Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 87 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGÔ THỊ VÂN ANH





THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ
chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học











Hà Nội - 2014
2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGÔ THỊ VÂN ANH




THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08







Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phan Thanh Khôi





Hà Nội - 2014
3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG 13
Chƣơng 1. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC Ở TỈNH VĨNH PHÚC 13
1.1. Chính sách dân tộc 13
1.2. Nội dung chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc 20
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở
TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY 43
2.1. Những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân
tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay 43
2.2. Nguyên nhân của những thực trạng trên 59
Chƣơng 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH DÂN TỘC Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY 64
3.1. Những quan điểm chỉ đạo góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay 64

3.2. Những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay 66
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82

4


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống
ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa – những địa bàn có vị trí
chiến lƣợc về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và môi trƣờng sinh thái.
Do đó, Đảng ta luôn coi việc hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc
là vấn đề có ý nghĩa chiến lƣợc quan trọng trong tiến trình cách mạng.
Hiện nay, nƣớc ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệptheo
hƣớng hiện đại. Bên cạnh đó, tình hình chính trị - xã hội thế giới có nhiều
biến đổi lớn, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc vẫn là vấn đề phức tạp, gay
gắt và vô cùng nhạy cảm ở nhiều quốc gia.Vì vậy, việc hoạch định và thực
hiện đúng đắn chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc ở nƣớc ta.
Giải quyết tốt vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc không
những tạo nên sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế - xã hội, rút ngắn
khoảng cách phát triển chênh lệch giữa các dân tộc mà còn phát huy đƣợc
truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cƣờng và lòng tự hào dân tộc,
tạo nên sức mạnh tổng hợp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Chính sách dân tộc là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc ta, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Do đó, thực hiện chính sách dân tộc phải gắn với kế hoạch phát triển tổng thể

kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng của đất nƣớc. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa IX về công tác dân tộc đã
khẳng định: Các dân tộc thiểu số: thực hiện tốt chính sách bình đẳng, đoàn
kết, tƣơng trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt
5


Nam. Đến Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) lại tiếp tục khẳng định: các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Đây là những nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nƣớc ta. Đó cũng chính là cơ sở để Đảng và Nhà nƣớc ta xây
dựng và thực hiện các chính sách xã hội nói chung và chính sách dân tộc nói
riêng nhằm cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số còn ở trình độ sản xuất và đời sống thấp,
xây dựng, phát triển quan hệ dân tộc tốt đẹp và đấu tranh chống lại các thế lực
phản động có âm mƣu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại việc
thực hiện chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc.
Tỉnh Vĩnh Phúc thuộc đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đồng bằng có trung du
và miền núi.Tỉnh Vĩnh Phúc có 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 7
huyện. Bên cạnh dân tộc Kinh, toàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có trên 10 nghìn hộ
đồng bào dân tộc thiểu số với trên 40 nghìn nhân khẩu đang sinh sống tại trên
40 xã, thị trấn thuộc 5 huyện, thị xã: Lập Thạch, Tam Đảo, Bình Xuyên, Sông
Lô và thị xã Phúc Yên. Toàn tỉnh có 13 dân tộc thiểu số; trong đó đông nhất
là dân tộc Sán Dìu với gần 40 nghìn ngƣời (chiếm 90,8% tổng số đồng bào
dân tộc thiểu số trong tỉnh).Các dân tộc sống đan xen, đoàn kết, hoà thuận và
hỗ trợ nhau phát triển.
Ở Vĩnh Phúc đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung chủ yếu ở miền
núi, đời sống còn rất nhiều khó khăn. Những năm qua, các chính sách dân tộc
và miền núi của Đảng và nhà nƣớc đƣợc thực hiện trên địa bàn tỉnh đã góp

phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc đặc
biệt là dân tộc thiểu số và miền núi, rút ngắn dần khoảng cách giữa miền núi
và đồng bằng. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời gian
qua vẫn còn những hạn chế cần đƣợc nhận thức và có những giải pháp nhằm
6


nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh, nhất là
trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với mong muốn góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc quán triệt và triển khai thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, tôi đã chọn đề tài “ Thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
môn khoa học xã hội khác nhau nhƣ Triết học, Sử học, Dân tộc học, Xã hội
học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,… Ở nƣớc ta cho đến nay đã có rất nhiều
công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc,
chính sách dân tộc, những vấn đề về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nƣớc. Có thể kể đến một số công trình nhƣ:
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, của TS. Lê Ngọc
Thắng, Nhà xuất bản Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội năm 2005. Nội dung
cuốn sách tác giả trình bày một cách hệ thống các vấn đề lý luận về dân tộc,
vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, chính sách dân tộc; các quan điểm cơ bản
của vấn đè dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta. Đồng thời tác giả trình bày một cách hệ thống chính sách dân tộc của
các nhà nƣớc phong kiến, thực dân đế quốc, tƣ bản và một số nƣớc khác trên
thế giới.Qua đó tác giả so sánh để thấy đƣợc tính sáng tạo, đúng đắn của Đảng
và Nhà nƣớc ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng dân tộc

dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu
và yếu kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc,
7


tác giả đề ra định hƣớng chính sách dân tộc, đặc biệt là chính sách trên lĩnh
vực văn hóa trong thời gian tới.
Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện naydo TS. Đậu
Tuấn Nam chủ biên, đƣợc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản
năm 2009.Cuốn sách gồm tập hợp các bài viết của các nhà khoa học tập trung
nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Từ việc xác định khái niệm dân tộc, GS. TS. Phan Hữu Dật đi sâu nghiên cứu
chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này thông qua việc phân tích chủ nghĩa Mác
cũng nhƣ chủ nghĩa Mác – Lênin. PGS, TS. Lê Ngọc Thắng và PGS, TS.Cao
Văn Thanh đã trình bày những quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng và
Nhà nƣớc ta về dân tộc cũng nhƣ những chính sách kinh tế - xã hội vùng dân
tộc thiểu số ở nƣớc ta hiện nay. Bên cạnh việc đƣa ra những quan điểm, chính
sách cơ bản, các tác giả phân tích thực trạng, nguyên nhân cho những hạn chế
trong việc thực hiện chính sách dân tộc và từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế…
Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc của TS. Bế Trƣờng Thànhdo Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2011. Nhân kỷ niệm 65
năm ngày thành lập Ủy ban Dân tộc (3-5-1946-3-5-2011), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản cuốn Vấn đề dân tộc và công tác dân
tộc. Cuốn sách gồm một số bài viết và công trình tiêu biểu của đồng chí Bế
Trƣờng Thành, góp phần luận giải và làm sáng tỏ vấn đề dân tộc ở Việt Nam;
đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với đồng bào các dân tộc
và công tác dân tộc hiện nay. Các bài viết đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều
khía cạnh khác nhau nhìn từ góc độ công tác dân tộc nhƣ: việc hoạch định
chính sách dân tộc, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc, tham mƣu cho

Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc trong
8


tình hình hiện nay, vấn đề dân tộc trong chiến lƣợc quốc phòng – an ninh,
công tác nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi,…
Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện naycủa TS. Lô Quốc Toàndo Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội xuất bản năm 2012.Cuốn sách là một nghiên cứu mang tính lý luận và
thực tiễn về phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi. Trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ và thực trạng công tác phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở các
tỉnh miền núi phía Bắc nƣớc ta, tác giả đã nêu phƣơng hƣớng và hệ giải pháp
nhằm phát triển nguồn cán bộ này một cách vững mạnh.
Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số cho sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướcdo PGS, TS.
Nguyễn Đăng Thành chủ biênđƣợc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
xuất bản năm 2012.Cuốn sách tuyển chọn một số công trình nghiên cứu của
Đề án “Luận cứ và giải pháp phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nƣớc
ta đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
của TS. Phạm Thanh Hà, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất
bản năm 2014 đã phân tích cơ sở hình thành, đặc điểm và nhấn mạnh vai trò
quan trọng của việc giữ gìn bản sắc dân tộc, đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa
và những tác động hai mặt của toàn cầu hóa. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra
những định hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc dân
tộc Việt Nam, phát triển lành mạnh con ngƣời, xã hội và sự phát triển bền
vững của đất nƣớc.
Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc, của tác giả Lâm Quý, do Ban
Dân tộc – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc xuất bản năm 2009.

9


Trong cuốn sách này, tác giả đã thể hiện theo tinh thần khảo cứu dân tộc học
về lịch sử dân cƣ, tập quán sản xuất, sinh hoạt xã hội, ngôn ngữ, chữ viết, kiến
trúc – mỹ thuật – âm nhạc dân gian, phong tục, lễ hội nhằm giúp ngƣời đọc
có cách nhìn tổng quan về văn hóa các dân tộc ở Vĩnh Phúc với bản sắc
truyền thống riêng. Tác giả cũng đồng thời cảnh báo những nguy cơ làm phai
nhạt bản sắc các dân tộc thiểu số. Từ đó khuyến nghị một số vấn đề về giữ
gìn, bảo tồn, khai thác phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc
Sán Dìu, Cao Lan và Dao ở Vĩnh Phúc.
Vựng tập các dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc do Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh
Phúc phát hành năm 2011 đã giới thiệu khá chi tiết về đặc điểm các dân tộc
thiểu số của tỉnh.
Ngoài ra còn có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có liên quan đến
đề tài này nhƣ:
Thực hiện chính sách dân tộc ở vùng núi phía Bắc nước ta trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ( 2003) – Luận văn tốt nghiệp
lớp cao cấp lý luận chính trị của Bế Thu Hƣơng.
Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2006) – Luận án Tiến sĩ Triết học của
Nguyễn Thị Phƣơng Thủy.
Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Khánh Hòa trong giai
đoạn hiện nay (2006) – Luận văn Thạc sĩ Triết học của Hồ Thị Ngọc Mai.
Chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam( 2014) -
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Lâm Thành.
10


Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số tỉnh miền núi

Đông Bắc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2010( 2014) – Luận án Tiến sĩ
Lịch sử của Hoàng Thu Thủy
Các tác giả đều tập trung phân tích thực trạng của việc thực hiện chính
sách dân tộc ứng với mỗi địa bàn cụ thể, từ đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm
đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong địa bàn tỉnh trong thời gian
tới.
Riêng tỉnh Vĩnh Phúc (ngoài các công trình nghiên cứu về dân tộc học
và văn hóa các dân tộc của tỉnh) chƣa có công trình nghiên cứu, hội thảo khoa
học nào bàn về chính sách dân tộc của tỉnh một cách toàn diện và đầy đủ.Vì
vậy, đề tài không trùng lặp với các đề tài, công trình nghiên cứu đã công
bố.Những tài liệu trên giúp ích cho việc tham khảo, đối chứng, so sánh trong
quá trình nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đíchnghiên cứu của luận văn: Phân tích thực trạng và những vấn
đề đặt ra trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đề
xuất những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc trong thời
gian tới.
- Nhiệm vụnghiên cứu của luận văn:
Luận giải khái quát những nội dung lý luận cơ bản về dân tộc, chính
sách dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc trong xây dựng chủ nghĩaxã
hội.
Phân tích thực trạng và những vấn đề dân tộc đặt ra đối với việc thực
hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Nêu lên một sốgiải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chính sách dân tộc trong tỉnh.
11


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: thực trạng thực hiện chính sách

dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Về nội dung: chú trọng các vấn đề liên quan đến các dân tộc, dân tộc
thiểu sốcủa tỉnh Vĩnh Phúc.
Về thời gian: 15 năm tái thiết lập tỉnh (1997 – 2013) và nhất là những
năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn: Đƣợc thực hiện dựa trên những nguyên lý,
lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, những quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, đồng
thời đề tài có kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học có
liên quan.
- Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn: Sử dụng phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp phƣơng pháp nghiên cứu: phƣơng
pháp logic - lịch sử, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng
pháp phân tích, phƣơng pháp tổng kết thực tiễn, phƣơng pháp điều tra dân tộc
học…
6. Đóng góp mới của luận văn
Dƣới góc độ chính trị - xã hội, luận vănlàm rõ những những thành tựu
đạt đƣợc trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc qua 15
năm tái thiết lậpnhất là những năm gần đây, đồng thời chỉ ra những hạn chế
cần đƣợc khắc phục. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa
12


hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc trong tỉnh, đáp ứng yêu cầu của đất
nƣớc và quốc tế.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văncó thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham

khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có liên quan đến vấn đề dân
tộc và chính sách dân tộc. Đồng thời, luận văn có thể cung cấp nguồn tài liệu
để cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành có liên quan đề ra những chính
sách cụ thể đối với khu vực đồng dân tộc thiểu số, nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
3 chƣơng với 6 tiết
13


NỘI DUNG
Chƣơng 1.CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH DÂN
TỘC Ở TỈNH VĨNH PHÚC
1.1. Chính sách dân tộc
1.1.1. Khái niệm dân tộc
Hiện nay, khái niệm dân tộc thƣờng đƣợc tiếp cận theo hai nghĩa: nghĩa
rộng, đó là khái niệm dân tộc – quốc gia và nghĩa hẹp là khái niệm dân tộc –
tộc ngƣời.
Khái niệm dân tộc – quốc gia ( Nation) dùng để chỉ một cộng đồng
ngƣời ổn định, làm thành nhân dân một nƣớc, có một lãnh thổ quốc gia, một
nền kinh tế thống nhất, có chữ quốc ngữ chung và có tâm lý chung biểu hiện
trong văn hóa của quốc gia dân tộc.
Khái niệm dân tộc – tộc ngƣời ( Ethnie) dùng để chỉ cộng đồng ngƣời hình
thành và phát triển trong lịch sử với những đặc trƣng cơ bản nhƣ có chung
một ngôn ngữ tộc ngƣời, một bản sắc văn hóa tộc ngƣời và đặc biệt có ý thức
tự giác tộc ngƣời.
Thực tế cho thấy rằng, một cộng đồng dân tộc thƣờng bao gồm nhiều
cộng đồng tộc ngƣời với những yếu tố ngôn ngữ, văn hóa, thậm chí yếu tố
chủng tộc khác nhau.Vì vậy, khi xem xét vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc đòi

hỏi phải nghiên cứu, phân tích từng cảnh huống sử dụng khái niệm một cách
cụ thể. Trong phạm vi của đề tài, tác giả chủ yếu sử dụng khái niệm dân tộc
theo nghĩa hẹp: dân tộc – tộc ngƣời.
1.1.2. Quan niệm mác xít về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
C.Mác và Ph.Ăng ghen sống trong thời đại tƣ bản chủ nghĩa trƣớc độc
quyền. Quan điểm của Mác, Ăngghen về vấn đề dân tộc thể hiện rõ khi hai
14


ông nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở Ba Lan, Airơlan, các nƣớc
vùng Ban Căng và các nƣớc khác, và cũng thể hiện rõ khi hai ông phê phán
các Chính phủ Anh và Nga sa hoàng trong vấn đề Ba Lan cũng nhƣ Airơlan.
Mác và Ăng ghen đã kêu gọi: “Hãy xóa bỏ tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời thì
tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối
kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch
giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [4,tr.624].
Hai ông đã nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng “Vô sản tất cả các nƣớc đoàn kết lại!”.
Từ những luận chứng khoa học về vấn đề dân tộc, Lênin đề ra Cƣơng
lĩnh dân tộc của các Đảng Cộng sản “các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các
dân tộc đƣợc quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: Đó là
Cƣơng lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh
nghiệm của nƣớc Nga dạy cho công nhân” [30,tr.375]. Đây là tƣ tƣởng chỉ
đạo, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về chính sách dân tộc.
Những quan điểm về vấn đề dân tộc và giải quyết các quan hệ dân tộc
đƣợc Lênin khái quát thành Cƣơng lĩnh chung cho các Đảng mácxít, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trên phạm vi toàn thế giới , trong từng quốc gia
cũng nhƣ từng dân tộc.
Thực tế, thời đại ngày nay không những không bác bỏ Cƣơng lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà ngƣợc lại còn cung cấp thêm sự kiện, con
số để xác nhận sự đúng đắn của Cƣơng lĩnh đó và đòi hỏi chi tiết hóa Cƣơng

lĩnh đó khi vận dụng vào mỗi quốc gia, từng dân tộc cho phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của quốc gia dân tộc đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tƣợng cao đẹp nhất của tinh thần dân
tộc chân chính, chủ nghĩa yêu nƣớc và tinh thần quốc tế cao cả của nhân dân
ta. Ngƣời đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
15


nhân dân Việt Nam và góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh chung của các dân
tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tƣ tƣởng của
Ngƣời về chính sách dân tộc đƣợc thể hiện rõ ở những điểm sau:
Một là, tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc,và con đƣờng giải phóng dân tộc
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, chính sách dân tộc phải thực hiện sự bình đẳng, giúp đỡ nhau
giữa các dân tộc để cùng nhau đoàn kết tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, chính sách dân tộc phải chú ý đến tính đặc thù dân tộc.
Bốn là, chính sách dân tộc phải hƣớng vào sự phát triển toàn diện miền
núi và các dân tộc thiểu số.
Năm là, chính sách dân tộc phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dƣỡng,
phát triển và chăm sóc đội ngũ cán bộ, con em của đồng bào dân tộc.
Ngay từ trƣớc đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nƣớc
thống nhất sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc với sự huy
động sức mạnh của toàn dân tộc trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số đã có
những đóng góp hết sức to lớn cho cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã
khẳng định “việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những
nhiệm vụ có tính chất chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam”. Tiếp đó, Đại hội
lần thứ V của Đảng nhấn mạnh việc “phải tăng cƣờng hơn nữa khối đoàn kết
các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tƣơng trợ và cùng làm chủ tập thể”.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn điện
đất nƣớc.Về vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách dân tộc luôn

luôn là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội”.Đồng thời, Đại hội
nhấn mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng
cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nƣớc ta. Sau Đại hội VI,
16


trƣớc những yêu cầu đòi hỏi của thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày
27/11/1989, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trƣơng,
chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần thúc đẩy phát
triển một bƣớc quan trọng kinh tế - xã hội miền núi và các vùng đồng bào dân
tộc thiểu số.
Tình hình thế giới những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
XX có những biến động to lớn.Hệ thống các nƣớc xã hội rơi vào khủng hoảng
sâu sắc và chủ nghĩa sụp đổ gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới
trong đó có Việt Nam.Trong bối cảnh đó, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ
VII.Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Lần đầu tiên, chính sách bình đẳng, đoàn
kết, tƣơng trợ giữa các dân tộc đã đƣợc Đảng ta đƣa vào trong Cƣơng lĩnh của
Đảng với tên gọi Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cƣơng lĩnh ghi rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết,
tƣơng trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên
con đƣờng văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Trên cơ sở các quan điểm cơ bản của Đảng
về vấn đề dân tộc, Hiến pháp 1992, một lần nữa, khẳng định về quyền bình
đẳng giữa các dân tộc ở nƣớc ta.
Sau 10 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VII, đất nƣớc ta đã vƣợt qua một giai đoạn thử thách gay
go, đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc so với thời kỳ bắt đầu đổi mới. Đại
hội VIII của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử đó. Về vấn đề dân
tộc, Đại hội nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lƣợc lớn”. Thực hiện

“bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.Tuy nhiên, bên cạnh đó, Đại hội cũng
17


thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số, miền
núi, vùng sâu, vùng cao.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra trong bối cảnh
thế kỷ XX vừa kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Những năm đầu thế kỷ XXI,
các thế lực thù địch ra sức lợi dụng những khó khăn và hạn chế của đồng bào
các dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào phá
hoại khối đoàn kết dân tộc ở nƣớc ta. Đại hội IX của Đảng đặc biệt chú trọng
vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều nội dung mới ở chỗ, nếu nhƣ Đại hội VIII
coi vấn đề dân tộc là “vấn đề có vị trí chiến lƣợc lớn” thì Đại hội IX khẳng
định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến
lƣợc trong sự nghiệp cách mạng”. Rằng, Đảng ta phải thực hiện tốt chính sách
các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm
giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc;
thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc
biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trƣớc đây là căn cứ cách mạng
và kháng chiến; Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tƣ tƣởng dân tộc lớn,
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tƣ tƣởng tự ti, mặc cảm dân tộc.
Cụ thể hóa tƣ tƣởng chiến lƣợc đƣợc nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và
nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội
nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX (phần hai) đã ban
hành Nghị quyết về công tác dân tộc. Nghị quyết khẳng định năm quan điểm
cơ bản trong việc thực hiện công tác dân tộc ở nƣớc ta: 1) Vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lƣợc cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn

đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; 2) Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tƣơng trợ, giúp nhau cùng phát triển,
18


cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên
quyết đấu tranh với mọi âm mƣu chia rẽ dân tộc; 3) Phát triển toàn diện chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc
và miền núi; gắn tăng trƣởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực
hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dƣỡng nguồn nhân lực;
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những
giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất; 4) Ƣu tiên đầu tƣ
phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trƣớc hết, tập trung
vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi
trƣờng sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cƣờng của đồng bào các
dân tộc, đồng thời tăng cƣờng sự quan tâm hỗ trợ của Trung ƣơng và sự giúp
đỡ của các địa phƣơng trong cả nƣớc; 5) Công tác dân tộc và thực hiện chính
sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các
ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Tiếp tục tƣ tƣởng của Nghị quyết về công tác dân tộc đƣợc thông qua tại
Hội nghị lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lƣợc lâu dài trong sự nghiệp cách mạng
nƣớc ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc tiếp tục đƣợc Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo

chính trị của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến
19


lƣợc trong sự nghiệp cách mạng của nƣớc ta”. Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thƣơng yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến
bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các
dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ,
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.Chống tƣ tƣởng kỳ thị và chia rẽ dân
tộc.Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và
các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Hiện nay, Nghị quyết của Đại hội
XI trong đó có vấn đề dân tộc đang đƣợc các cấp, các ngành liên quan triển
khai trong thực tế, đƣa Nghị quyết vào cuộc sống.
1.1.3. Khái quát về chính sách dân tộc
Chính sách dân tộc trƣớc hết đó là một bộ phận hữu cơ trong hệ thống
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.Nó thể hiện quan điểm chính trị của Đảng
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong điều kiện hiện nay.
Chính sách dân tộc bao gồm những chính sách có tác động trực tiếp đến các
dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc nhằm mục đích phát triển các chính sách
kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số, xây dựng
khối đại đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam, tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nƣớc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Chính sách dân tộc là những chính sách có đối tƣợng tác động trực tiếp

là các dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc nhƣng điều đó không có nghĩa là
việc thực hiện chính sách dân tộc là việc riêng của các dân tộc thiểu số mà nó
20


là chính sách chung đối với cả dân tộc thiểu số và dân tộc đa số, nó liên quan
đến tất cả mọi ngƣời, mọi chuyên ngành, mọi cấp từ trung ƣơng đến địa
phƣơng.
Chính sách dân tộc giải quyết mối quan hệ trong cộng đồng dân cƣ đa
dân tộc của một quốc gia theo quan điểm của giai cấp nắm chính quyền.
Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản là một hệ thống các chủ trƣơng, giải
pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, văn hóa, xã hội giữa các
dân tộc, trong đó có sự quan tâm đến các dân tộc thiểu số có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội thấp.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đảm bảo phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc và bản sắc tốt đẹp của
mỗi dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và thực
tiễn Việt Nam.
Chính sách dân tộc có nội dung, nhiệm vụ tƣơng đối rộng và có mối
quan hệ với rất nhiều chính sách khác, lĩnh vực khác. Là một bộ phận trong
hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta, chính sách dân tộc gắn bó hữu
cơ với tất cả các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng, chịu tác động của các chính sách chung, đồng thời nó cũng tác động
trở lại với các chính sách đó.
Từ những quan điểm chung về chính sách dân tộc, Đảng và Nhà nƣớc ta
đã đề ra những chủ trƣơng, chính sách cụ thể cho việc thực hiện chính sách
dân tộc. Những chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đã đƣợc tỉnh
Vĩnh Phúc triển khai thực hiện theo điều kiện của tỉnh.
1.2. Nội dung chính sách dân tộc ở tỉnh Vĩnh Phúc
1.2.1.Đặc điểmchung của tỉnh

- Về lịch sử hình thành
21


Vĩnh Phúc trƣớc đây là sự hợp nhất của hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc
Yên.Cả hai tỉnh đều mới thành lập khi thực dân Pháp đô hộ nƣớc ta.
Cách mạng tháng Tám thành công, thực hiện chủ trƣơng của Chính phủ,
ngày 12 – 02 – 1950, hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên sáp nhập thành một tỉnh,
lấy tên là tỉnh Vĩnh Phúc. Khi hợp nhất, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích 1.715
km
2
với dân số gần 47 vạn ngƣời, bao gồm 14 dân tộc anhem sinh sống, trong
đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 2,62% dân số toàn tỉnh.
Từ năm 1950 đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc nhiều lần thay đổi về địa giới
hành chính.Tháng 11 năm 1996, Quốc hội thông qua Nghị quyết tách tỉnh
Vĩnh Phú thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Ngày 01 – 01 – 1997, tỉnh
Vĩnh Phúc đƣợc tái lập và đi vào hoạt động. Tháng 6 năm 2008, huyện Mê
Linh chuyển về thành phố Hà Nội.Tháng 01 năm 2009, tách 17 xã của huyện
Lập Thạch và thành lập mới huyện Sông Lô. Hiện nay, tỉnh Vĩnh Phúc có 9
đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có: 01 thành phố (Vĩnh Yên), 01 thị xã
(Phúc Yên) và 7 huyện: Bình Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dƣơng, Tam
Đảo, Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc với tổng diện tích: 1.230,95 km
2
và dân số:
999.786 ngƣời.
- Về vị trí địa lý
Tỉnh Vĩnh Phúc là tỉnh đồng bằng trung du, nằm ở toạ độ địa lý 21024'
vĩ độ Bắc, 105036' kinh độ Ðông, cách thủ đô Hà Nội 62km. Diện tích tự
nhiên toàn tỉnh là 2.192 km2, chiếm 0,67% tổng diện tích tự nhiên của nƣớc.
Các đƣờng giao thông quan trọng nằm trên địa bàn tỉnh là quốc lộ 2A, dài

39km (Hà Nội, Phú Thọ) đi qua các huyện Mê Linh, Bình Xuyên, Vĩnh Yên,
Tam Dƣơng, Vĩnh Tƣờng; quốc lộ 2B, dài 25km từ Vĩnh Yên đi khu nghỉ mát
Tam Ðảo; quốc lộ 2C, dài 30km (từ phƣờng Ðồng Tâm, thị xã Vĩnh Yên đến
Tuyên Quang) đi qua huyện Tam Dƣơng, huyện Lập Thạch; quốc lộ 2 dài
22


15km (từ thị trấn Phúc Yên đi cầu Thăng Long) đi qua xã Tiền Châu, xã Tiền
Phong, huyện Mê Linh. Ngoài ra, còn có đƣờng sắt dài 41km (Hà Nội - Lào
Cai) đi qua các huyện Mê Linh, Bình Xuyên, Vĩnh Yên, Tam Dƣơng, Vĩnh
Tƣờng. Hệ thống sông ngòi chính nằm trên địa bàn tỉnh gồm có sông Hồng
chảy Bạch Hạc (TP Việt Trì) qua huyện Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc đến xã Tráng
Việt (huyện Mê Linh) dài 41km.
- Về địa hình
Vùng núi có diện tích 549,92 km2, chiếm 40,1% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh; vùng trung du có diện tích 320,88km2, chiếm 23,4% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh; vùng đồng bằng có diện tích 500,68km2, chiếm 35,65% diện tích tự
nhiên toàn tỉnh. Ðiểm cao nhất là đỉnh núi giữa của Tam Ðảo cao 1.542m,
điểm thấp nhất là vùng đồng bằng (xã Trung Hoà, huyện Yên Lạc) cao 15m.
Ðộ cao trung bình là 42m so với mặt nƣớc biển.
- Về khí hậu
Mang khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt. Mƣa bão tập trung vào
các tháng 5 - 8 hàng năm với lƣợng mƣa trung bình hàng năm là 1.556,98
mm. Tần suất lũ lụt, lũ quét thƣờng xảy ra vào tháng 4 - 9; các hiện tƣợng gió
lốc, mƣa đá thƣờng xảy ra cục bộ ở các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tƣờng, Yên
Lạc, Tam Dƣơng, gây đổ nhà cửa , cây cối, phá hoại cây màu, ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Nhiệt độ cao trung bình
hàng năm là 24,90C, trung bình thấp là 17,90C.
- Tài nguyên đất
Tỉnh Vĩnh Phúc có 219.200 ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó: Diện

tích đất nông nghiệp là 66.781 ha, chiếm 48,69%; diện tích đất lâm nghiệp là
30.433 ha, chiếm 22,18%; diện tích đất chuyên dùng là 18.693 ha, chiếm
23


13,63%; diện tích đất ở là 5.158 ha, chiếm 3,76%; diện tích đất chƣa sử dụng
và sông suối đá là 16.071 ha, chiếm 11,71%.
- Tài nguyên rừng
Ðến năm 2002, toàn tỉnh có 30.439 ha rừng, trong đó: Diện tích rừng tự
nhiên là 9.592 ha, diện tích rừng trồng là 20.847 ha.Khu bảo tồn thiên nhiên
có 15.482 ha, thuộc vƣờn quốc gia Tam Ðảo quản lý.
- Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản có 4 loại.
Khoáng sản là nguyên vật liệu xây dựng và nguyên vật liệu làm sứ,
khoáng sản kim loại, khoáng sản là than chƣa khai thác .
- Tài nguyên du lịch
Tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều khu du lịch nổi tiếng, đang đƣợc tỉnh khai thác
nhƣ khu du lịch nghỉ mát núi Tam Ðảo; khu du lịch hồ Ðại Lải; khu du lịch
thắng cảnh chùa Tây Thiên; khu du lịch đền Hai Bà Trƣng, huyện Mê Linh;
khu du lịch Ðầm Vạc, thị xã Vĩnh Yên
- Vềkinh tế - xã hội
Trước năm 1945, Vĩnh Phúc là tỉnh có truyền thống sản xuất nông
nghiệp.Có thể nói, trong khuôn khổ của nền sản xuất tự cung tự cấp, kinh tế
truyền thống ở Vĩnh Phúc trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, về cơ bản
vẫn là nền kinh tế tiền công nghiệp, chậm phát triển, nông nghiệp đóng vai trò
chủ đạo. Thủ công nghiệp đã hình thành ở một số địa phƣơng nhƣng quy mô
nhỏ và trình độ kỹ thuật - công nghệ lạc hậu, sản xuất và tiêu dùng tại chỗ là
chính.
Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công, Vĩnh Phúc (lúc đó bao gồm hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên) cùng cả

24


nƣớc tiến hành xây dựng chính quyền mới. Sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh
Phúc trong thời kỳ này đã có những bƣớc phát triển đáng kể.Tuy nhiên, do
hậu quả chiến tranh, cộng với thiên tai địch họa đã gây không ít khó khăn, cản
trở việc phục hồi kinh tế, phát triển sản xuất. Đồng thời, cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp ngày càng tỏ ra không còn thích hợp, và đã trở thành một
trong những lực cản lớn đối với việc thực hiện các nỗ lực phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh cũng nhƣ của cả nƣớc.
Từ năm 1954 đến năm 1975: Từ cuối năm 1954, cùng với việc khắc
phục hậu quả chiến tranh, tỉnh Vĩnh Phúc tích cực khôi phục kinh tế, tập trung
phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời chú trọng phát triển
công - thƣơng nghiệp. Song song với quá trình phục hồi kinh tế, Vĩnh Phúc đã
tiến hành thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công - thƣơng nghiệp, đặc
biệt là sau thắng lợi của cải cách ruộng đất .công tác khai hoang phục hóa
cũng đƣợc đẩy mạnh.
Từ năm 1975 đến năm 1996: Đây là giai đoạn nhân dân Vĩnh Phúc bắt
tay vào xây dựng quê hƣơng, cùng cả nƣớc xây dựng cơ sở vật chất cho nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đất nƣớc thống nhất. Tuy nhiên,
do hậu quả chiến tranh, cộng với thiên tai địch họa đã gây không ít khó khăn,
cản trở việc phục hồi kinh tế, phát triển sản xuất. Đồng thời, cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp ngày càng tỏ ra không còn thích hợp, và đã trở thành một
trong những lực cản lớn đối với việc thực hiện các nỗ lực phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh cũng nhƣ của cả nƣớc
Tuy cơ chế quản lý và kết quả phát triển kinh tế có biến chuyển nhƣng
đây là thời kỳ nền kinh tế nƣớc ta nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng lâm
vào khủng hoảng, kinh tế tập thể và kinh tế nhà nƣớc gặp nhiều khó khăn,
25



chao đảo. Trong khi đó, kinh tế tƣ nhân chƣa có môi trƣờng phát triển, kinh tế
cá thể chỉ hạn chế ở một số ngành nghề và có quy mô nhỏ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI quyết định thực hiện chính sách Đổi
mới, bắt đầu với việc đổi mới cơ chế kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trƣờng
nhiều thành phần theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, lấy lợi ích vật chất là một
công cụ thúc đẩy khai thác triệt để mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Cùng
với sự chuyển mình của đất nƣớc, diện mạo kinh tế Vĩnh Phúc nói riêng và
Vĩnh Phú nói chung đã có nhiều thay đổi quan trọng.
Quán triệt các chủ trƣơng của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu trong kế
hoạch 5 năm 1986 - 1990 là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
công nghiệp, trong đó tập trung hết sức cho sản xuất lƣơng thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đồng thời tổ chức lại công tác phân phối
lƣu thông, ổn định và cải tiến đời sống cán bộ, công nhân, lực lƣợng vũ trang
và nhân dân lao động; củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, đổi mới cơ chế quản lý; phát triển và nâng cao chất lƣợng các hoạt
động văn hóa, y tế, giáo dục
Tuy vậy, sau 10 năm Đổi mới, Vĩnh Phúc vẫn là tỉnh nghèo, thuần nông
với xuất phát điểm của nền kinh tế thấp. GDP bình quân đầu ngƣời chỉ bằng
48% so với bình quân chung của cả nƣớc. Kinh tế hàng hóa phát triển chậm.
Sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm 52,5% giá trị GDP toàn
tỉnh. 90% dân số vẫn sống tập trung ở nông thôn.Công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp phát triển chậm, chƣa tƣơng xứng với yêu cầu; các tiềm năng du lịch
chậm đƣợc khai thác. Kinh tế hợp tác chậm đổi mới, quy mô kinh tế ngoài
quốc doanh còn nhỏ bé, nguồn tài nguyên chƣa đƣợc khai thác một cách có

×