣ, đặc biệt là chất lƣợng lao
động bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe, trí tuệ, năng lực, phẩm chất,
thái độ, phong cách làm việc… trong đó trí lực, thể lực, tâm lực là những yếu
tố quan trọng nhất quyết định sức mạnh của nguồn lực con ngƣời, góp phần to
lớn tạo nên những giá trị của nó. Khái niệm “nguồn nhân lực” còn chỉ ra rằng
con ngƣời đƣợc xem xét với tƣ cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ
bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Nguồn nhân lực
cũng giống nhƣ các nguồn lực khác nhƣ vốn, công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên… nhƣng nó là một nguồn lực cơ bản quyết định đến sự thịnh suy của
các nguồn lực khác, nhờ nó các nguồn lực khác mới có thể phát huy đƣợc tác
dụng và có ý nghĩa tích cực với sự phát triển xã hội. Vì thế nó là nguồn lực
của mọi nguồn lực. Nó khác tất cả các nguồn lực khác ở chỗ nó vừa là mục
tiêu vừa là phƣơng tiện của chính sự phát triển xã hội. Con ngƣời với sức
mạnh thể lực và trí lực của mình quyết định mục tiêu, cách thức, nội dung và
hiệu quả khai thác các nguồn lực khác. Ngƣợc lại, quá trình khai thác trí lực
và thể lực ở con ngƣời luôn diễn ra trong quan hệ với các nguồn lực khác ở
các mức độ khác nhau. Và nhƣ vậy con ngƣời vừa là chủ thể vừa là khách thể,
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Và
do vậy, nguồn nhân lực giữ vị trí trung tâm không chỉ trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội mà còn của chính sự phát triển xã hội.
Ở nƣớc ta, nguồn nhân lực bao gồm những ngƣời đang làm việc và dự
trữ (tạm thời chƣa làm việc). Nguồn nhân lực bằng lực lƣợng lao động (lao
động đang làm việc và ngƣời trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhƣng chƣa

có việc làm) cộng với lao động dự trữ (học sinh trong độ tuổi lao động, ngƣời
nội trợ, ngƣời trong độ tuổi lao động chƣa có nhu cầu lao động). Theo nghĩa
hẹp, nguồn nhân lực bao gồm những ngƣời trong độ tuổi lao động.
14

Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất đối với quá trình phát
triển của sản xuất và sự tiến bộ của xã hội trong lịch sử phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con ngƣời trong sự phát
triển. Con ngƣời vừa là động lực, vừa là mục tiêu và nếu thiếu một trong hai
vai trò đó thì không có sự phát triển. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phát huy
đƣợc vai trò của nó không phải ở ƣu thế về số lƣợng mà chủ yếu là ở chất
lƣợng. Với quy mô lớn nhƣng chất lƣợng thấp, năng suất lao động thấp thì
nguồn nhân lực lại trở thành nhân tố hạn chế sự phát triển. Chính vì vậy, vấn
đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải luôn chăm lo nâng cao chất lƣợng
nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Tóm lại, qua những điều đã trình bày ở trên, có thể thấy rằng: nguồn
nhân lực hay nguồn lực con ngƣời là tổng thể các chỉ số phát triển con ngƣời
mà con ngƣời có đƣợc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng xã hội và sự nỗ lực của
bản thân, là tổng thể số lƣợng dân và chất lƣợng con ngƣời, là tổng thể sức
mạnh thể lực, trí lực, kinh nghiệm sống, nhân cách, đạo đức, lý tƣởng, chất
lƣợng văn hóa, năng lực chuyên môn và tính năng động trong công việc mà
bản thân con ngƣời và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động vì sự
phát triển của xã hội.
Từ các cách tiếp cận phân tích trên, có thể thấy, cả trên thế giới và ở
Việt Nam, mặc dù có những khác biệt trong quan niệm về nguồn nhân lực
giữa các tác giả, các nhà khoa học, nhƣng nhìn chung những quan niệm trên
đã đề cập đến những yếu tố cơ bản hợp thành kết cấu của nguồn nhân lực, đó
là số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu của nó. Đúc rút những nội dung cơ bản của
các định nghĩa nguồn nhân lực của các tác giả trong và ngoài nƣớc, chúng tôi
quan niệm: Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố về số lượng, cơ cấu và chất

lượng con người biểu hiện chủ yếu trên các mặt: tư tưởng, đạo đức, lối sống,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sức khỏe… tạo nên năng lực sáng tạo của con
15

người, của cộng đồng người có thể huy động, phát huy trong quá trình phát
triển xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ.
Trƣớc hết, số lƣợng nguồn nhân lực là tổng số lực lƣợng lao động đang
và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nó đƣợc quy
định bởi quy mô dân số (số lƣợng dân, mật độ dân số, tốc độ tăng dân số) và
lực lƣợng lao động (cơ cấu độ tuổi, giới tính, phân bố lao động theo lãnh thổ và
theo lĩnh vực ngành nghề). Trên thực tế, có hai nhóm yếu tố tác động ảnh
hƣởng đến số lƣợng nhân lực: nhóm yếu tố tự nhiên (tác động của nhu cầu và
quy luật sinh học đến tỷ lệ sinh đẻ và tử vong của con ngƣời, làm tăng hay
giảm dân số và lao động một cách tự nhiên) và nhóm yếu tố xã hội (di dân làm
tăng hay giảm dân số và lao động trong một không gian và thời gian nhất định).
Số lƣợng nguồn nhân lực quá lớn sẽ gây khó khăn trong giáo dục, đào
tạo để từng ngƣời lao động có chất lƣợng tốt; khó khăn trong việc tổ chức
quản lý và sử dụng lao động. Số lƣợng nguồn nhân lực quá ít sẽ không đủ
lao động để phân bố, sử dụng vào các lĩnh vực sản xuất đạt hiệu quả. Hơn
nữa, chất lƣợng tổng thể của nguồn nhân lực quan hệ mật thiết với số lƣợng
nguồn nhân lực. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải có một số
lƣợng nhất định mới có thể tạo nên chất lƣợng mới của sự vật. Bởi vậy, phải
có số lƣợng nguồn nhân lực thích hợp thì nguồn nhân lực mới có đƣợc chất
lƣợng tổng thể cao.
Chất lƣợng nguồn nhân lực là tổng hợp những phẩm chất, năng lực, sức
mạnh của ngƣời lao động tham gia vào quá trình lao động phát triển kinh tế -
xã hội. Nó đƣợc tạo nên bởi những yếu tố cơ bản nhƣ thể lực, trí tuệ, đạo đức,
năng lực văn hóa và khiếu thẩm mỹ của ngƣời lao động, trong đó, trí tuệ, đạo
đức, năng lực là những yếu tố quan trọng nhất.
Trí tuệ là biểu hiện và kết quả năng lực của nhận thức, năng lực tƣ duy

sáng tạo và thích ứng với hoàn cảnh sống của con ngƣời. Trí tuệ thuộc lĩnh vực
16

tinh thần của con ngƣời, “thể hiện qua việc huy động có hiệu quả lƣợng tri thức
tích lũy vào quá trình sáng tạo cái mới, nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản
thân con ngƣời trong sự phát triển ngày càng tiến bộ, văn minh” [39, 21].
Cùng với năng lực trí tuệ, đạo đức là thành phần cơ bản tạo nên chất
lƣợng của nhân lực. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đức và tài luôn gắn bó với
nhau, đức nhƣ là gốc của cây, nguồn của sông. Ngƣời có đức mà không có tài
thì chẳng khác nào ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai nhƣng cũng
chẳng có ích gì. Ngƣợc lại, ngƣời có tài mà không có đức thì chẳng khác gì
một ngƣời làm kinh doanh giỏi, kiếm đƣợc nhiều lãi nhƣng tham ô, lãng phí,
ăn cắp của công, vi phạm pháp luật… thì nhƣ vậy, chỉ có hại cho nƣớc, cho
dân, còn sự nghiệp của bản thân sớm muộn sẽ đổ vỡ. Vì vậy, đức là gốc, là
vốn quý của cá nhân con ngƣời, của tập thể và của cả dân tộc.
Với tƣ cách là yếu tố quan trọng của chất lƣợng nguồn nhân lực, năng lực
thẩm mỹ định hƣớng việc bồi dƣỡng nhu cầu, khát vọng của trí tuệ, đạo đức và
các năng lực khác của con ngƣời theo tiêu chuẩn của giá trị “chân, thiện, mỹ”.
Bộ phận thứ ba tạo thành kết cấu của nguồn nhân lực là cơ cấu của nó.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt “Cơ cấu” là cách tổ chức, sắp xếp các thành
phần, bộ phận trong nội bộ nhằm thực hiện một chức năng chung: cơ cấu kinh
tế; cơ cấu tổ chức cơ quan [70, 464]. Với ý nghĩa đó, cơ cấu nguồn nhân lực
đƣợc chia theo các tiêu chí nhƣ: ngành nghề đƣợc đào tạo; trình độ học thức;
giới tính; độ tuổi; lĩnh vực hoạt động…
Cơ cấu ngành nghề đào tạo đƣợc quy định chủ yếu bởi cơ cấu lĩnh vực
lao động và cơ cấu kinh tế. Đó là một tỷ lệ nhất định những lao động đã qua
đào tạo: công nhân kỹ thuật, trung cấp nghề, đại học và trên đại học. Cơ cấu
kinh tế quy định cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế đƣợc phân
theo các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân: nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ. Cơ cấu này đảm bảo cho nhân lực đƣợc phân bố một cách

17

hợp lý trên tất cả các khu vực của nền kinh tế quốc dân, trong đó, tập trung
vào các ngành kinh tế trọng yếu, mũi nhọn, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển cân đối, đồng đều, tăng trƣởng nhanh, bền vững.
Cơ cấu chất lƣợng nguồn nhân lực, đó là tỷ lệ hợp lý của nguồn nhân
lực chất lƣợng cao, nguồn nhân lực có chất lƣợng trung bình giữa các ngành
kinh tế và trong nội bộ một ngành kinh tế. Cơ cấu này đảm bảo cho từng
ngành kinh tế phát triển ổn định, đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp đặt
ra trong quá trình phát triển; đảm bảo cho các ngành kinh tế phát triển đồng
đều, tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời đảm
bảo sự kế thừa phát triển liên tục của nguồn nhân lực trong từng ngành kinh tế
và trong toàn bộ nền kinh tế.
Cơ cấu giới tính của nguồn nhân lực, tức là tỷ lệ lao động nam và lao
động nữ của nguồn nhân lực, đảm bảo hoạt động của các ngành, lĩnh vực kinh
tế phù hợp với lao động nữ và lao động nam làm việc ở những ngành, lĩnh
vực đó đạt kết quả cao. Đồng thời góp phần quan trọng trong thực hiện chính
sách của Đảng về bình đẳng giới.
Cơ cấu độ tuổi của nguồn nhân lực là tỷ lệ hợp lý giữa các nhóm lao
động tuổi cao, tuổi trung bình và tuổi trẻ, đảm bảo cho nhân lực phát triển
đồng đều, liên tục. Đó là nhân tố chủ yếu có tính quyết định để lực lƣợng lao
động trong từng ngành, từng lĩnh vực và trong toàn bộ nền kinh tế phát triển
liên tục, vững chắc, có sự kế thừa, không xảy ra hụt hẫng, đảm bảo giải quyết
tốt những nhiệm vụ kinh tế - xã hội hiện tại và trong tƣơng lai.
Trong cơ cấu nguồn nhân lực trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ nền
kinh tế tri thức trên thế giới và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại ở nƣớc ta,
có một loại đặc biệt rất cần đƣợc quan tâm phát triển, là nguồn nhân lực khoa
học - công nghệ.

18


1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực khoa học - công nghệ
Báo cáo Khoa học và Công nghệ Việt Nam năm 2001 của Bộ Khoa học
và Công nghệ xác định: Nguồn nhân lực khoa học - công nghệ gồm các loại
nhân lực tham gia vào các hoạt động khoa học và công nghệ sau đây:
- Nghiên cứu sáng tạo;
- Giảng dạy khoa học và công nghệ;
- Quản lý;
- Khai thác và sử dụng công nghệ;
- Trực tiếp tác nghiệp và vận hành máy móc [4, 31]. (5 loại).
Trong cuốn Cẩm nang về đo lường nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ, xuất bản năm 1995 tại Paris, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) cho rằng, nguồn nhân lực khoa học - công nghệ bao gồm những
ngƣời lao động đáp ứng đƣợc các điều kiện sau đây:
- Đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng về một lĩnh vực KH và CN.
- Tuy chƣa đạt đƣợc điều kiện nêu trên, nhƣng làm việc trong một lĩnh
vực khoa học và công nghệ đòi hỏi phải có trình độ tƣơng đƣơng [ xem: 5,
61]. Theo quan niệm này, có thể hiểu nguồn nhân lực KHCN bao gồm những
ngƣời: đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng và làm việc trong một ngành
KHCN; đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng nhƣng không làm việc trong một
ngành KHCN nào; chƣa tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng, nhƣng làm một
công việc trong một lĩnh vực KHCN đòi hỏi trình độ tƣơng đƣơng.
Ngoài cách hiểu nêu trên ngƣời ta còn thƣờng sử dụng khái niệm “nhân
lực nghiên cứu và phát triển” để chỉ lực lƣợng lao động KH-CN của một quốc
gia, một địa phƣơng. Theo hƣớng dẫn thống kê nghiên cứu phát triển của
OECD (Cẩm nang FRASCATI), nhân lực nghiên cứu và phát triển bao gồm
những ngƣời trực tiếp tham gia vào hoạt động nghiên cứu và phát triển hoặc

×