Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÌNH HÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG HÓA THẠCH Ở VIỆT NAM. THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.51 KB, 24 trang )

GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN MƠI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUN

MÔN : QUẢN LÝ BỀN VỮNG CÁC NGUỒN
NĂNG LƯNG
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:
TÌNH HÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG
HĨA THẠCH Ở VIỆT NAM. THỰC TRẠNG VÀ CÁC
GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU.
GVHD: GS.TS: LÊ CHÍ HIỆP
SVTH: TRẦN THỊ MỸ TUYẾT
MSSV: 1080100068
LỚP: QLMT 2
TP. HỒ CHÍ MINH tháng 06/2011
Trang 1
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI NÓI ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LƯỢNG HÓA THẠCH 4
1. Tổng quan về năng lượng 4
1.1. Định nghĩa năng lượng 4
1.2. Lịch sử sử dụng năng lượng 4
1.3.Phân loại năng lượng 5
2. Năng lượng hóa thạch 7
2.1. Định nghĩa năng lượng hóa thạch 7
2.2. Các nguồn năng lượng hóa thạch 7
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG HÓA THẠCH Ở


VIỆT NAM 14
1.Than 14
1.1.Trữ lượng than Việt Nam 14
1.2.Khai thác và sử dụng than ở Việt Nam 14
2. Dầu khí 16
2.1.Vị trí dầu mỏ Việt Nam 16
2.2.Tình hình khai thác và sử dụng dầu khí ở Việt Nam 17
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN 19
3.1. Nhận xét 19
3.2. Biện pháp phát triển 20
KẾT LUẬN 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
Trang 2
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
LỜI NÓI ĐẦU
Tiến trình lịch sử nhân loại đã thể hiện rõ Năng lượng là động lực của quá trình
phát triển kinh tế và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, nhu cầu về năng lượng
đã và đang tăng trưởng với tốc độ cao. Trong quá trình phát triển, một vấn đề lớn có tính
quốc gia và toàn cầu đang đặt ra ngày một gay gắt. Đó là với tốc độ khai thác như hiện
nay, liệu thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có đủ tiềm năng để đảm bảo nhu cầu
về năng lượng, môi trường sẽ thay đổi như thế nào?
Ngày này mọi quốc gia đều thừa nhận, để phát triển bền vững cần tuân thủ nguyên
tắc phát triển hài hòa giữa ba yếu tố : Kinh tế − Năng lượng – Môi trường.
Thực tế khủng hoảng năng lượng 1973 -74 và 1980-79 và gần đây nhất là cuộc
chiến ở Irac đã xảy ra với qui mô lớn, ảnh hưởng toàn cầu. Khủng hoảng năng lượng đã
tác động mạnh mẽ đến các nước nhập năng lượng, trong đó các nước đang phát triển chịu
ảnh hưởng với tốc độ khai thác của con người.
Do Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa nên nhu cầu năng lượng ngày
một tăng, điều này đồng nghĩa với việc tốc độ khai thác các nguồn năng lượng cũng tăng.
Theo dự báo, nhu cầu năng lượng sơ cấp sẽ tăng lên 37 triệu tấn quy đổi vào năm 2010

và 70 triệu tấn vào năm 2020. Theo tính toán của các chuyên gia, với năng lượng tiêu thụ
như hiện nay, khối lượng khí CO
2
thải ra môi trường năm 2000 là 50 triệu tấn sẽ tăng lên
117 triệu tấn năm 2010 và 230 triệu tấn năm 2020. Như vậy, sự phát triển công nghiệp và
tiêu thụ năng lượng, ô nhiễm môi trường và đặc biệt khối lượng khí phát thải gây hiệu
ứng nhà kính- tác nhân chủ yếu gây biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ tăng lên nhanh chóng .
Chính vì vậy, việc thực hiện các giải pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng
lượng có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần quan trọng giảm tốc độ tăng nhu cầu về
năng lượng, và đồng thời giảm lượng khí phát thải nhà kính từ việc tiêu thụ năng lượng.
góp phần tích cực bảo vệ môi trường toàn cầu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề
này, trong bài này chúng tôi xin trình bày “ Tình hình khai thác,sử dụng năng lượng hóa
thạch ở Việt Nam. Thực trạng và các giải pháp giảm thiểu”
Trang 3
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LƯỢNG HÓA THẠCH
1. Tổng quan về năng lượng
1.1. Định nghĩa năng lượng
Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ 2 nguồn chủ yếu: năng
lượng mặt trời và năng lượng lòng đất.
Năng lượng mặt trời tồn tại ở các dạng chính: Bức xạ mặt trời, năng lượng sinh học
(sinh khối động thực vật), năng lượng chuyển động của khí quyển và thủy quyển (gió,
sóng, thủy triều, các dòng hải lưu…), năng lượng hóa thạch (than, dầu, khí đốt, đá dầu).
Còn năng lượng lòng đất bao gồm nhiệt lòng đất biểu hiện ở các nguồn địa nhiệt, núi lửa
và năng lượng phóng xạ tập trung ở các nguyên tố như U, Th, Po…
Ngoài ra, năng lượng còn được định nghĩa như sau:
Năng lượng là năng lực làm vật thể hoạt động. Có nhiều dạng năng lượng như:
động năng làm dịch chuyển vật thể, nhiệt năng làm tăng nhiệt độ của vật thể…v.v.
Trong thời kỳ sơ khai của loài người, nhiệt sinh ra do đốt than hoặc khí chỉ được sử
dụng trực tiếp vào việc sưởi ấm và nấu nướng. Sau đó, nhiệt được dùng để chạy máy móc

và xe cộ. Ngoài ra, nhiệt còn làm chạy tua bin máy phát điện để sản xuất điện năng. Điện
năng rất tiện lợi, có thể sử dụng ngay lập tức chỉ bằng việc ấn nút nên việc sử dụng rất
rộng rãi.
1.2. Lịch sử sử dụng năng lượng
Thời cổ xưa, con người nguyên thủy chỉ dùng sức mạnh của cơ bắp để sản sinh ra
năng lượng cho cuộc sống, năng lượng này do thức ăn cung cấp; ở giai đoạn hái lượm
vào khoảng 2.000 kcalo/người /ngày. Sau khi phát hiện ra lửa và cải biến công cụ săn bắt
các thú lớn thì năng lượng mà con người tiêu thụ được từ thức ăn đã tới 4.000 - 5.000
kcalo/ngày (khoảng 100.000 năm trước công nguyên), đến cuộc cách mạng nông nghiệp
vào thời đại đồ đá mới (5.000 năm trước công nguyên) thì năng lượng tự nhiên bắt đầu
được khai thác là sức nước và sức gió, đốt than củi để lấy nhiệt năng.
Vào đầu thế kỷ thứ 15 sau công nguyên, năng lượng tiêu thụ theo đầu người một
ngày là 26.000 kcalo. Ðến thế kỷ 18 với cuộc cách mạng công nghiệp ra đời, sự phát
minh ra máy hơi nước đầu tiên đẩy bằng piston, sau đó là vận động bằng tourbine; loại
năng lượng mới này đã tăng cường gấp bội khả năng của con người trong sản xuất và
Trang 4
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
trong lưu thông phân phối. Vì thế năng lượng tiêu thụ theo đầu người ở đầu thế kỷ thứ 19
ước tính khoảng 70.000 kcalo / ngày.
Từ đầu thế kỷ thứ 19 trở về trước thì năng lượng cung cấp do than, củi, rơm, rạ
chiếm 50% trong cơ cấu sử dụng nhiên liệu của nhân loại và sau đó dần dần được thay
thế bằng than đá trong suốt nửa đầu thế kỷ 20.
Ðến khi sự phát minh ra động cơ đốt trong thì dầu mỏ trở thành nguồn nhiên liệu
chính thay thế dần than đá trong công nghiệp. Năng lượng tính theo đầu người vào năm
1970 ở các nước phát triển là 200.000 kcalo/ ngày. Từ nay đến năm 2000 nguồn năng
lượng chủ yếu mà con người sử dụng là dầu mỏ và khí đốt.
1.3.Phân loại năng lượng
Chủ yếu gồm 2 dạng chủ yếu: Năng lượng tái tạo và năng lượng không tái tạo.
1.3.1.Năng lượng tái tạo
a. Định nghĩa

Nguồn tài nguyên thiên nhiên sau khi chuyển hóa thành các chất mang năng
lượng để sử dụng chúng. Tuy đã biến mất, không còn gì nữa nhưng sau đó được thiên
nhiên bù đắp ngay trở lại để chuyển hóa thành nguồn năng lượng mới. Nguồn tài nguyên
thiên nhiên như vậy được gọi là nguồn tài nguyên năng lượng có thể tái tạo được.
b. Phân loại
Các nguồn năng lượng tái tạo có thể phân chia thành ba nhóm sau đây:
- Nhóm I: Bao gồm những nguồn năng lượng nước (năng lượng sông và năng lượng đại
dương), năng lượng gió, năng lượng mặt trời (dưới dạng pin mặt trời quang điện và pin
mặt trời quang điện hóa học). Đặc điểm của nguồn năng lượng nhóm này là không thể
tồn chứa, tích trữ nhưng trữ lượng vô hạn. Năng lượng của nhóm này sau khi thu nhận từ
thiên nhiên được chuyển hóa sang chất mang năng lượng dưới dạng điện năng.
- Nhóm II: Bao gồm những nguồn năng lượng địa nhiệt, năng lượng mặt trời (dưới dạng
nhiệt năng). Đặc điểm của những nguồn năng lượng thuộc nhóm này giống với nhóm I.
Năng lượng của nhóm này sau khi thu nhận từ thiên nhiên được chuyển hóa sang chất
mang năng lượng cả dưới dạng điện năng và nhiệt năng, sử dụng cho các mục đích khác
nhau.
Trang 5
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
- Nhóm III: Bao gồm những nguồn năng lượng sinh khối và chất thải rắn hoặc lỏng. Đặc
điểm của những nguồn năng lượng này có thể tồn chứa, tích trữ và bằng cách đốt cháy
trực tiếp để thu nhiệt năng hoặc điện năng, hoặc chuyển hóa phức hợp sang chất mang
năng lượng dạng nhiên liệu (khí, lỏng, rắn) sử dụng cho nhiều mục đích, chủ yếu làm
nhiên liệu thay thế nhiên liệu từ dầu khí.
Các nguồn năng lượng kể trên khi sử dụng hoàn toàn không có phát thải CO
2
và các
khí thải độc hại. Vì vậy nó là nguồn năng lượng không phát thải carbon.
1.3.2 Năng lượng không tái tạo
a.Định nghĩa
Nguồn tài nguyên thiên nhiên mang năng lượng, khi chuyển hóa thành chất mang

năng lượng để sử dụng, đã tiêu hao mất đi, không còn nữa trong thiên nhiên, sau đó thiên
nhiên không thể tạo lại kịp nguồn tài nguyên này để chúng ta sử dụng tiếp, được gọi là
nguồn tài nguyên năng lượng không thể tái tạo. Năng lượng thu được từ nguồn tài
nguyên thiên nhiên này được gọi là năng lượng không thể tái tạo.
b.Phân loại
Năng lượng hóa thạch: Là năng lượng được sinh ra trong quá trình đốt cháy nhiên
liệu hóa thạch. Nhiên liệu hóa thạch chủ yếu là than đá và dầu mỏ. Việc tạo thành than
đá, dầu mỏ đều là do thiên nhiên mà ra, nó được hình thành từ các vật liệu hữu cơ chứa
carbon trong thiên nhiên (xác thực vật, động vật trên cạn, dưới nước), qua những quá
trình biến đổi phức tạp trong lòng đất xảy ra từ nhiều triệu năm của các niên đại địa chất
trước đây. Nhưng vì tốc độ tạo thành của thiên nhiên là quá chậm so với tốc độ sử dụng
quá lớn của con người ngày nay, nên khi chúng bị cạn kiệt, thiên nhiên không thể tái tạo
kịp những mỏ than, mỏ dầu để sử dụng. Bên cạnh đó, về phương diện phát thải CO
2
, khi
đốt cháy nhiên liệu hóa thạch sẽ xảy ra việc phát thải CO
2
, tương ứng với hàm lượng
carbon chứa trong nó. Lượng CO
2
này phải trải qua hàng triệu năm sau thì thực vật mới
hấp thụ hết và tạo sự cân bằng CO
2
. Vì vậy, nguồn năng lượng này được xem là nguồn
năng lượng có phát thải carbon.
Năng lượng hạt nhân: Được tạo ra do quá trình phân rã hạt nhân nặng thành các hạt
nhân nhẹ hơn từ kim loại phóng xạ urani (U) không chứa nguyên tố carbon (C), nên
nguồn năng lượng này được xem là nguồn năng lượng không phát thải carbon.
Trang 6
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết

2. Năng lượng hóa thạch
2.1. Định nghĩa năng lượng hóa thạch
Năng lượng hóa thạch là các loại năng lượng được tạo thành bởi quá trình phân hủy
kỵ khí của các sinh vật chết bị chôn vùi cách đây hơn 300 triệu năm. Các nguyên liệu này
chứa hàm lượng cacbon và hydrocacbon cao.
2.2. Các nguồn năng lượng hóa thạch
Các nguồn năng lượng hóa thạch hình thành từ rất lâu trong quá trình biến đổi địa
chất của vỏ trái đất gồm có: Than đá và dầu khí.
2.2.1.Than đá:
a. Định nghĩa than đá:
Là năng lượng hóa thạch được hình thành từ thực vật với nước và bùn trong quá
trình kiến tạo vỏ trái đất, bị ôxi hóa và phân hủy vi sinh ở môi trường hiếm khí tạo nên có
thành phần chủ yếu là cacbon.
b. Phân bố than đá trên thế giới :
Từ thế kỷ 20 trở về trước, trong hàng ngàn năm, nguồn năng lượng được con
người sử dụng cho cuộc sống hằng ngày chủ yếu lấy từ gỗ củi, rơm rạ, thân lá thực vật.
Than đá được khai thác vào thế kỷ thứ 10 ở Ðức nhưng không được con người ưa chuộng
vì khó cháy và lại tỏa nhiều khí độc khi đốt.
Ðến thế kỷ 15, ngành công nghiệp luyện kim ra đời và ngày một phát triển, nhất là
đến đầu thế kỷ 19 vơí sự ra đời của các nhà máy nhiệt điện thì nhu cầu sử dụng than đá
chiếm tỷ trọng ngày một lớn. Tuy nhiên, cho đến những năm 60 của thế kỷ 19 thì lượng
than đá khai thác và sử dụng mới chỉ chiếm từ 23% - 27 % trong tổng năng lượng được
sử dụng, còn khí đốt và dầu mỏ thì coi như không đáng kể.
Từ đầu thế kỷ 20 thì cơ cấu thành phần nhiên liệu sử dụng có sự thay đổi lớn, tỷ lệ
dùng than đá, dầu mỏ và khí đốt tăng cao, theo số liệu của năm 1965 thì tỷ lệ đó là 40%,
33,5% và 16,3%. Tuy nhiên, đối với từng khu vực và từng quốc gia, cơ cấu năng lượng
sử dụng phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia,
chẳng hạn như Ấn Ðộ vào năm 1965 thì năng lượng cung cấp do than đá chiếm 40%
trong khi đó năng lượng cung cấp từ điện năng, dầu mỏ, khí đốt chỉ đạt 7%. Tuy nhiên
trong thời gian qua xu hướng sử dụng năng lượng từ than đá có sự giảm sút rõ rệt vì dầu

mỏ và khí đốt được khai thác ngày càng nhiều nên giá thành hạ. Trong những năm gần
Trang 7
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
đây, một xu hướng mới lại xuất hiện ở nhiều nước, trước tình hình dầu mỏ và khí đốt có
hạn, giá lại tăng nhanh nên người ta quay trở lại sử dụng than đá .
Theo Bp, hiện nay than cung cấp 26% nhu cầu năng lượng toàn cầu và hơn 40%
năng lượng để phát điện trên thế giới. Theo cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ( EIA:
Emergy Information Administration) từ năm 1970 đến năm 2004, nhu cầu than đã
tăng 110% (trong khi dầu là 49%) nếu không có đột biến , theo đà này, nhu cầu
dung than sẽ tăng gấp 3 từ nay đến năm 2050.
Theo EIA, trữ lượng than trên toàn thế giới là 930.423 triệu tấn, đứng đầu là
Mỹ, nước có trữ lượng than chiếm chiếm khoảng 28% trữ lượng than thế giới, sau
Mỹ là Nga 18%, Trung Quốc 13%. Sự phân bố than rải rác ở nhiều nước đã giúp
con người giảm bớt mối lo về những rủi ro chính trị đến nguồn năng lượng than so
với dầu khí
 Các nước dẫn đầu về trữ lượng than, 2005
Năm 2007,
thế giới khai thác hơn 7 tỉ tấn, Châu Á và Châu Đại Dương chiếm tỉ trọng lớn nhất, đến
hơn 4 tỉ tấn. Các nước dẫn đầu là Trung Quốc 2,79 tỉ tấn, kế đến là Mỹ 1,1 tỉ tấn và
Trang 8
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
Cananda 0,76 tỉ tấn , Việt Nam 49 triệu tấn , đứng thứ 16 trong các nước về sản
lượng than. Nếu vẫn tiếp tục khai thác như hiện nay thì 131 năm nữa than thế giới
sẽ cạn
kiệt.
Về xuất khẩu than, Úc là nước đang dẫn đầu chiếm 25,4% lượng than xuất khẩu
trên thế giới, kế đến là Indonesia và Nga, còn Việt Nam đứng thứ 9 trong các nước
xuất khẩu than. Ở hầu hết các nước, than được khai thác phần lớn không xuất khẩu
mà chủ yếu dùng trong nước hoặc phải nhập khẩu than cho nhu cầu năng lượng,
chủ yếu là phát điện

 Tỷ lệ sản xuất điện năng từ than tại một số nước , 2006
Quốc gia % Quốc gia
%
Quốc gia %
Ba Lan
Nam Phi
Úc
Trung Quốc
93
93*
80*
78
Israel
Kazakhstan
Ấn Độ
Morocco
71*
70*
69*
69*
Czech Rep
Greece
Mỹ
Đức
59
58
50
47
Nguồn : EIA. *: số liệu năm 2005
Trang 9

GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
c. Các vấn đề môi trường liên quan đến than
• Ảnh hưởng của việc khai thác than :
Việc khai thác than chủ yếu ở 2 dạng mỏ than cơ bản là vỉa than lộ thiên trên bề mặt
và khai thác dưới hầm sâu.
− Việc khai thác các vỉa than trên mặt có những ưu điểm so với khai thác dưới các
hầm mỏ như: ít tốn kém hơn, an toàn hơn cho người thợ mỏ và khai thác than triệt để
hơn. Tuy nhiên, khai thác trên bề mặt lại gây ra vấn đề môi trường như : "xóa sổ" hoàn
toàn thảm thực vật và lớp đất mặt, làm gia tăng xói mòn đất cũng như làm mất đi nơi trú
ngụ của nhiều sinh vật. Hơn nữa, nước thoát ra từ những mỏ này chứa axit và các khoáng
độc, gây ô nhiễm nước, ô nhiễm đất.
− Việc khai thác than dưới các hầm mỏ sâu trong lòng đất lại khá nguy hiểm, xác
suất rủi ro cao. Ở Mĩ, trong suốt thế kỷ 20 đã có hơn 90 000 người thợ mỏ chết vì các tai
nạn hầm mỏ, và thường các công nhân hầm mỏ đều có nguy cơ cao về bệnh ung thư và
nám phổi ( Phổi của họ phủ đầy bụi than).
• Ảnh hưởng của việc đốt than :
Hạn chế lớn nhất của việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch nói chung và than nói riêng
là nó gây ra ô nhiễm không khí do sự phát thải CO
2
, SO
2
, NO
x
Tính trên một đơn vị
nhiệt lượng phát ra thì đốt than thải ra nhiều chất ô nhiễm hơn các nhiên liệu hoá thạch
khác (dầu, khí). Chính vì vậy, việc đốt than đã gián tiếp góp phần vào quá trình biến đổi
khí hậu làm suy thoái môi trường toàn cầu mà nổi bật là hiện tượng hiệu ứng nhà kính và
mưa axit.
Hiện các nhà môi trường đang kêu gọi các nước hạn chế sử dụng than để giảm thiểu
tác nhân gây hiệu ứng nhà kính, hoặc phải áp dụng công nghệ than sạch. Chính phủ các

nước đang có nhiều động thái tích cực trong trách nhiệm giữ gìn hành tinh xanh bằng các
chiến lược năng lượng, đặc biệt là khai thác sử dụng hiệu quả, an toàn nguồn than
còn ẩn khá nhiều trong long đất.
2.2.2. Dầu khí
a. Định nghĩa dầu khí:
Dầu khí bao gồm dầu mỏ và khí đốt là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà
thiên nhiên ban tặng cho con người. So với các loại khoáng sản khác như than đá, đồng,
chì, nhôm, sắt thì dầu khí được con người biết đến và sử dụng muộn hơn.
Trang 10
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
Dầu mỏ và khí đốt là hợp chất hydrocacbon được khai thác lên từ lòng đất thường
ở thể lỏng và thể khí. Ở thể khí chúng bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành. Khí
thiên nhiên là toàn bộ hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao gồm cả khí
ẩm, khí khô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vỉa dầu dưới dạng mũ khí hoặc
khí hoà tan và được khai thác đồng thời với dầu thô. Giống như nhiều loại tài nguyên
khoáng sản khác, dầu khí được hình thành do kết quả quá trình vận động phức tạp lâu dài
hàng triệu năm về vật lý, hoá học, địa chất, sinh học trong vỏ trái đất. Theo quan điểm
của nhiều nhà nghiên cứu, dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên đều được hình thành từ các đá
có chứa vật chất hữu cơ (gọi là đá mẹ) bị chôn vùi dưới điều kiện áp suất và nhiệt độ nhất
định. Sau đó chúng di chuyển đến nơi đất đá có độ rỗng nào đó (đá chứa) và tích tụ lâu
dài ở đó nếu có những lớp đá chắn đủ khả năng giữ chúng (đá chắn).
b. Phân bố dầu khí trên thế giới
Dầu mỏ được khai thác từ xa xưa. Người Babilon đã biết sử dụng asphalt để xây
tường tháp vườn treo Babilon. Năm 347 trước công nguyên người Trung Hoa đã khai
thác giếng dầu. Năm 1857 Rumani đã khai thác dầu thương mại ở Brend phía bắc
Bucaret. Năm 1861 ở Bacu (Azecbaidan) nhà máy lọc dầu được xây dựng, khi đó Cuba
sản xuất 90 % sản lượng dầu thế giới. Năm 1859 ở gần Titusville, Pensylvania Hoa Kỳ
đã hình thành công nghiệp chế biến dầu, các mỏ dầu được khai thác tại Texas, Oklahoma.
Năm 1973 và 1979 do chiến tranh Trung Đông đã xảy ra cuộc khủng hoảng năng lượng
đẩy giá dầu lên tới 35 USD/1 thùng. Ngày 11-7-2008 giá dầu thô đột ngột tăng đến 147

USD/1 thùng.
Trên thế giới hiện có 97 nước có trữ lượng và đang khai thác dầu khí. Hiện nay, các
nhà địa chất đã phát hiện và tính được toàn thế giới có trữ lượng dầu thô là 1.277,7 tỷ
thùng và khí là hơn 176 ngàn tỷ m
3
.

Trang 11
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
Nguồn: World look at reserves and polution, oil & Gas Journal, Vol 104, No.47
Nguồn : Bp
Năm 2007, mức độ tiêu thụ dầu trên toàn thế giới là 84.979 ngàn thùng/ ngày và khí
là 1937.2 tỷ m
3
. Trong đó về dâu thô, đứng đầu là Mỹ với mức tiêu thụ 24.680 ngàn
thùng/ ngày, chiếm khoảng 24 % trên toàn thế giới, kế tiếp là Trung Quốc với 7.565 ngàn
thùng/ ngày − chiếm khoảng 8% trên trên thế giới, Việt Nam đứng thứ 46. Ở vùng Đông
Nam Á, Indonesia là nước dẫn đầu , giữ vị trí 18 trên thế giới.
Các nước có trữ lượng khí lớn là Liên bang Nga - 1,680 triệu bcf; Iran - 940.000
bcf; Qatar - 910.000 bcf, Saudi Arabia - 234.500 bcf và Tiểu vương quốc Ả Rập Xêut
(UAE ) - 212.100 bcf.
Dù rằng các nước vẫn đang quyết liệt tìm kiếm các mỏ dầu, hòng kéo dài mối nhân
duyên dầu mỏ − con người , nhưng cũng chẳng còn bao nhiêu lâu nữa nguồn năng lượng
này sẽ cạn kiệt. Vắt kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trời cho, chỉ khoảng 50 năm nữa
Trang 12
Bắc
Mỹ
Nam
&
Trung

Đông
Châu
Âu &
Eurasi
a
Trung
Đông
Châu
phi
Châu Á
– Thái
Bình
Dương
Tỷ m
3
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
loài người phải đương đầu với thảm họa năng lượng nếu chúng ta cứ duy trì tình trạng
như hiện nay.
C.Các vấn đề môi trường của dầu khí
Dầu khí là nhiên liệu hoá thạch, nên cũng giống như than, chúng phát thải CO
2
vào
không khí, góp phần vào hiệu ứng nhà kính cũng như mưa axit, mặc dù lượng ô nhiễm
thấp hơn than. Dầu đốt không sinh ra lượng sulfur oxit đáng kể nhưng lại sinh ra nitơ
oxit, chủ yếu từ xăng đốt trong các xe ôtô. Nitơ oxit góp phần gây mưa axit.
Đốt khí thiên nhiên ít gây ô nhiễm hơn dầu và than, đây là dạng nhiên liệu hoá thạch
sạch nhất. Các chất khí thải từ những động cơ xe ôtô còn gây ra các khói quang
hóa (photochemical smog), hiện tượng thường xảy ra ở những thành phố lớn, mật độ xe
lưu thông cao.
Ngoài ra, các sự cố như: tràn dầu do đắm tàu, rò rỉ giếng khoan trong quá trình khai

thác, vận chuyển dầu cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, các hoạt động đánh bắt
hải sản, du lịch…gây ra các thiệt hại nghiêm trọng đối với môi trường.
Trang 13
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG
HÓA THẠCH Ở VIỆT NAM
Cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam năm 2005 là: dầu chiếm 40,3%; than
29,4%; thủy điện 11,7%, khí thiên nhiên 18,1%, điện nhập khẩu và năng lượng mới chỉ
chiếm 0,5%. Dự kiến trong vài năm tới, Việt Nam sẽ là nước nhập khẩu năng lượng.
1.Than
1.1.Trữ lượng than Việt Nam
Theo Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam – VINACOMIN, trữ
lượng than Việt Nam rất lớn: Quảng Ninh khoảng 10,5 tỷ tấn trong đó đã tìm kiếm thăm
dò 3,5 tỉ tấn, chủ yếu là than antraxit. Đồng bằng sông Hồng dự báo tổng trữ lượng 210 tỉ
tấn than Ábitum, các mỏ than ở các tỉnh khác khoảng 400 triệu tấn và riêng than bùn
phân bố hầu hết ở 3 miền khoảng 7 tỉ m
3
, chủ yếu tập trung ở miền Nam Việt Nam.
Hiện than Việt Nam khai thác chủ yếu ở Quảng Ninh, trên một vùng rộng lớn
kéo dài từ Phả Lại- Đông Triều theo hình cánh cung về đến Hòn Gai, Cẩm Phả và
đảo Kế Bào có chiều dài 130km,diện tích dải chứa than này là 1300km
2
.
Trữ lượng các mỏ than Quảng Ninh
Nguồn: Công ty Khảo sát Thiết kế mỏ
1.2.Khai thác và sử dụng than ở Việt Nam
Theo EIA, sản lượng than Việt Nam năm 2007 là 49,14 triệu tấn , trong đó: mức
tiêu thụ là 17 triệu tấn, chiếm khoảng 35% sản lượng than; nhập khẩu: 493 triệu
tấn chiếm khoảng 1% sản lượng than; xuất khẩu: 32,64 triệu tấn chiếm khoảng
Trang 14

GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
64% sản lượng than. Với sản lượng than như hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ
sáu trong các nước Châu Á và thứ 17 trên thế giới; chiếm 0,69% sản lượng thế giới.
Đa số các nước sản xuất than cho nhu cầu trong nước, chủ yếu để sản xuất điện , tại
Việt Nam phần lớn than được xuất khẩu, còn lại sử dụng làm chất đốt sinh hoạt chiếm
khoảng 1,5%/năm và sử dụng để phát điện.
Giá bán than trong nước năm qua được điều chỉnh tăng 25 - 30% đối với các
ngành tiêu thụ chính như điện, xi măng, giấy, phân bón sau một thời gian dài các ngành
này hưởng lợi từ mức giá than thấp hơn giá thị trường. Bên cạnh đó, định mức lợi nhuận
trước thuế tăng từ 2% lên 3% trong quý IV/2009 khiến kết quả kinh doanh của hầu hết
các công ty than đều khả quan.
Theo chiến lược phát triển của ngành than, khối lượng xuất khẩu than sẽ giảm dần
để đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước. Trong năm 2010, tập đoàn Công nghiệp
Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đặt kế hoạch tiêu thụ 43 triệu tấn than, trong đó tăng
tiêu thụ trong nước lên 15% (25 triệu tấn) và giảm xuất khẩu xuống 28% so với năm
2009 (18 triệu tấn).
Do Việt Nam sẽ phải phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn nhiệt điện, nhu cầu tiêu thụ
than sẽ rất lớn và sẽ phải nhập khẩu than cho tiêu dùng trong nước. Một số nhà máy nhiệt
điện than sắp chạy hết công suất, như nhà máy Hải Phòng 1 (công suất 600 MW), Quảng
Trang 15
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
Ninh 1 (600MW), Cẩm Phả (600 MW). Các nhà sản xuất điện của Việt Nam đều có các
dự án nhiệt điện than lớn trong tương lai gần.
Như vậy, mặc dù sản lượng không tăng nhưng do giá than trong nước và thế giới
đang vượt qua vùng giá trung bình của năm 2009 trong xu hướng tăng, lợi nhuận của các
công ty ngành than trong năm nay được cho là ổn định.
Ba Tập đoàn: Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), Dầu khí Việt
Nam (PVN) và Điện lực Việt Nam (EVN) vừa hoàn tất đề án trình Chính phủ xin thành
lập Ban chỉ đạo nhập khẩu than cho tổng sơ đồ phát triển điện Việt Nam với nhận định
việc nhập khẩu than từ năm 2012 trở đi là nhiệm vụ cấp kỳ.

Dự báo nhu cầu than cho điện năm 2010 ở mức 11,4 triệu tấn; năm 2015 là 63,2
triệu tấn, đến năm 2020 con số này sẽ lên tới 196 triệu tấn. Sản lượng than của TKV
không thể đáp ứng tốc độ tăng trưởng tiêu thụ này.
Việc đầu tư xây dựng mỏ gặp nhiều khó khăn nên sản lượng than theo quy hoạch
đến 2015 cung ứng cho nền kinh tế sẽ thấp hơn so với quy hoạch phát triển ngành than.
Đến năm 2012, than cho các dự án điện của TKV sẽ thiếu 8,2 triệu tấn, và năm 2015 sẽ
thiếu 12,8 triệu tấn. Lượng than phải nhập khẩu dự kiến cho các nhà máy nhiệt điện phía
Nam ở mức 28 triệu tấn năm 2015, và 66 triệu tấn năm 2020.
Điều đó cho thấy, than là một loại năng lượng rất cần thiết cho ngành điện Việt
Nam và một số nước đang phát triển khác. Các loại năng lượng khác chưa đáp ứng được
nhu cầu sử dụng điện của con người, mặt khác chi phí ban đầu của nó vẫn thấp hơn các
loại năng lượng khác như gió, sóng biển, mặt trời
Theo VINACOM với vận tốc khai thác than như hiện nay thì trữ lượng than được
dự báo ở Quảng Ninh chỉ còn có thể khai thác khoảng 243 năm nữa, tuy nhiên theo theo
EIA chỉ còn 3 năm nữa than Việt Nam sẽ cạn kiệt.
2. Dầu khí
2.1.Vị trí dầu mỏ Việt Nam
Việt Nam đã có những bước thăm dò nguồn dầu khí ở cả nước hai miền Nam – Bắc
từ trước 1975, do hoàn cảnh chiến tranh nên chưa thực hiện được khai thác. Sau khi đất
nước thống nhất, hoạt động dầu khí được đầu tư phát triển và đến năm 1986, Việt Nam
đã có dòng dầu đầu tiên. Đến nay các nhà điạ chất Việt Nam và quốc tế đã xác định thềm
lục địa Việt Nam có các bể trầm tích có triển vọng dầu khí: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu
Trang 16
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
Long, Nam Côn Sơn, Malay- Thổ Chu, Tư Chính- Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa và
Hoàng Sa.
Những bể trầm tích thuộc vùng nước sâu, xa bờ và nhạy cảm về chính trị, Việt Nam
chưa triển khai dò tìm kiếm dầu khí. Hiện có 4 bể trầm tích: Cửu Long, Nam Côn Sơn,
Malay – Thổ Chu và Sông Hồng gồm cả đất liền( miền võng Hà Nội) đã phát hiện và
đang khai thác dầu khí.

Thống kê trữ lượng dầu khí các bể trầm tích
Địa điểm
Diện tích
( Km
2
)
Trữ lượng dầu và khí
( triệu m
3
dầu qui đổi)
Bể Sông Hồng 160.000 400
Bể Phú Khánh 40.000 500
Bể Trường Sa 60.000 800
Bể Hoàng SA - 4.600- 5.000
Bể Cửu Long 60.000 900
Bể Nam Côn Sơn 100.000 600
Bể Malay – Thổ Chu 100.000 600
Nguồn : TC Công nghiệp Mỏ Số 1

2006
2.2.Tình hình khai thác và sử dụng dầu khí ở Việt Nam
Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí ở Việt Nam được bắt đầu từ những năm 1960.
Thành công đầu tiên là phát hiện ra mỏ khí condensat vào năm 1975 và sau đó là mỏ dầu
Bạch Hổ vào năm 1986. Cho đến nay 46 hợp đồng PSC, JOC, và BCC đã được ký kết và
hiện tại 23 hợp đồng đang hoạt động trên diện tích 38 lô trong đó PV tham gia góp vốn
vào 19 hợp đồng. Tổng số vốn đầu tư thăm dò khai thác gần 4 tỷ USD. Cho tới nay,
chúng ta đã tìm ra 63 mỏ phát hiện dầu khí, trong đó có 5 mỏ dầu, 1 mỏ dầu khí và 2 mỏ
khí đang khai thác với sản lượng khoảng 45.000 tấn/ngày. Tuy nhiên mức độ thăm dò
khai thác tập trung chủ yếu ở vùng nước nông hơn 200 mét, diện tích các lô đã ký hợp
đồng chỉ chiếm 1/3 diện tích toàn thềm lục địa, 2/3 diện tích còn lại cần phải được đẩy

mạnh thăm dò khai thác. Hầu hết các công nghệ tiên tiến trong hoạt động thăm dò khai
thác dầu khí của thế giới đã được áp dụng vào Việt Nam từ khâu thu nổ, xử lý, minh giải
địa vật lý, mô hình, mô phỏng vỉa đến khoan, thử vỉa, phát triển và khai thác cũng như
công tác phân tích thí nghiệm.
Trữ lượng và tiềm năng dầu khí ở các diện tích đã thăm dò khai thác là khoảng
3,75 tỷ m
3
quy dầu với tỷ lệ khí trên 50%, trong đó trữ lượng đã phát hiện khoảng 1,25 tỷ
Trang 17
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
m
3
quy dầu, tập trung chủ yếu ở các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn và Mã Lai-Thổ Chu. Để
duy trì và tăng sản lượng khai thác dầu khí hàng năm với kế hoạch đạt 27-30 triệu tấn
quy dầu vào năm 2010, đòi hỏi phải đẩy mạnh nhịp độ thăm dò khai thác nhằm đảm bảo
gia tăng trữ lượng hàng năm bình quân khoảng 50 triệu tấn quy dầu với mức vốn đầu tư
khoảng 150-200 triệu USD/năm.
Tính đến năm 2006, Theo thống kê của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tổng sản
lượng khai thác dầu khí ở nước ta là 20,86 triệu tấn dầu thô quy đổi (tăng 1,5 triệu tấn so
với mức đã thực hiện trong năm 2002). Trong đó có 17,6 triệu tấn dầu thô và 3,7 tỷ m
3
khí thiên nhiên. Dự kiến đến năm 2010, ngành Dầu khí nước ta sẽ khai thác từ trên 30
đến 32 triệu tấn dầu thô quy đổi, nhằm đáp ứng các ngành năng lượng và sản xuất công
nghiệp của cả nước.
Đặc biệt , do nước ta là môt nước đang phát triển nên nhu cầu tiêu thụ sản phẩm
xăng dầu ở nước ta tăng rất nhanh, với mức trung bình khoảng 9 −10 % /năm trong giai
đoạn từ năm 2000 − 2011; 6 −7 % /năm từ năm 2011− 2020. Nhu cầu các sản phẩm
xăng dầu cũng tăng từ 11,2 triệu tấn năm 2005 lên đến 17,5 triệu tấn năm 2010.
Nhu cầu dầu làm nguyên liệu trong công nghiệp hóa dầu tăng nhanh: từ 5 triệu tấn
vào năm 2005 đã lên đến 8 triệu tấn vào năm 2010.Và nhu cầu tiêu thụ khí (80% cho sản

xuất điện): năm 2010 khoảng 8 - 10 tỷ m
3
.
Dầu khí Việt Nam đang trở thành một trong những lĩnh vực đầu tư nước ngoài sôi
động: Nhiều tập đoàn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng hoạt động tại Việt
Nam. Đầu năm nay, BP, PetroVietnam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ
Công nghiệp (MOI) đã ký một biên bản hợp tác để phát triển một trung tâm điện lực tại
Nhơn Trạch sử dụng khí khai thác. Trung tâm điện lực Nhơn Trạch dự kiến sẽ tiêu thụ
2,5 tỉ m
3
khí/năm và có công suất là 2.640 MW. Bên cạnh việc khai thác các mỏ khí và
xây dựng nhà máy điện, BP cho biết họ cũng đang làm việc với các đối tác Việt Nam về
khả năng đầu tư vào việc sản xuất khí hóa lỏng (LPG), một phân khúc thị trường rất có
tiềm năng đối với chiến lược kinh doanh của công ty tại Việt Nam.
Trang 18
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN
3.1. Nhận xét
Theo nhận định của các chuyên gia địa chất ở Việt Nam cho rằng các tài nguyên
khoáng sản ở nước ta, chủ yếu là nguồn năng lượng hóa thạch vừa giàu nếu nói đến tính
đa dạng nhưng không giàu nếu xét về tốc độ khai thác như hiện nay,cùng với những hạn
chế mà nền kinh tế năng lượng Việt Nam đang gặp phải như :
+ Trong sản xuất công nghiệp, xây dựng dân dụng và giao thông vận tải của nước ta
hiện nay, khả năng tiết giảm lãng phí năng lượng còn rất lớn. Hiệu suất sử dụng nguồn
năng lượng trong các nhà máy điện đốt than, dầu của nước ta chỉ đạt được từ 28% đến
32%, thấp hơn so với các nước phát triển khoảng 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp
chỉ đạt khoảng 60%, thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 20%. Năng lượng tiêu
hao cho một đơn vị sản phẩm các ngành công nghiệp chính của nước ta cao hơn nhiều so
với các nước phát triển.
+ Thiếu các biện pháp tiết kiệm năng lượng cùng với công nghệ khai thác lạc hậu,

hiện tượng khai thác trái phép bừa bãi đã làm cho việc sử dụng năng lượng rất kém hiệu
quả, nguồn năng lượng hóa thạch đứng trước nguy cơ cạn kiệt, lãng phí và môi trường bị
hủy hoại nghiêm trọng.
+ Tỷ lệ so sánh giữa mức tăng trưởng nhu cầu năng lượng so với tăng trưởng GDP
của nước ta đang ở mức xấp xỉ 1,7 lần; trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này là dưới 1.
+ Hạn chế về khả năng công nghệ, điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta, việc phát
triển các nguồn năng lượng thay thế cho các nguồn truyền thống đang gặp nhiều khó
khăn, hạn chế khả năng đa dạng hóa các nguồn cung cấp năng lượng.
+ Việc gia tăng mức độ sử dụng năng lượng, luôn luôn kèm theo nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường tại khu vực hoạt động năng lượng và góp phần làm suy giảm chất
lượng môi trường toàn cầu
Do đó, Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng
trong quá trình phát triển năng lượng. Thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần đáp ứng
nhu cầu sử dụng năng lượng ngày một cao hơn của nền kinh tế quốc dân, đồng thời bảo
vệ được môi trường, khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên năng lượng, tiết kiệm ngoại
tệ, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Trang 19
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
3.2. Biện pháp phát triển
− Nhà nước cần cung cấp đầy đủ các thông tin, kiến thức về các biện pháp tiết kiệm
năng lượng , bằng tất cả các phương tiện truyền thông nhắm đến các đối tượng mục tiêu.
− Hoàn thiện về cơ cấu giá cả: cần có một chính sách giá cả năng lượng hợp lý để
khuyến khích tiết kiệm năng lượng, nếu như giá năng lượng quá thấp thì dễ sinh ra sử
dụng lãng phí, thậm chí thất thoát qua biên giới. Thông qua việc tăng cường sử dụng các
công cụ kinh tế môi trường như thuế, phí môi trường, trong việc khai thác và sử dụng
năng lượng ở Việt Nam. Tăng giá bán năng lượng thương mại (than, điện, xăng, dầu, )
để tạo ra các nguồn kinh phí cần thiết cho công tác bảo vệ môi trường.
− Cần tạo ra một thị trường đồng bộ theo đúng luật cung cầu thì mới có thể sử dụng
các thiết bị tiên tiến và hiện đại cần thiết cho đổi mới công nghệ.
− Tăng cường sử dụng hiệu quả các công cụ pháp luật của nhà nước như tiêu chuẩn,

thông tư, văn bản, nghị định. Đẩy mạnh hiệu lực Nghị định số 102/2003/NĐ-CP quy định
về hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Nhằm đề ra các thể chế tài chính
thích hợp, khuyến khích− thúc đẩy các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả;
− Cần thường xuyên kiểm tra, phát hiện các vi phạm và có chế tài xử phạt đối với
những người tự ý thay đổi hệ thống…
− Thường xuyên tiến hành đánh giá tác động môi trường, thanh tra, kiểm tra để
quản lý môi trường các dự án phát triển nguồn năng lượng, khai thác nguồn năng lượng.
− Xây dựng một chiến lược quốc gia về phát triển bền vững về các nguồn năng
lượng của đất nước. Trong đó, ngoài các dạng năng lượng hiện nay cần mở rộng khả
năng sử dụng các nguồn năng lượng sạch (như gió, mặt trời, sóng biển, thủy triều,
nhiệt ), tiết kiệm năng lượng hóa thạch trong tiêu dùng.
− Tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia, các tổ chức kinh
tế, các thiết chế trên thế giới. Củng cố quan hệ truyền thống với các nước ASEAN, Hàn
Quốc, Nga, Australia, EU đồng thời phát triển quan hệ với các nước Trung Âu, Châu
Phi, Mỹ Latinh, Mỹ. Việc ký kết các hiệp định kinh tế, thương mại là cơ sở mở ra nhiều
triển vọng cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh lĩnh vực xăng dầu-dầu khí nói riêng. Tích cực tham gia và củng cố vai trò của
Việt Nam trong hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Trang 20
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
Á - Thái Bình Dương (APEC), tranh thủ ưu thế là thành viên chính thức trong hai tổ
chức kinh tế quốc tế này để thúc đẩy quá trình hội nhập. Đẩy nhanh tiến độ lên lô trình
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Kêu gọi các dự án tài trợ, đầu tư của các tổ
chức như: Tổ chức phát triển công nghiệp thuộc liên hiệp quốc UNIDO, Ngân hàng thế
giới
− Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khai thác
than, dầu khí nói riêng rất cần đến các nguồn thông tin và thị trường công nghệ Bởi vậy
nhà nước cần có chiến lược tổng thể trong việc cung cấp thông tin cũng như hỗ trợ các
doanh nghiệp tự tìm kiếm thông tin cho mình.

 Cụ thể theo tính toán của Bộ Công nghiệp cho thấy, nếu giảm hệ số đàn hồi
năng lượng (tỷ số giữa tốc độ tăng tiêu thụ năng lượng/tốc độ tăng trưởng GDP trong
cùng giai đoạn) từ 1 từ nay xuống 0,9 vào năm 2020 và 0,8 vào các năm sau thì có thể
tiết kiệm được khoảng 1 triệu TOE, tương đương với khoảng 2 triệu TOE (khoảng 500
triệu USD) vào năm 2020.
Mục tiêu giảm hệ số đàn hồi trước hết là nhằm vào công nghiệp và giao thông vận
tải - 2 ngành tiêu thụ năng lượng chính (chiếm khoảng 38% và 35% nhu cầu năng lượng),
tiếp đến là ngành thương mại, dịch vụ và dân dụng.
Ngành công nghiệp Việt Nam hiện đang có cường độ năng lượng rất lớn: để làm ra
1.000 USD giá trị gia tăng thì tiêu thụ khoảng 600 - 700 kg TOE. Các giải pháp chính
được các chuyên gia xây dựng "Chính sách năng lượng quốc gia Việt Nam" đưa ra đối
với ngành này là cần thực hiện các biện pháp công nghệ, cải tiến quản lý, sửa chữa phục
hồi, cải tiến thiết bị; đổi mới nâng cấp thiết bị, thay thế các thiết bị có hiệu suất thấp; đổi
mới công nghệ, sử dụng thiết bị hiện đại có hiệu suất năng lượng cao; thực hiện các giải
pháp khoa học và công nghệ nhằm chế tạo các trang thiết bị và phương tiện sử dụng tiết
kiệm năng lượng.
Đối với ngành giao thông vận tải, việc thực hiện tiết kiệm năng lượng có ý nghĩa lớn
cả về kinh tế và môi trường, đặc biệt là đối với các thành phố lớn. Các giải pháp được
đưa ra đối với ngành này là tăng cường vận tải hành khách và hàng hoá bằng đường sắt
thay cho đường bộ; nghiên cứu phát triển hệ thống tàu điện ngầm tại Hà Nội và TPHCM;
tăng cường sử dụng các loại xe có hiệu suất năng lượng cao, loại bỏ các phương tiện cũ
và hiệu suất thấp; xây dựng quy hoạch giao thông trong các thành phố và quốc gia để xác
Trang 21
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
định các tuyến vận tải hợp lý; thực hiện ưu đãi về thuế, đầu tư để phát triển hệ thống phân
phối và phương tiện sử dụng LPG, khí nén.
Trang 22
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
KẾT LUẬN
Ngày nay, năng lượng hóa thạch là nguồn năng lượng chủ yếu, có vai trò vô cùng

quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân của hầu hết các nước trên thế giới. Đối với Việt
Nam thì nguồn năng lượng này lại càng có ý nghĩa trong việc phát triển kinh tế .
Tuy nhiên, trong những năm qua, các hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng
nguồn năng lượng này ở việt Nam vẫn chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến hiệu suất sử dụng
thấp, mà lãng phí thì nhiều. Kết quả nguồn năng lượng hóa thạch ngày càng cạn kiệt, môi
trường ngày càng bị ô nhiễm, dẫn đến khí hậu ngày càng biến đổi rõ rệt như hiện tương
mưa axit, sự nóng lên của trái đất, hiện tượng băng tan… có tác động rất mạnh mẽ đến
đời sống của chúng ta. Do đó, các cơ quan nhà nước nói chung và mỗi người dân chúng
ta nói riêng cần chung ta thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm hạn chế những
nhược điểm nêu trên và sử dụng năng lượng theo hướng bền vững. Nhằm góp phần đưa
đất nước ta ngày một phát triển trong công cuộc công nghiệp hóa− hiện đại hóa đất nước.
Trang 23
GVHD: GS.TS. Lê Chí Hiệp SVTH: Trần Thị Mỹ Tuyết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dầu khí và dầu khí ở Việt Nam, Trần Mạnh Trí, NXB Khoa học kỹ thuật 1996
2. Dầu mỏ và khí thiên nhiên ngày nay, Đào Bích Thảo, NXB Khoa học kỹ thuật
1976
3. Ô nhiễm không khí, TS Đinh Xuân Thắng, NXB Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí
Minh – 2003.
4. Bảo vệ môi trường không khí; GVC.Hoàng Thị Hiền, PGS.TS.Bùi Sỹ Lý; NXB
Xây dựng Hà Nội – 2007.
5. />6. />cac-ngun-nng-lng-thay-th-hin-nay.html
7. />hieu-qua-nhin-tu-moi-phia-Ky-1.html
8. />huong.aspx
9. />10. />11. />actType=23&ItemID=145&TypeGrp=1&menuid=109000&menulink=100000&m
enuup=109000
12. />%C6%B0%E1%BB%A3ng/
Trang 24

×