Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mục lục
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A-Lời mở đầu
Hiện nay, khi mà nền kinh tế phát triển nhu cầu một xã hội có nền tri thức
cao đang dần trở nên quan trọng. Không còn là mới mẻ khi nhắc đến cụm từ phổ
cập giáo dục Đại học so với nhiều nước trên thế giới. Nhưng ở nước ta hiên nay
giáo dục Đại học vẫn là vấn đề còn nhiều bất cập. Trong những năm gần đây đời
sống của người dân được nâng cao, nhu cầu học tập nói chung và học Đại học
nói riêng của thế hệ trẻ ngày càng tăng cao. Số lượng các trường Đại học cũng
tăng cao kéo theo đó là số lượng người đi học Đại học cũng không ngừng gia
tăng . Đó là những dấu hiệu đáng mừng tuy nhiên phải đau lòng khi nói rằng
hiện nay giáo dục của nước ta chỉ mới là phát triển về số lượng nhưng còn chưa
chú trọng đến chất lượng. Chất lượng giáo dục đại học là vấn đề được xã hội
quan tâm nhất hiện nay. Đặc biệt, khi nước ta gia nhập WTO cạnh tranh về
nguồn nhân lực là rất lớn. Nếu không có bước chuyển mình nâng cao chất lượng
giáo dục thì nguồn nhân lực nước ta khó có thể cạnh tranh được với các nguồn
nhân lực của các nước khác. Và thực trạng sinh viên gia trường không làm đúng
chuyên ngành vẫn sẽ mãi là bài toán khó giải không chỉ riêng của một cấp nào.
Là một sinh viên năm cuối của một trường Đại hoc. Cũng có thể nói là một
người trong cuộc, người chịu ảnh hưởng của nền giáo dục hiện tại. Em cảm
nhận được tầm quan trọng của chất lượng giáo dục Đại học và cũng có rất nhiều
suy nghĩ về vấn đề này. Do vậy em quyết định chọn đề tài: “Chất lượng giáo
dục Đại học hiện tại ở Việt Nam. Thực trạng và những biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục Đại học” làm đề án môn học. Hy vọng sẽ có được cái
nhìn toàn diện và góp phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng giáo
dục đại học nước nhà.
Và em cũng xin chân thành cảm ơn thầy GS.TS Nguyễn Đình Phan đã
giúp đỡ em hoàn thành đề án môn học này.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B- Nội dung chính
I) Chất lượng giáo dục Đại học, các tiêu chuẩn đánh giá và vai trò của giáo
dục Đại học
1.Chất lượng giáo dục Đại học
Quyết định 38/2004/QD-BGD và ĐT 2/12/2004 xác định: “ Chất lượng
giáo dục Đại học là sự đáp ứng mục tiêu đề ra của trường Đại học”. Ta cũng có
thể hiểu chất lượng giáo dục Đại học là: Mức độ của một tập hợp các đặc tính
vốn có đáp ứng nhu cầu xã hội, các đặc tính vốn có là phẩm chất đạo đức, sức
khỏe, kiến thức, phương pháp, kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên ra trường.
Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân,
có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào
tạo, có sức khoẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục Đại học
Để đánh giá chất lượng giáo dục Đại học người ta cũng có các tiêu chuẩn
và các tiêu chí riêng. Cụ thể là ta xem xét dựa trên 10 tiêu chuẩn để đánh giá
chất lượng giáo dục Đại học. Đó là các tiêu chuẩn:
Sứ mạng và mục tiêu của các trường Đại học.
Tổ chức và quản lý.
Chương trình đào tạo.
Các hoạt động đào tạo.
Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên.
Sinh viên.
Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Hoạt động hợp tác Quốc tế.
Thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác.
Tài chính và quản lý tài chính.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Vai trò
Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Nó nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và phát triển nhân tài. Đào tạo ra những
con người có phẩm chất đạo đức, có sức khoẻ, có kiến thức, phương pháp, kỹ
năng lành nghề khi ra trường. Đáp ứng được các nhu cầu của xã hội và các yêu
cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
II) Thực trạng của chất lượng giáo dục Đại học ở Việt Nam
1. Những thành tựu đạt được
Giáo dục Đại học của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã có rất nhiều
cố gắng, đặc biệt trong 20 năm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng
và lãnh đạo. Đánh giá về những thành tựu của giáo dục và đào tạo trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ X đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo tiếp
tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường, quy
mô đào tạo được mở rộng”. Trong những thành tựu chung của ngành giáo dục
và đào tạo, giáo dục Đại học có những tiến bộ rõ nét: Quy mô phát triển mạnh
mẽ, ngành nghề đào tạo đa dạng. Chất lượng không ngừng được nâng lên. Tính
đến cuối năm 2006 cả nước đã có 311 trường Đại học, cao đẳng và được phân
bố khắp mọi miền đất nước. Ngoài những trường Đại học truyền thống được
thành lập ở các đô thị lớn, những năm gần đây hầu như tất cả các tỉnh, thành phố
trong cả nước( kể cả các tỉnh miền núi) đều có trường Đại học, cao đẳng. Đầu
năm học 2006-2007 cả nước đã có hơn 5 triệu sinh viên Đại học, cao đẳng. Đặc
biệt trong nhiều thập kỉ qua nhiều mô hình trường mới trong đào tạo Đại học
như trường dân lập, trường tư thục, trường Đại học trực thuộc địa phương, cao
đẳng cộng đồng ra đời và phát triển. Giáo dục đại học đã đáp ứng được nhu cầu
nhân lực cho giai đoạn vừa qua. Giai đoạn khởi đầu cho sự nghiệp công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất nước. Đáp ứng phần lớn nhu cầu học tập của nhân dân.
Trong những năm đổi mới vừa qua, cơ cấu tổ chức của các trường Đại học
Việt Nam đã có sự biến đổi theo hướng tiến bộ và đạt được một số thành tích
chủ yếu sau:
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cơ cấu tổ chức của các trưòng Đại học phát triển theo hướng thực hiện
khá tốt các chức năng của trường và đa dạng hoá, đảm bảo nâng cao chất lượng
đào tạo .Nhiều trường Đại học đang phấn đấu từ trường đơn ngành trở thành
trường đa ngành, nhiều trường đã thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả
các viện các trung tâm nghiên cứu khoa học, tư vấn, chuyển giao công nghệ,
nhiều trường đẩy mạnh hoạt động của bộ phận khảo thí, thanh tra giáo dục.
Cơ cấu tổ chức bắt đầu chuyển đổi từ chỗ theo mô hình của cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang mô hình theo cơ chế thi trường định hướng xã hội chủ
nghĩa . Trong rất nhiều năm, cơ cấu tổ chức của trường Đại học được tổ chức
theo mô hình kế hoạch hoá tập chung mà đặc trưng chủ yếu của nó là: trường
đơn ngành, tập chung bao cấp từ nhà nước, trường không có quyền tự chủ, bộ
giao chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu tuyển sinh cũng như tổ chức thi tuyển sinh, quy
định mức học phí…Nhưng trong những năm đổi mới vừa qua, trường đã bắt đầu
thực hiện mô hình chuyển đổi theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa mà đặc trưng chủ yếu của nó là: Tổ chức trường theo hướng đa ngành để
đáp ứng nhu cầu xã hội, được giao một số quyền tự chủ về tổ chức nhân sự, về
nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học
Cơ cấu tổ chức của trường được hình thành và thực hiện theo quy trình
hợp lý và theo đúng văn bản pháp quy.Quy trình hợp lý đó là sự bổ nhiệm của
cơ quan quản lý đối với cán bộ quản lý được thực hiện dựa trên cơ sở lấy phiếu
tín nhiệm của cán bộ công nhân viên và thông qua cấp uỷ
Như vậy cơ chế quản lý là yếu tố quyết định cơ cấu tổ chức của trường,
ngược lại cơ cấu tổ chức của trường tác động mạnh mẽ tới cơ chế quản lý của
trường và cơ chế quản lý giáo dục Đại học.
2. Những tồn tại của chất lượng giáo dục Đại học và nguyên nhân
Bước vào giai đoạn mới của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất
nước. Đặc biệt khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới WTO,
những đòi hỏi đối với đào tạo rất lớn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X một lần
nữa khẳng định: “ Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá- hiện đại hoá
đất nước”. Văn kiện Đại hội còn chỉ rõ: “ Đổi mới hệ thống giáo dục Đại học và
sau Đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao
động, phát triển nhánh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu
ngành”. Những yêu cầu trên mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề cập cũng
chính là những bức xúc trong giáo dục Đại học ở nước ta hiện nay.
Chất lượng đào tạo toàn diện nhìn chung còn thấp, chưa đảm bảo được
nguồn nhân lực kỹ thuật cho sự phát triển với tốc độ cao như hiện nay. Theo ý
kiến đánh giá của các nhà quản lý giáo dục và đào tạo, các chuyên gia trong và
ngoài nước về giáo dục đào tạo đại học chưa đạt yêu cầu có nhiều nguyên nhân.
Đó là các nguyên nhân như chương trình đào tạo, chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất kỹ thuật…
Trong bài viết này em muốn nêu lên mặt yếu của chất lượng giáo dục Đại
hoc và phân tích theo các tiêu chí sau:
Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc Đại học
Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc Đại học quá cồng kềnh.Có quá
nhiều môn học( hơn 200 đơn vị học trình). Trong khi đó, thông thường các
trường Đại học trên thế giới chỉ yêu cầu sinh viên tiếp thu khoảng 120 tín chỉ
mà thôi.Có quá nhiều môn học bắt buộc và ít môn tự chọn. Nội dung của các
môn học và chương trình đào tạo chưa được cập nhật. Chưa sát nhập với thực tế.
Nhiều môn thậm chí còn không liên quan tới ngành học. Chương trình đào tạo
lại mang tính duy nhất làm cho sinh viên không thể chuyển sang ngành khác
sau khi đã đăng ký học một chương trình đào tạo. Tức là thiếu đi sự linh hoạt
trong việc chuyển đổi giữa các ngành đào tạo. Các môn học và chương trình đào
tạo không xây dựng dựa trên những kết quả học tập mong đợi của sinh viên.Sự
bất cập về chương trình đã khiến những sinh viên Việt Nam khi ra trường vừa
‘bội thực’ về kiến thức nhưng ‘thiếu vẫn hoàn thiếu’ các kỹ năng thông thường
về nghề nghiệp đó là các kỹ năng như: Kỹ năng giao tiếp, thuyết trình, làm việc
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhóm, giải quyết vấn đề, giao tiếp và viết bằng tiếng Anh, quản lý dự án, tư duy
phê phán…
Trong những nghiên cứu thực tế những năm gần đây, của nhiều nhà nghiên
cứu và trong thực tế sử dụng sinh viên tốt nghiệp các trường Đại hoc, cao đẳng
mới tốt nghiệp ra trường cho thấy những bức xúc về vấn đề chất lượng đào tạo.
Hàng năm chúng ta cho ra trường với số lượng không nhỏ sinh viên tốt nghiệp
đại học, cao đẳng. Tuy nhiên số sinh viên được bố trí công ăn việc làm đúng
chuyên ngành đào tạo lại không nhiều. Rất nhiều người làm việc không dùng
đến bằng cấp được đào tạo. Mặc dù có rất nhiều hội chợ việc làm cho sinh viên,
thanh niên dược tổ chức nhưng người lao động vẫn không tìm kiếm được việc
làm vì không đáp ứng được yêu cầu chất lượng công việc của những nhà sử
dụng.
Đó là hậu quả của chương trình đào tạo của chúng ta, kể cả chương trình
khung do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giảng viên
Đây là vấn đề nhức nhối và đáng quan tâm.Đội ngũ giảng viên thiếu cả về
số lượng lẫn chất lượng. Giảng viên chưa cập nhật kiến thức chuyên ngành liên
quan đến chương trình đào tạo, nội dung môn học, phương pháp giảng dạy và
nghiên cứu . Giảng viên dạy quá nhiều nhưng lương thấp phải làm thêm thiếu
thời gian để nâng cao phương pháp giảng dạy cập nhật nôi dung môn học, và
thiếu cả thời gian tiếp xúc sinh viên nghiên cứu. Cơ chế thưởng chủ yếu dựa trên
thời lượng bài giảng dạy và thâm niên công tác, chưa thực sự khuyến khích
giảng viên thực hiên nghiên cứu. Thực tế theo các chuyên gia thì giảng viên Việt
Nam phải thực hiện giảng dạy quá nhiều thời gian, khoảng trên 20 giờ một tuần
nhưng lương thấp. Thêm vào đó, không có khen thưởng để khuyến khích họ cải
tiến phương pháp giảng dạy. Rất ít giảng viên gặp gỡ sinh viên ngoài phạm vi
lớp học. Ngoài ra phần việc tuyển giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp của
chính trường mình( rất phổ biến ở nhiều trường Đại học của Việt Nam hiện nay)
lại đang cản trở môi trường nghiên cứu năng động.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giảng viên không đáp
ứng được công cuộc đổi mới. Ai cũng biết nhân tố con người quyết định tất cả,
nhưng nhân tố con ngưòi trong trường đại học chưa được xem xét đúng mức từ
những năm cuối của thập kỉ 80 của thế kỉ trước trở về đây. Thời gian gần đây
trong các trường Đại học (kể cả các trường có bề dày truyền thống ) hiện tượng
hẫng hụt và thiếu các giảng viên là điều dễ thấy, nhất là đội ngũ giảng viên có
chất lượng cao thiếu nghiêm trọng. Lý do chính là thiếu quan tâm đầu tư . Trước
những năm 80 của thế kỉ trước việc chọn người gửi đi đào tạo tại các nước Xã
hội chủ nghĩa rất được coi trọng kết quả là chúng ta có đội ngũ giảng viên làm
lòng cốt cho việc đào tạo đại học và sau đại học cho đến ngày nay. Tuy nhiên từ
khi bước vào thời kì đổi mới đặc biệt từ năm 1991 ( lúc Liên Xô va Đông Âu
sụp đổ) quan hệ giao lưu Quốc tế thay đổi lớn đội ngũ nhân viên, giảng viên đào
tạo trước đây tỏ ra bất cập, vì phần lớn không có điều kiện tiếp xúc các môi
trường đại học Âu -Mỹ. Đội ngũ này không được trang bị lại ngoại ngữ một
cách nghiêm túc, không được trang bị them kiến thức và không có mối quan hệ
hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Rõ ràng giáo viên ít có điều kiện tiếp xúc
với trình độ phương Tây. Do vậy học tro do họ đào tạo ra vì thế không theo kịp
trình độ của thời đại. Đội ngũ giảng viên hiện nay phần lớn được đào tạo trong
nước nhược điểm lớn của họ là không thông thạo ngoại ngữ ít vôn liếng văn
hoá của các nước Phương Tây và ít có mối quan hệ với các trường Đại học các
viện nghiên cứu Âu -Mỹ. Nếu đội ngũ này không được nâng cấp thì sự hẫng hụt
và thiếu giảng viên có chất lượng là điều khó tránh khỏi.
Giảng dạy và học tập ở bậc Đại học
Phương pháp giảng dạy kém hiệu quả: diễn thuyết, thuyết trình, ghi nhớ
một cách máy móc, giao ít bài tập về nhà, ít có sự tương tác giữa sinh viên và
giảng viên. Sinh viên học quá nhiều trên lớp mỗi ngày và quá nhiều môn trong
một học kỳ, không có thời gian để lĩnh hội tài liệu, và học tập tự nghiên cứu
Thiếu chú trọng đến phát triển các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp. Thiếu
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trang thiết bị học tập. Về vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu ở một số các khía cạnh
sau:
• Thứ nhất: Phương pháp giảng dạy lạc hậu
Quá lâu trong tuyệt đại đa số các trường Đại học của chúng ta vẫn sử dụng
phương pháp giảng dạy theo phương pháp truyền thống là thuyết trình, đây là
kiểu truyền đạt thụ một chiều. Việc dạy học hiện nay vẫn là viết lên bảng, dùng
phấn trắng. Sinh viên chỉ biết nghe tiếp thu, ghi chép, thiếu suy nghĩ, thiếu động
não, sáng tạo.Đến các kỳ thi( kể cả hết môn học, hết học phần hay cuối khoá) là
học thuộc lòng. Thậm chí nhiều năm qua, đã có câu ca trong dân gian về phương
pháp giảng dạy không hợp thời này “ thầy đọc, trò ghi, đi thi mở sách”. Phương
pháp giảng dạy này thực sự ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo. Giảng viên lười
nghiên cứu mà chỉ cần đọc các giáo trình và lên diễn thuyết, sinh viên thụ động
và chỉ biết nghe lời thầy. Điều này xem ra không khác gì phổ thông cấp 4 chứ
không hẳn là sinh viên Đại học.
• Thứ hai: Việc học tập của sinh viên
Việc học của sinh viên quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu học
thuộc lòng mà không nhấn mạnh đến học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao( như
phân tích và tổng hợp). Sinh viên học thụ động như ghi chép và nhớ lại những
thông tin đã học thuộc khi làm bài thi. Trình độ của sinh viên khi nghe giảng còn
quá thấpđể tiếp thu bài giảng. Điều này ngược với các trường Đại học ở những
nước phát triển nơi mà các chuyên đề nghiên cứu, các hội thảo chuyên ngành và
các bài giảng trình bày bởi những người không thuộc trường luôn được sự
hưởng ứng mạnh mẽ của các giảng viên của khoa. Phần lớn các sinh viên Việt
Nam không sử dụng thành thạo tiếng Anh, ngôn ngữ khoa học hiện nay, điều
này là một cản trở lớn đến khả năng của họ trong việc tiếp thu kiến thức từ các
bài giảng của các chuyên gia nước ngoài.
• Thứ ba: Thiếu tài liệu giảng day
Trong các cơ sở giáo dục và đào tạo nói chung, trong các trường Đại hoc
nơi đào tạo các cán bộ kỹ thuật có trình độ cao nói riêng tài liệu giảng dạy bao
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gồm: Giáo trình, tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn phải là “cẩm nang” của sinh
viên. Tuy nhiên trên thực tế, ngoài những trường trọng điểm của Nhà nước được
đầu tư ngân sách để viết giáo trình, mua tài liệu giảng dạy tương đối đầy đủ. Các
trường không thuộc loại trên thì kinh phí dành cho lĩnh vực này rất hạn hẹp, chủ
yếu các trường dành một phần không lớn để đầu tư.Nhiều trường Đại học chủ
yếu là các trường ở xa trung tâm lớn và các trường mới thành lập tài liệu giảng
dạy rất thiếu, sinh viên không có đủ tài liệu để học tập và nghiên cứu. Nhiều lý
do dẫn tới thiếu tài liệu giảng dạy. Một phần do nguồn tài chính chưa đáp ứng,
một phần do chưa nhận thức đúng về việc mang tính bắt buộc đáp ứng yêu cầu
tài liệu giảng dạy để nâng cao trình độ cho giảng viên và cho sinh viên
• Thứ tư: Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị dạy học
Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị dạy học không theo kịp yêu cầu.
Thời gian vừ qua mặc dù là đã rất cố gắng trong việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật cho các trường Đại học, kể cả việc vay tiền để đầu tư như Chính phủ vay
tiền của Ngân hàng Thế giới để thực hiện Dự án giáo dục Đại học, nhưng vẫn
chưa thể so sánh được với trường Đại học nước ngoài. Trang thiết bị, phòng học,
các thư viện, phòng thí nghiệm ở các Đại học rất yếu kém vừa không cập nhật
vừa không có hệ thống. Vào mạng ở các trường Đại học ở nước ngoài, chưa nói
tới các nước Âu-Mỹ, chỉ riêng các trường Đại học lớn ở Nga, Trung Quốc-các
nước vừa chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, họ cũng có nhiều thư
viện điện tử, nhiều kho dữ liệu rất phong phú cho sinh viên, giảng viên sử dụng.
Còn đối với nước ta có quá ít các thư viện điện tử, kho dữ liệu cho sinh viên và
giảng viên sử dụng. Cũng không nhiều trường Đại học có trang Web mang nội
dung học thuật để cho các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý và sinh viên truy
cập.Trong thời đại điện tử, với khẩu hiệu hô hàotự học, học suốt đời mà lại thả
nổi việc sử dụng phương tiện hiên đại như thế cho sinh viên, thì còn có gì biện
minh được về chính sách phát triển Đại học của đất nước?
Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của nhà trường.
10