Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Năng lượng Các giải pháp quản lý năng lượng hướng đến sự phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.19 KB, 25 trang )

Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
MỤC LỤC

PHẦN MỞ BÀI 3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LƯỢNG 3
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG Ở VIỆT NAM
VÀ TRÊN THẾ GIỚI 9
CHƯƠNG 3. QUẢN LÝ NGUỒN NĂNG LƯỢNG 12
CHƯƠNG 4.CÁC GIẢI PHÁP CHUYỂN DẦN SANG NỀN KINH TẾ
ÍT PHÁT THẢI CARBON TRONG THẾ KỶ 21 17
PHẦN KẾT LUẬN 26
Phan Công Minh –QLMT-K2010
1
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
PHẦN MỞ BÀI
Năng lượng có vai trò quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người.
Quốc gia nào tự chủ về năng lượng thì quốc gia đó sẽ có điều kiện thuận lợi để phát
triển mạnh mẽ. Năng lượng chính là thước đo sự giàu có của nền kinh tế một quốc
gia.
Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác quá mức và ồ ạt các nguồn năng lượng đã
làm cho nguồn năng lượng trở nên cạn kiệt. Bênh cạnh đó, việc sử dụng lãng phí
nguồn năng lượng không những làm cho nguồn năng lượng cạn kiệt mà còn góp
phần làm ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước vì những chi phí bỏ ra cho việc đáp
ứng nhu cầu sử dụng năng lượng và khắc phục những thiệt hại do việc phát thải
CO2 ra môi trường là quá lớn. Bởi vì, nhu cầu sử dụng năng lượng càng cao, thì
việc khai thác năng lượng sẽ gia tăng dẫn đến việc xả thải CO2 và các khí độc khác
gây hủy hoại môi trường càng trầm trọng, nó gây ảnh hưởng đến đời sống, sức
khỏe của con người và gây ra hiệu ứng nhà kính.
Hiện nay và đến gần cuối thế kỷ 21, năng lượng hóa thạch đặc biệt là dầu mỏ
vẫn là nguồn năng lượng quan trọng nhất chưa có dạng năng lượng nào có thể thay
thế được. Nhưng đây là dạng năng lượng không tái tạo, dù trữ lượng có lớn đến đâu


rồi thì cũng sẽ đến lúc cạn kiệt, giá thành cao và sử dụng gây ra ô nhiễm. Việc sử
dụng các loại nhiên liệu hoá thạch trong nhiều thập kỷ qua đã gây ra những hậu quả
về biến đổi khí hậu ngày nay. Đây thực sự là mối đe dọa với nhiều nước, trong đó
có Việt Nam.
Trước thực trạng như thế, việc tìm ra các giải pháp để sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả đang là vấn đề thời sự nóng bỏng, và là mối quan tâm lớn của các
cơ quan chức năng và cộng đồng. Việc sử dụng năng lượng bền vững là một trong
số những giải pháp cho sự phát triển bền vững và góp phần ứng phó tích cực đối
với sự biến đổi khí hậu.
Bài tiểu luận “Năng lượng - Các giải pháp quản lý năng lượng hướng đến sự
phát triển bền vững” sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin tổng quát về năng
lượng, hiện trạng sử dụng năng lượng, các giải pháp để thực hiện việc quản lý tiết
kiệm năng lượng và hiệu quả để hướng đến sự phát triển năng lượng bền vững
trong tương lai.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
2
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LƯỢNG
1.1 Khái niệm về năng lượng và chất mang năng lượng
1.1.1 Năng lượng
- Năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai nguồn chủ yếu:
năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất.
- Năng lượng mặt trời tồn tại ở các dạng chính: bức xạ mặt trời, năng lượng
sinh học (sinh khối động thực vật), năng lượng chuyển động của khí quyển và thủy
quyển (gió, sóng, thủy triều, các dòng hải lưu…), năng lượng hóa thạch (than, dầu,
khí đốt, đá dầu). Còn năng lượng lòng đất bao gồm nhiệt lòng đất biểu hiện ở các
nguồn địa nhiệt, núi lửa và năng lượng phóng xạ tập trung ở các nguyên tố như U,
Th, Po…
Ngoài ra, năng lượng còn được định nghĩa như sau:
Năng lượng là năng lực làm vật thể hoạt động. Có nhiều dạng năng lượng như:

động năng làm dịch chuyển vật thể, nhiệt năng làm tăng nhiệt độ của vật thể…v.v.
1.1.2 Chất mang năng lượng
Là chất có khả năng tạo ra năng lượng dưới dạng công cơ học hoặc nhiệt, hoặc
để thực hiện các quá trình hóa học hoặc vật lý. Những chất hoặc vật mang năng
lượng như là: Than, dầu, khí, đập ngăn nước của trạm thủy điện, ánh nắng mặt trời
v.v. Chúng có năng lượng dưới những hình thức khác nhau và có thể chuyển hóa
thành những dạng năng lượng có các lợi ích khác nhau để sử dụng khi cần thiết.
Chất mang năng lượng này có thể là những chất đốt hoặc nhiên liệu động cơ,
nhưng cũng có thể là những chất không thuộc hai loại trên như điện hoặc nhiệt.
1.2 Các đơn vị đo năng lượng theo Hệ Quốc Tế (International system of
units -SI)
1.2.1. Các bội số đơn vị năng lượng
Trong các thống kê liên quan đến năng lượng theo hệ quốc tế SI, thường sử
dụng đi kèm các tiền tố của hệ thập phân, biểu thị mức độ lớn hơn theo các bội số
như sau (bảng 1.1):
Bảng 1.1. Các tiền bội số của các đơn vị năng lượng thường được sử dụng
Bội số Tên gọi Viết tắt
101 deca da
Phan Công Minh –QLMT-K2010
3
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
102 hecto h
103 kilo k
106 mega M
109 giga G
1012 tera T
1015 peta P
1018 exa E
Ghi chú: Từ kilo trở xuống viết chữ thường, từ mega trở lên viết chữ hoa.
1.2.2.Các đơn vị năng lượng theo SI

Đơn vị năng lượng theo hệ quốc tế (SI) là Joule (J). Có nhiều năng lượng khác
được sử dụng để biểu thị định lượng về năng lượng vì lý do lịch sử như tấn than
tương đương (tonne of coal equivalent – tce), ngày nay đã được thay thế bằng đơn
vị tấn dầu tương đương (tonne of oil equivalent – toe), được xác định bằng 41,868
gigajoules (GJ). Về quan hệ giữa tce và toe, 1tce = 0,7toe. Nhiều số liệu thống kê
về năng lượng vẫn còn dùng đơn vị này nhưng hiện nay thường sử dụng đơn vị
terajoule (TJ) như khuyến cáo của Tổ chức Tiêu chuẩn Thế Giới (International
standards organization – ISO).
Năng lượng nhiệt được tính bằng calorie (cal) cũng được sử dụng dùng làm
đơn vị năng lượng, tương đương với 4,1868 joules. Đơn vị nhiệt cũng được quốc tế
thừa nhận sử dụng là đơn vị nhiệt của Anh – (British thermal unit – Btu), tương
đương với 1,055,06 joules.
Sản lượng điện được đánh giá bằng gigawatt-h (GW-h), công suất máy phát
điện được đánh giá bằng megawatts (MWe). Tuy nhiên, trong trường hợp nhà máy
điện mặt trời, công suất được đánh giá trên một đơn vị 1.000 m
2
tấm panel mặt trời,
còn đối với nhiên liệu sinh học, công suất nhà máy nhiên liệu sinh học được đánh
giá bằng tấn/năm (tonne/year) vì phụ thuộc vào vụ canh tác và thu hoạch trong
năm.
1.3 Năng lượng sơ cấp và năng lượng thứ cấp
1.3.1.Năng lượng sơ cấp
Năng lượng sơ cấp là năng lượng chứa trong tài nguyên thiên nhiên. Chẳng
hạn như: dầu mỏ, khí thiên nhiên, than…Trong các thống kê về năng lượng, trữ
Phan Công Minh –QLMT-K2010
4
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
lượng hoặc cung cấp, tiêu thụ năng lượng thường sử dụng khái niệm năng lượng sơ
cấp.
1.3.2.Năng lượng thứ cấp

Quá trình chuyển hóa năng lượng dạng sơ cấp có thể thu được các chất mang
năng lượng để sử dụng cho các mục đích khác nhau. Các chất mang năng lượng
này được gọi là năng lượng thứ cấp. Chẳng hạn như, từ than, dầu mỏ, khí thiên
nhiên bằng cách đốt cháy tạo ra nhiệt và hơi nước quay tua bin để phát điện, điện
chính là năng lượng thứ cấp. Hoặc là, bằng các quá trình chế biến, chuyển hóa than,
dầu, khí thành các chất mang năng lượng khác như các sản phẩm nhiên liệu xăng,
dầu, than cốc, khí hóa lỏng…để sử dụng làm nhiên liệu trong đời sống, trong sản
xuất công nông nghiệp, giao thông vận tải, các sản phẩm này gọi là năng lượng thứ
cấp. Những sản phẩm của quá trình chuyển hóa năng lượng sơ cấp không sử dụng
với mục đích năng lượng, không thuộc loại năng lượng thứ cấp như các sản phẩm
hóa dầu cho công nghiệp tổng hợp hóa học, các dung môi dầu mỏ, các loại dầu mỡ
bôi trơn, các loại bitum nhựa đường.
1.4 Năng lượng tái tạo và năng lượng không tái tạo
1.4.1 Năng lượng tái tạo
a.Định nghĩa
Nguồn tài nguyên thiên nhiên sau khi chuyển hóa thành các chất mang năng
lượng để sử dụng chúng, tuy đã biến mất, không còn gì nữa nhưng sau đó được
thiên nhiên bù đắp ngay trở lại để chuyển hóa thành nguồn năng lượng mới. Nguồn
tài nguyên thiên nhiên như vậy được gọi là nguồn tài nguyên năng lượng có thể tái
tạo được.
Các dạng năng lượng như: bức xạ mặt trời, sinh khối, động năng của gió,
động năng của nước sông, suối trong đất liền, của sóng biển, thủy triều ngoài đại
dương, nhiệt độ cao của các địa tầng trong lòng đất được thu lại và chuyển hóa
thành các chất mang năng lượng có thể sử dụng được như điện, nhiệt hoặc nhiên
liệu các loại thì được xem là những nguồn tài nguyên thiên nhiên chứa năng lượng
có thể tái tạo được.
b.Phân loại
Các nguồn năng lượng tái tạo kể trên có thể phân chia thành ba nhóm sau đây:
- Nhóm I, bao gồm những nguồn năng lượng nước (năng lượng sông và năng
lượng đại dương), năng lượng gió, năng lượng mặt trời (dưới dạng pin mặt trời

quang điện và pin mặt trời quang điện hóa học). Đặc điểm của nguồn năng lượng
nhóm này là không thể tồn chứa, tích trữ nhưng trữ lượng vô hạn. Năng lượng của
nhóm này sau khi thu nhận từ thiên nhiên được chuyển hóa sang chất mang năng
lượng dưới dạng điện năng.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
5
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
- Nhóm II, bao gồm những nguồn năng lượng địa nhiệt, năng lượng mặt trời
(dưới dạng nhiệt năng). Đặc điểm của những nguồn năng lượng thuộc nhóm này
giống với nhóm I. Năng lượng của nhóm này sau khi thu nhận từ thiên nhiên được
chuyển hóa sang chất mang năng lượng cả dưới dạng điện năng và nhiệt năng, sử
dụng cho các mục đích khác nhau.
- Nhóm III, bao gồm những nguồn năng lượng sinh khối và chất thải rắn hoặc
lỏng. Đặc điểm của những nguồn năng lượng này có thể tồn chứa, tích trữ và bằng
cách đốt cháy trực tiếp để thu nhiệt năng hoặc điện năng, hoặc chuyển hóa phức
hợp sang chất mang năng lượng dạng nhiên liệu (khí, lỏng, rắn) sử dụng cho nhiều
mục đích, chủ yếu làm nhiên liệu thay thế nhiên liệu từ dầu khí.
Các nguồn năng lượng kể trên khi sử dụng hoàn toàn không có phát thải CO2
và các khí thải độc hại. Vì vậy nó là nguồn năng lượng không phát thải carbon.
1.4.2 Năng lượng không tái tạo
a.Khái niệm
Nguồn tài nguyên thiên nhiên mang năng lượng, khi chuyển hóa thành chất
mang năng lượng để sử dụng, đã tiêu hao mất đi, không còn nữa trong thiên nhiên,
sau đó thiên nhiên không thể tạo lại kịp nguồn tài nguyên này để chúng ta sử dụng
tiếp, được gọi là nguồn tài nguyên năng lượng không thể tái tạo. Năng lượng thu
được từ nguồn tài nguyên thiên nhiên này được gọi là năng lượng không thể tái tạo.
b.Phân loại
Năng lượng hóa thạch: Là năng lượng được sinh ra trong quá trình đốt cháy
nhiên liệu hóa thạch. Nhiên liệu hóa thạch chủ yếu là than đá và dầu mỏ. Việc tạo
thành than đá, dầu mỏ đều là do thiên nhiên mà ra, nó được hình thành từ các vật

liệu hữu cơ chứa carbon trong thiên nhiên (xác thực vật, động vật trên cạn, dưới
nước), qua những quá trình biến đổi phức tạp trong lòng đất xảy ra từ nhiều triệu
năm của các niên đại địa chất trước đây. Nhưng vì tốc độ tạo thành của thiên nhiên
là quá chậm so với tốc độ sử dụng quá lớn của con người ngày nay, nên khi chúng
bị cạn kiệt, thiên nhiên không thể tái tạo kịp những mỏ than, mỏ dầu để sử dụng.
Bên cạnh đó, về phương diện phát thải CO2, khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch sẽ
xảy ra việc phát thải CO2, tương ứng với hàm lượng carbon chứa trong nó. Lượng
CO2 này phải trải qua hàng triệu năm sau thì thực vật mới hấp thụ hết và tạo sự cân
bằng CO2. Vì vậy, nguồn năng lượng này được xem là nguồn năng lượng có phát
thải carbon.
Năng lượng hạt nhân: được tạo ra do quá trình phân rã hạt nhân nặng thành
các hạt nhân nhẹ hơn từ kim loại phóng xạ urani (U) không chứa nguyên tố carbon
(C), nên nguồn năng lượng này được xem là nguồn năng lượng không phát thải
carbon.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
6
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
1.5 Vai trò của năng lượng
Năng lượng có vai trò quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Quốc
gia nào tự chủ được năng lượng, giàu có về năng lượng, quốc gia đó sẽ có điều kiện
thuận lợi để phát triển mạnh mẽ và giữ được độc lập dân tộc.
Trong thời kỳ sơ khai của loài người, nhiệt sinh ra do đốt than hoặc khí chỉ
được sử dụng trực tiếp vào việc sưởi ấm và nấu nướng. Sau đó, nhiệt được dùng để
chạy máy móc và xe cộ. Ngoài ra, nhiệt còn làm chạy tua-bin máy phát điện để sản
xuất điện năng. Điện năng rất tiện lợi, có thể sử dụng ngay lập tức chỉ bằng việc ấn
nút nên được sử dụng rất rộng rãi.
Theo một số nghiên cứu lịch sử thì năng lượng dầu mỏ (dạng asphalt) đã được
sử dụng cách đây khoảng 4.000 năm để xây dựng các bức tường của tháp Babylon.
Từ năm 1859 dầu mỏ bắt đầu được khai thác ở Hoa Kỳ, sản phẩm chủ yếu từ dầu
là dầu hỏa dùng để thay thế cho các loại dầu động vật (như cá voi) đắt tiền.

Vào cuối thể kỷ 18, máy hơi nước dùng nhiên liệu than đá được phát minh ở
Anh. Từ đó, cuộc cách mạng về năng lượng tạo động lực bùng nổ và dẫn đến cuộc
cách mạng công nghiệp.
Trong xã hội văn minh ngày nay, chúng ta không thể sống mà thiếu năng
lượng. Chẳng hạn như, nguồn năng lượng điện đã đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong cuộc sống. Chúng ta không thể có cuộc sống văn minh mà không có
điện, điện phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con người, phục vụ
cho công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng v.v.
Bên cạnh đó, năng lượng gió mang lại rất nhiều lợi ích cho con người và xã
hội. Năng lượng gió góp phần làm cho môi trường trong sạch. Hiện nay, năng
lượng được tạo ra từ nhiên liệu hóa thạch chiếm khoảng 67% năng lượng được
cung cấp cho toàn cầu, nhưng lại làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vì khí CO2
mà chúng thải ra. Khí CO2 được chứng minh là khí nhà kính tạo ra những thay đổi
khủng khiếp về môi trường và đang hủy hoại dần cuộc sống của chúng ta.Tua-bin
điện gió tạo ra năng lượng mà không tạo ra khí CO2. Chỉ cần mất khoảng từ 2-3
tháng để sản xuất ra tua-bin, rồi sau đó lắp đặt và đưa vào sử dụng. Ngoài ra, nếu
đưa năng lượng gió vào hệ thống cấp điện sẽ làm giảm tổng thể giá điện vì: Thứ
nhất là, tua-bin gió không tiêu thụ nhiên liệu nên chi phí bảo trì không cao. Điều
này có nghĩa là khi xây dựng một trang trại gió, nhà đầu tư sẽ đỡ phải tốn một
khoản tiền lớn để chi mua nhiên liệu mà còn khai thác được tối đa tiềm năng từ
gió. Thứ hai là, vì điện gió không thải ra CO2 nên các nhà đầu tư tiết kiệm được
một khoản tiền để đầu tư cho các thiết bị máy móc thân thiện với môi trường hay
các phí khác phải đóng khi thải ra khí CO2 vượt mức cho phép. Ngoài ra, nguồn
năng lượng gió còn tạo công ăn việc làm cho người dân. Một minh chứng cụ thể là
tại Châu Âu. Dựa trên số liệu thống kê từ Eurostat, việc làm trong lĩnh vực năng
lượng gió sẽ chiếm khoảng 7.3% việc làm so với ngành điện, khí đốt, hơi nước, cấp
Phan Công Minh –QLMT-K2010
7
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
nước. Hiện tại, năng lượng gió cung cấp khoảng 3.7% nhu cầu năng lượng của EU.

Và theo dự đoán của EWEA, vào năm 2020 thì các dự án của ngành năng lượng
gió sẽ chiếm khoảng 318.000 nhân công (bao gồm nhân công trực tiếp và gián tiếp)
nếu liên minh Châu Âu đạt được mục tiêu là sử dụng 20% nguồn năng lượng tái
tạo.
Ngoài ra, những nguồn năng lượng khác cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong cuộc sống.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
8
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG Ở VIỆT NAM
VÀ TRÊN THẾ GIỚI
2.1 Hiện trạng sử dụng năng lượng ở Việt Nam
Theo số liệu của Bộ Công thương, tỉ lệ tăng trưởng nhu cầu năng lượng ở Việt
Nam hiện tăng ở mức gấp đôi so với tỉ lệ tăng trưởng GDP. Trong khi đó, ở các
nước phát triển, tỉ lệ này chỉ ở mức dưới 1. Tiêu thụ năng lượng của Việt Nam ngày
càng gia tăng, gấp gần 5 lần trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 (từ mức
4,21 triệu tấn dầu qui đổi lên 19,55 triệu tấn theo thứ tự), với một mức tăng trung
bình hằng năm trong giai đoạn này là 11,7%/năm. Dự kiến, Việt Nam sẽ trở
thành nước nhập khẩu năng lượng từ năm 2015
Căn cứ vào cơ cấu tiêu thụ năng lượng có thể thấy nhu cầu năng lượng ở nước
ta đang tăng khá nhanh. Nếu lấy số liệu so sánh trong khoảng thời gian giữa 2 năm
1990 và năm 2007, thì tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng đã tăng từ 16,76 triệu tấn
dầu qui đổi (TOE) lên 40,75 triệu TOE, trong đó tiêu thụ than tăng từ 7,9% lên
14,9%; xăng dầu tăng từ 14,8% lên 34,4%; khí đốt tăng từ 0,03% lên 1,33%; điện
tăng từ 3,2% lên 12,9%.
Trong khi đó, tình trạng lãng phí năng lượng lại rất lớn và hiệu quả sử dụng
năng lượng còn rất thấp. Cụ thể, trong khâu sản xuất ra năng lượng, hiệu suất sử
dụng năng lượng tại các nhà máy nhiệt điện chỉ đạt 28 - 32% (thấp hơn mức thế
giới 10%), hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt chừng 60%).
Trong khâu tiêu thụ năng lượng, tình hình sử dụng năng lượng kém hiệu quả càng

trầm trọng. Trong sản xuất công nghiệp (hộ tiêu thụ lớn nhất, chiếm hơn 50% số
năng lượng phát ra), tỷ suất năng lượng tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm cao hơn
nhiều không chỉ so với các nước tiên tiến, mà so cả với những nước trong khu vực.
Theo tính toán cường độ năng lượng trong công nghiệp của nước ta cao hơn Thái
Lan và Malaysia khoảng 1,5 đến 1,7 lần (nghĩa là để làm ra một giá trị sản phẩm
như nhau, nước ta phải dùng nhiều hơn họ gấp 1,5 đến 1,7 lần năng lượng). Ví dụ
để sản xuất 1 tấn thép từ quặng, các nhà máy thép của ta cần 11,32 - 13,02 triệu
Kcal thì các nước tiến tiến chỉ cần 4 triệu Kcal, tái chế thép phế liệu, ta cần 2,82
triệu Kcal, thế giới chỉ cần 2 triệu Kcal.
Việc sử dụng năng lượng thiếu hiệu quả và lãng phí chính là tiềm năng tiết
kiệm năng lượng (TKNL) khi được đưa vào nề nếp. Theo những điều tra tính toán
của Bộ Công Thương, ở các ngành công nghiệp nặng (xi măng, sắt thép, hóa chất,
sành sứ ), công nghiệp nhẹ (sản xuất hàng tiêu dùng), công nghiệp thực phẩm
(đông lạnh, chế biến) tiềm năng TKNL có thể lên tới trên 20%, các lĩnh vực xây
dựng dân dụng, giao thông vận tải có thể lên tới trên 30%. Khu vực sinh hoạt và
dịch vụ có tiềm năng tiết kiệm cũng không nhỏ do tình hình lãng phí năng lượng
đang rất phổ biến.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
9
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
Việc sử dụng năng lượng không hiệu quả có nhiều nguyên nhân như công
nghệ lạc hậu, các thiết bị sản xuất cũ kỹ và chậm đổi mới, tỷ lệ hao hụt quá nhiều
trong khâu chuyển tải. Công tác quản lý việc sử dụng năng lượng trong doanh
nghiệp chưa được chú ý đúng mức và một điều rất quan trọng là sự thiếu hiểu biết,
chưa có ý thức tiết kiệm năng lượng ở mỗi tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2.2 Hiện trạng sử dụng năng lượng trên thế giới
Theo số liệu thống kê của BP Statistical Review of word Energy 2003, tổng
lượng tiêu thụ các dạng năng lượng trên thế giới hàng năm đã tăng lên trên 10 lần
trong thế kỷ 20, và trong năm 2002 đã tiêu thụ khoảng 10.800 Mtoe. Các dạng năng
lượng hóa thạch (dầu mỏ, than, khí thiên nhiên) có vai trò rất quan trọng trong việc

bảo đảm nguồn cung ứng năng lượng cho nhu cầu tiêu thụ của thế giới. Cho đến
ngày nay, nó được xem là năng lượng truyền thống, trong khi đó những nguồn
năng lượng tái tạo được xem là những nguồn năng lượng phi truyền thống chiếm
thị phần nhỏ bé, chỉ khoảng hơn 10% trong tổng số các nguồn năng lượng sản xuất
và tiêu thụ trên thế giới.
Trong năm 2003, mức tiêu thụ năng lượng sơ cấp tăng lên ở tất cả các khu vực
trên thế giới. Nơi có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là châu Á Thái Bình Dương, lên
tới 6,3%. Bắc Mỹ được ghi nhận là tăng yếu nhất, chỉ khoảng 0,2%. Năm 2003
cũng chứng kiến những biến động mạnh trên thị trường năng lượng. Giá dầu mỏ và
khí tự nhiên liên tục đứng ở mức cao, cùng với đó là mức tăng tiêu thụ năng lượng
sơ cấp đạt 2,9% do sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và sự phát triển mạnh mẽ
của Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế giới
Các sản phẩm dầu mỏ hiện là nguồn năng lượng chính trên thế giới. Tuy
nhiên, trong năm 2003 tiêu thụ than lại đạt mức độ tăng cao nhất so với các dạng
năng lượng khác, khoảng 6,9% trên toàn cầu. Tiêu thụ khí tự nhiên chỉ tăng với tốc
độ khiêm tốn là 2% do ảnh hưởng bởi mức tiêu thụ khí của Mỹ (thị trường tiêu thụ
khí lớn nhất thế giới). (Nguồn: BP Statistical Review of World Energy – 6/2004)
Tiêu thụ năng lượng sơ cấp tính trên đầu người: khu vực tiêu thụ lớn nhất là
Bắc Mỹ với trên 250 GJ /người trong một năm. Trong khi đó khu vực Châu Á do
số dân đông lại chậm phát triển nên mức tiêu thụ tính trên đầu người chưa bằng
một nửa so với mức trung bình của thế giới.
Theo đánh giá của các chuyên gia năng lượng trên thế giới, trong hai thập kỷ
tới sẽ chưa có thay đổi lớn về tỉ trọng các dạng năng lượng sử dụng. Tiêu thụ năng
lượng vẫn tăng mạnh, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Trong đó các nước
Châu Á đang phát triển sẽ chiếm 40% trong tổng số năng lượng tiêu thụ tăng trên
toàn cầu.
Theo đánh giá của tạp chí IEO2004, tiêu thụ năng lượng của thế giới sẽ vẫn
chủ yếu là các nhiên liệu hoá thạch trong thời gian từ nay đến 2025. Dầu lửa vẫn sẽ
là nguồn nhiên liệu chính (chiếm 39% tổng năng lượng tiêu thụ trên thế giới), tuy
Phan Công Minh –QLMT-K2010

10
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
nhiên khí tự nhiên sẽ là nguồn năng lượng sơ cấp có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất
(khoảng 2,2% một năm). Trong 20 năm tới than vẫn tiếp tục là nguồn nhiên liệu
chính cho sản xuất điện, nhưng khí tự nhiên sẽ dần khẳng định vai trò của mình
trong lĩnh vực này nhờ hiệu suất sử dụng cao hơn và các lợi ích trong việc bảo vệ
môi trường. Năng lượng hạt nhân sẽ chiếm khoảng 5% năng lượng sơ cấp tiêu thụ
trên toàn thế giới vào năm 2025, trong khi đó năng lượng tái tạo sẽ chiếm khoảng
8%.

Phan Công Minh –QLMT-K2010
11
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
CHƯƠNG 3. QUẢN LÝ NGUỒN NĂNG LƯỢNG
3.1. Sự cần thiết phải sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn năng lượng
Như chúng ta đã biết, nguồn năng lượng rất quan trọng đối với loài người, nhờ
có nguồn năng lượng mà xã hội mới tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay.
Nguồn năng lượng là thước đo cho sự giàu có về kinh tế của một đất nước. Theo
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Hữu Hào cho biết, lâu nay việc sử dụng năng
lượng ở nước ta đang bị lãng phí rất lớn, hiệu suất sử dụng trong các nhà máy đốt
than, dầu của Việt Nam mới chỉ đạt từ 28 đến 32%, thấp hơn các nước đang phát
triển khoảng 10%. Các lò hơi công nghiệp có hiệu suất sử dụng chỉ khoảng 60%,
thấp hơn mức trung bình thế giới khoảng 20% Theo tính toán, đến khoảng năm
2020 nhu cầu điện năng trong nước sẽ tiếp tục tăng từ 15- 20% mỗi năm. Như vậy,
nếu không khắc phục tình trạng lãng phí này chỉ trong 10 năm tới Việt Nam sẽ
thiếu hụt điện năng. Theo quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia, trong giai
đoạn 2010 đến 2020 Việt Nam có khả năng xuất hiện sự mất cân đối giữa khả năng
cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng sơ cấp nội địa. Sau năm 2020
Việt Nam sẽ chuyển thành nước nhập khẩu năng lượng và mức độ phụ thuộc vào
năng lượng nhập khẩu ngày một tăng.

Đã đến lúc phải tìm kiếm giải pháp để khắc phục điều đó. Hiện nay, con người
đang tính đến các giải pháp tìm kiếm những nguồn năng lượng mới để thay thế dần
các nguồn năng lượng không tái tạo được, thực hiện điều này không chỉ vì mục
đích khắc phục nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên hữu hạn mà còn giúp giảm bớt
sự hủy hoại môi trường. Bên cạnh đó, việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn
năng lượng là một vấn đề cũng vô cùng quan trọng, cần phải có những giải pháp cụ
thể rõ ràng để thực hiện, điều này sẽ giúp giảm được chi phí trong việc sử dụng
năng lượng, kiểm soát việc sử dụng năng lượng chặt chẽ, đúng cách sẽ giúp làm
giảm các nguy cơ thiếu hụt năng lượng, vì nhu cầu cao thì con người sẽ khai thác
năng lượng ngày càng nhiều để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng, dẫn đến nguồn năng
lượng ngày càng trở nên ít đi, dẫn đến giá thành năng lượng cao, doanh nghiệp phải
tốn nhiều tiền chi phí và chính việc khai thác năng lượng ồ ạt để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng sẽ gây ra sự phát thải CO2 càng nhiều hơn, làm hủy hoại môi
trường sống chúng ta. Do đó, doanh nghiệp phải chịu ảnh hưởng về khoản thuế phí
phát thải CO2.
Qua những điều vừa nêu trên, chúng ta thấy việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
là vô cùng cần thiết và cấp bách.
3.2 Hệ thống quản lý năng lượng
3.2.1 Các vấn đề chung
Để đạt được mục đích sử dụng năng lượng hiệu quả thì trước tiên phải thực
hiện nó một cách liên tục và phải bắt đầu từ trên xuống, bên cạnh đó, cần phải quản
Phan Công Minh –QLMT-K2010
12
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
lý sự tiêu thụ điện năng của các thiết bị, máy móc trong nhà máy như thế nào, nó có
quá cũ kỹ lạc hậu chưa, song song bên cạnh đó thì phải quan tâm xem nó được vận
hành như thế nào, nhà máy đã dùng các giải pháp nào để vận hành nó, giải pháp đó
có giúp tiết kiệm được năng lượng hay không. Ngoài ra, phải đặt ra mục tiêu và
chiến lược rõ ràng để thực hiện. Phải đào tạo cán bộ quản lý năng lượng, huấn
luyện đội ngũ chuyên phụ trách về năng lượng, phải cập nhật thường xuyên các

kiến thức về năng lượng để họ nắm bắt kịp thời, lồng ghép việc tiết kiệm năng
lượng với các hệ thống đánh giá chất lượng khác của cơ sở.
3.2.2 Các bước trong quản lý năng lượng
Như chúng ta đã biết, với nhu cầu sử dụng năng lượng nhiều như hiện nay thì
chắc chắn trong tương lai không xa giá cả và chi phí năng lượng sẽ gia tăng. Điều
nay sẽ gây tổn thất lớn đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước
nói chung. Vậy làm thế nào để quản lý được lượng năng lượng tiêu hao và phí tổn
năng lượng? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta hãy đi vào tìm hiểu các giải pháp
sau đây.
Chúng gồm có bảy bước sau đây:
a. Xây dựng các cam kết
Việc xây dựng các cam kết nhằm mục đích xác định nguồn nhân lực cũng như
tài chính phục vụ cho yêu cầu luôn luôn sử dụng hiệu quả năng lượng. Để thực hiện
điều đó cần xây dựng một đội ngũ chuyên trách về năng lượng và phải hình thành
các chính sách năng lượng cụ thể, rõ ràng cho nhà máy.
Việc xây dựng đội ngũ năng lượng bao gồm: phải bổ nhiệm một người quản lý
năng lượng và một xây dựng một nhóm người chuyên trách năng lượng. Người
quản lý đứng đầu về năng lượng này không nhất thiết phải là chuyên gia trong lĩnh
vực này, nhưng nếu họ là người có kinh nghiệm về lĩnh vực này thì sẽ tốt hơn. Bởi
vì người này sẽ chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều phối hoạt động của chương trình
quản lý năng lượng, họ là nơi tiếp xúc để tiếp nhận thông tin phục vụ cho hoạt động
quản lý năng lượng. Do đó, nếu họ có kiến thức về lĩnh vực năng lượng thì việc
quản lý, xử lý công việc sẽ thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, người quản lý năng lượng
còn có nhiệm vụ làm minh bạch các hoạt động quản lý năng lượng trong toàn cơ
sở, phác thảo các chính sách năng lượng, đánh giá các cơ hội mang tính tiềm năng
nhằm cải tiến các hoạt động quản lý năng lượng, nhận dạng các cơ hội tiết kiệm
năng lượng và tổ chức thực hiện bao gồm huấn luyện nhân viên, đo đạc theo dõi,
đánh giá và chia sẻ các thông tin đạt được và làm cho mọi người công nhận những
thành tựu của chương trình. Người quản lý năng lượng có thể báo cáo trực tiếp lên
các cấp lãnh đạo trên mình, còn các cấp lãnh đạo sẽ hỗ trợ tốt hơn cho mục tiêu của

chương trình. Tuy nhiên, người quản lý năng lượng phải có quyền quyết định trong
phạm vi nào đó, không nên phụ thuộc hoàn toàn vào cấp trên, điều đó sẽ gây ức chế
tâm lý và hiệu quả làm việc sẽ không cao.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
13
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
Việc xây dựng đội ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực năng lượng nhằm
đảm bảo có đủ nguồn nhân lực để thực hiện chiến lược quản lý năng lượng, làm
cho các bộ phận chủ chốt nhận thức rõ trách nhiệm liên đới và cam kết cùng thực
hiện chiến lược.
Việc xây dựng chính sách năng lượng nhằm mục đích cung cấp những qui
định nền tảng để thúc đẩy hoạt động quản lý năng lượng. Chính sách năng lượng
sẽ chính thức hóa những hỗ trợ cho việc quản lý và khẳng định rõ ràng các cam kết
của cơ sở trong việc đẩy mạnh hoạt động sử dụng hiệu quả năng lượng. Một chính
sách năng lượng tốt cần phải xác định mục tiêu rõ ràng và hình thành các cơ chế
trách nhiệm, xác định vai trò của cơ sở và cung cấp thẩm quyền cho những cá nhân
được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch quản lý năng lượng, đảm bảo quá trình cải
tiến liên tục, thúc đẩy, hỗ trợ việc thực hiện mục tiêu đã đặt ra.
b. Định lượng hiệu quả
Định lượng hiệu quả là công việc mang tính chu kỳ, được thực hiện ở tất cả
các bộ phận chính của cơ sở nhằm thiết lập những thông số cơ bản ghi nhận lúc hệ
thống hoạt động bình thường cho sự định lượng những kết quả nổ lực sẽ đạt được
trong tương lai. Ở bước này cần phải thu thập dữ liệu và theo dõi các thông tin liên
tục, các thông tin thu thập phải bảo đảm độ chính xác, đầy đủ, tùy theo trường hợp
mà hệ thống sẽ theo dõi ở dạng từ thô sơ đến phức tạp để từ đó hình thành một
thông số xác định lúc hệ thống hoạt định ổn định (baselining), hình thành quá trình
so sánh hiệu quả (thời gian, giá thành, năng lượng…) của đối tượng đang nghiên
cứu so với đối tượng được đánh giá là có hiệu quả tốt nhất (benchmarking). Sau khi
thu thập đầy đủ các số liệu thì tiến hành phân tích chúng để hiểu rõ hơn về các yếu
tố làm ảnh hưởng đến việc sử dụng năng lượng để từ đó xây dựng những bước đi

cần thiết.
Cần thực hiện việc kiểm toán năng lượng một cách liên tục, định kỳ. Việc
kiểm toán nên được thực hiện bởi các chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng và nên
có sự hỗ trợ từ bên ngoài để đảm bảo tính khách quan. Cần phải có kế hoạch kiểm
toán rõ ràng, sắp xếp thứ tự ưu tiên, chỉ định nhóm kiểm toán và xây dựng thời gian
biểu. Nên sử dụng các benchmarking để nhận ra nhà máy đang hoạt động kém hiệu
quả. Cuối cùng là phải làm báo cáo những gì vừa kiểm toán được và đề xuất các
hoạt động xử lý cần thiết.
Việc định lượng hiệu quả sử dụng năng lượng sẽ giúp cơ sở phân chia nhu cầu
sử dụng nhiên liệu hiện tại theo chủng loại nhiên liệu, phân xưởng…nhận rõ phân
xưởng có hiệu quả sử dụng năng lượng cao hay thấp để triển khai các hoạt động
thích hợp, giúp xác định mức chi phí năng lượng trong tổng chi phí vận hành cơ sở,
giúp chuẩn bị bối cảnh cho các hành động và quyết định trong tương lai. Thiết lập
các điểm tham khảo để định lượng hiệu quả sử dụng năng lượng.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
14
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
c.Xác định các mục tiêu
Việc xác định các mục tiêu cần phải đạt được một là rất quan trọng, giúp định
hướng và cập nhật các hoạt động quản lý cũng như giúp thúc đẩy mạnh yêu cầu
liên tục sự cải tiến. Để xác định các mục tiêu thì cần phải ước lượng mức độ hiệu
quả có thể đạt được, thời gian và các loại nguồn lực cần có để thực hiện mục tiêu.
Việc thiết lập các mục tiêu căn cứ trên qui mô, khả năng và nhu cầu của cơ sở. Bên
cạnh đó cần phải đặt ra những mục tiêu ngắn hạn, những mục tiêu dài hạn để thực
hiên, tùy thuộc vào điều kiện hiện tại.
d.Tạo ra kế hoạch hành động
Cần phải tạo ra một kế hoạch làm việc thật cụ thể, khoa học, phải đặt ra những
việc làm chi tiết, cụ thể đối với từng bộ phận, phải đưa ra cách làm việc thế nào,
phối hợp với nhau ra sao, dùng phương tiện gì để thực hiện, và sẽ báo cáo những
việc gì vào thời điểm ra sao v.v. kế hoạch làm việc phải liên tục không được gián

đoạn.
e.Thực hiện kế hoạch hành động
Sau khi đã thiết lập các kế hoạch làm việc thì bắt đầu đi vào thực hiện, các kế
hoạch đã được đặt ra trước đó phải được thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ, không
được chậm trễ và phải làm liên tục. Các cơ sở muốn thực hiện tốt các kế hoạch thì
phải cần chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết như: đội ngũ nhân viên chuyên trách
bên lĩnh vực năng lượng, các chính sách năng lượng, kinh phí thực hiện, kinh phí
dự phòng cho các trường hợp phát sinh, thiết bị, phương tiện để thực hiện, những
mức khen thưởng cho những nhân viên làm việc tốt cũng như những mức phạt cho
nhân viên vi phạm nội qui làm việc …và khi đã bắt tay vào thực hiện thì phải làm
một cách nhiệt tình, có trách nhiệm với công việc thì mới mang lại hiệu quả cao
được.
f.Đánh giá kết quả đạt được
Sau một thời gian làm việc thì nên nhìn lại những gì mình đã làm, không nên
cứ cặm cụi làm việc mà không biết được mình đã làm được cái gì, và kết quả ra
sao. Cần phải xem xét lại mọi việc, xem xét những việc mình đã làm có đạt được
kết quả như ý muốn chưa, nếu chưa thì tìm ra lý do và tìm cách điều chỉnh sao cho
thích hợp, có khi những kế hoạch mình đưa ra là phù hợp với thời điểm lúc trước,
nhưng sau một thời gian thì không còn phù hợp với điều kiện hiện tại nữa thì phải
thay đổi. Còn nếu kết quả đạt được tương đối như ý muốn thì cần ghi nhận, khuyến
khích nhưng cũng không nên quên bổ sung thêm những giải pháp mới và hay hơn
nữa. Việc làm này cần phải thực hiện liên tục.
g.Ghi nhận kết quả
Như vừa nói ở trên, sau khi đánh giá những việc mình đã làm được thì phải
ghi nhận lại kết quả, ghi nhận lại những gì mình đã hoàn thành, mặc dù kết quả là
Phan Công Minh –QLMT-K2010
15
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
tốt hay xấu thì vẫn phải ghi nhận. Điều đó sẽ giúp cơ sở theo dõi được kỹ càng
những việc đã làm, và định hướng cho những việc làm trong thời gian tới. Điều này

cũng giúp ích trong việc bổ sung vào những thông tin, tài liệu để sau này nếu có
một người quản lý mới, hoặc những thành viên mới vào làm thì họ sẽ dễ dàng nắm
bắt được công việc. Điều này cần phải thực hiện liên tục không nên gián đoạn.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
16
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
CHƯƠNG 4.CÁC GIẢI PHÁP CHUYỂN DẦN SANG NỀN KINH TẾ ÍT
PHÁT THẢI CARBON TRONG THẾ KỶ 21
Ngày nay, xã hội loài người đang hướng đến mục tiêu phát triển bền vững
trong tất cả mọi lĩnh vực, và phát triển nguồn năng lượng cũng không phải là ngoại
lệ. Nhất là trong xã hội văn minh ngày nay, khi mà nhu cầu về vật chất của con
người ngày càng gia tăng. Việc khai thác nguồn năng lượng đi đôi với việc gây ra
những hậu quả xấu gây hủy hoại môi trường, hủy hoại cuộc sống của con người và
các sinh vật, do việc phát thải CO2 và các khí độc hại khác ngày càng nhiều. Mục
tiêu của con người là phải hướng đến sự khai thác và sử dụng tài nguyên một cách
bền vững. “Bền vững” có nghĩa là việc khai thác, sử dụng đảm bảo được nhu cầu
hiện tại nhưng không gây hủy hoại môi trường, không làm ảnh hưởng đến nhu cầu
sử dụng của các thế hệ tương lai.
Sau đây sẽ là một vài giải pháp chuyển dần sang nền kinh tế ít phát thải
carbon trong thế kỷ 21
4.1 Sử dụng hỗn hợp năng lượng tái tạo và không tái tạo-vừa giảm phát
thải carbon, vừa đảm bảo an ninh năng lượng
4.1.1 Tăng dần tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cung cấp điện năng và nhiệt năng
Trong hỗn hợp năng lượng hiện nay phần ưu thế nghiêng hẳn về năng
lượng hóa thạch để sản xuất và cung ứng điện năng và nhiệt năng (để sưởi ấm cho
nhu cầu dân cư xứ lạnh). Thay đổi hỗn hợp này theo hướng tăng dần tỷ lệ năng
lượng tái tạo không phát thải carbon sẽ đem lại sự suy giảm lớn trong phát thải
carbon.
Các nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện năng và nhiệt năng cho thấy
đang góp phần ngày càng quan trọng trong sự thay đổi tỷ lệ của hỗn hợp năng

lượng, có nghĩa là đang chuyển biến dần sang hướng có lợi cho việc cắt giảm phát
thải carbon, đồng thời với việc giảm dần sự lệ thuộc vào nguồn năng lượng hóa
thạch đã giúp bình ổn tình hình căng thẳng về năng lượng của nhiều nền kinh tế thế
giới, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng năng lượng và tăng giá dầu mỏ vừa qua.
Trong các dạng năng lượng tái tạo, năng lượng gió và năng lượng sinh khối
được xem như đã hoàn thiện và chín mùi về công nghệ, giá thành sản phẩm năng
lượng đã cạnh tranh được với năng lượng truyền thống, nên vốn đầu tư chủ yếu tập
trung vào hệ thiết bị thu và chuyển hóa năng lượng, tức đầu tư vào tài sản là chính.
Trong khi đó, năng lượng mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo còn lại chủ yếu
được tập trung thu hút đầu tư vào nghiên cứu công nghệ R&D và hệ thiết bị thu-
chuyển đổi năng lượng có hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao và giá thành thiết bị
rẻ nhằm hạ giá thành sản phẩm năng lượng thu được.

Phan Công Minh –QLMT-K2010
17
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm
thay thế dần nguồn năng lượng hóa thạch có tính chất quyết định. Những biện pháp
về quản lý của Nhà nước cũng là một công cụ tạo ra động cơ khuyến khích đầu tư
vào năng lượng tái tạo như là xây dựng tiêu chuẩn về các loại năng lượng tái tạo,
đòi hỏi một tỷ lệ lượng điện bán ra phải là từ nguồn năng lượng tái tạo, đặt ra mức
thuế ưu đãi trong nhiều năm về sản xuất và cung ứng năng lượng điện tái tạo, trợ
cấp cho các nhà sản xuất và cung cấp điện tái tạo. Chính phủ nhiều nước đã can
thiệp trực tiếp vào thị trường năng lượng, ban hành luật về thuế hòa mạng đối với
điện từ năng lượng tái tạo đưa vào mạng lưới quốc gia, cho phép bất kỳ công ty hay
cá nhân nào đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và kỷ thuật đều có thể bán điện vào
mạng lưới điện, buộc nguồn điện quốc gia phải tiếp nhận điện từ sức gió, từ năng
lượng mặt trời và từ các nguồn tái tạo khác. Giá điện năng lượng tái tạo được quy
định cứng trong vòng nhiều năm, cao hơn giá điện truyền thống nhằm tạo một thị
trường năng lượng tái tạo ổn định. Chính phủ nhiều nước cũng đã có một chiến

lược rõ ràng để tạo lập một thị trường tái tạo trong và ngoài nước ổn định bằng
cách dự báo phát triển và tiềm năng nguồn năng lượng tái tạo ở nước mình, kích
thích, khuyến khích đổi mới công nghệ và thiết bị thu-chuyển hóa năng lượng, tạo
áp lực cạnh tranh để làm động lực phấn đấu đạt hiệu suất chuyển hóa năng lượng
và lợi ích kinh tế cao hơn.
4.1.2 Tăng dần tỷ lệ nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai và thứ ba trong giao
thông, vận tải
Về nhiên liệu sinh học hiện có hai xu hướng đáng lưu ý: thứ nhất là, đi vào
sản xuất và sử dụng bio-butanol thay cho bio-ethanol vì bio-butanol có nhiều lợi
thế hơn bio-ethanol trong sản xuất và sử dụng, không cần làm khan 99,9%, thứ hai
là, chuyển hướng sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học thế hệ thứ nhất được sản
xuất từ ngũ cốc (ngô, khoai, sắn), mía đường sang sản xuất và sử dụng nhiên liệu
sinh học thế hệ thứ hai được sản xuất từ phế thải lỏng hoặc rắn và nhiên liệu sinh
học thế hệ thứ ba được sản xuất từ cây jatropha curcas sinh trưởng trên vùng đất
cằn cỗi, đồi núi khô hạn, cây halophyte sinh trưởng trên vùng đất ngập mặn, cỏ
swichgrass mọc hoang dại, hoặc tảo sinh trưởng trong hồ, trong đó đặc biệt chú
trọng đến nhiên liệu sinh học thế hệ thứ ba để có giải pháp bền vững, không đụng
chạm đến vấn đề nhạy cảm an ninh lương thực của loài người. Việc tăng dần tỷ lệ
nhiên liệu sinh học thế hệ thứ hai và thứ ba trong giao thông vận tải góp phần quan
trọng trong giảm phát thải carbon đồng thời thay thế được nhiên liệu từ dầu khí một
cách bền vững.
4.2 Chuyển hẳn sang công nghệ sạch: “chìa khóa” của thắng lợi trong
cuộc chiến giảm phát thải carbon trong thế kỷ 21
Có thể nói, sử dụng than bằng công nghệ than sạch mang tính chất quyết định
trong việc chuyển sang nền kinh tế ít carbon trong thế kỷ 21 được thành công hay
không.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
18
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
4.2.1 Thu và chôn giữ CO2 (carbon capture and sequestration – CCS) các

nguồn phát thải carbon để có mức phát thải CO2 bằng 0: bản chất của công
nghệ sạch.
Công nghệ sạch là công nghệ sử dụng than không phát thải carbon, tức là phát
thải CO2 bằng 0. Bản chất của công nghệ CCS là khí CO2 tạo ra khi đốt than trực
tiếp sẽ tách ra, thu lại, nén ép, chuyển chúng sang dạng CO2 khí nén cao áp hoặc
dạng CO2 hóa lỏng và chôn giữ trong lòng đất, dưới đáy biển. Các dạng CO2 sẽ
được vận chuyển bằng tàu hoặc trong ống dẫn để cất giữ chúng dưới lòng biển sâu,
hoặc chôn giữ vào các vỉa dầu khí đã ngưng hoạt động….Công nghệ ép vỉa bằng
CO2 để tận thu dầu đã được ứng dụng thực tế ở Mỹ, Canada, Argentina và ngày
2/4/2008 Úc cũng đã công bố bắt đầu thực hiện công nghệ CCS đầu tiên của mình.
4.2.2 Áp dụng công nghệ than sạch trong sản xuất điện năng ở các nhà máy
điện theo công nghệ truyền thống
Hiện nay, có một điều rất đáng quan tâm đó là các nhà máy điện chạy bằng
than là nguồn phát thải CO2 rất lớn, so với nhà máy chạy bằng xăng dầu. Một nhà
máy điện chạy bằng than tiêu biểu hàng năm có thể thải ra 3.700.000 tấn CO2, vì
vậy cùng với việc tăng tỷ trọng sử dụng than trong các nguồn năng lượng, sự gia
tăng phát thải CO2 là không tránh khỏi và nếu không thực hiện tốt biện pháp thu và
cất giữ CO2, điều này dẫn đến nguy cơ thế giới sẽ vượt quá ngưỡng an toàn về
nồng độ CO2 trong khí quyển. Vì vậy, để các nhà máy điện chạy bằng than nói trên
có thể tồn tại trong thế kỷ 21, buộc phải lắp đặt thêm công nghệ CCS để đạt mức
phát thải carbon bằng 0, nếu không phải đóng cửa hoặc phải đóng thuế phát thải
carbon rất cao đến mức không chịu nổi về giá thành điện năng.
4.2.3 Áp dụng công nghệ sạch trong sản xuất điện năng theo công nghệ mới:
Công nghệ Chu trình liên hoàn khí hóa tích hợp (Integrated Gasifier combined
cycle - IGCC).
Sản xuất điện năng theo công nghệ truyền thống (tức công nghệ cũ) có hiệu
suất chuyển hóa năng lượng thấp và phát thải nhiều CO2, nhiều khí độc hại từ trong
thành phần của than.
Để nâng cao hiệu suất chuyển hóa năng lượng và không phát thải carbon phù
hợp với đòi hỏi của thế kỷ 21, ngày nay thế giới đang chuyển hướng dần sang công

nghệ mới: công nghệ sản xuất điện tích hợp với sản xuất các nguồn năng lượng
khác bằng công nghệ sạch Đó là công nghệ sản xuất theo chu trình khí hóa tích hợp
IGCC.
Công nghệ IGCC cho phép sử dụng than sản xuất điện với hiệu quả chuyển
hóa năng lượng nhiệt rất cao, mức phát thải CO2 thấp, mức phát thải NOx, SOx
Phan Công Minh –QLMT-K2010
19
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
bằng 0 so với sử dụng than trong sản xuất điện hiện nay. Công nghệ này còn được
áp dụng để sử dụng những nguồn năng lượng khác có phát thải ô nhiễm xao như
cặn dầu FO nhiều lưu huỳnh, cặn coke của dầu mỏ,…Từ năm 1990 đến nay Liên
minh Châu Âu (EU) và Mỹ đã xây dựng 5 nhà máy trình diễn công nghệ IGCC,
những nhà máy này chứng minh đã đạt mức hiệu suất chuyển hóa năng lượng cao
với mức phát thải carbon thấp, mức thải carbon này tương đương với mức phát thải
khi sử dụng khí thiên nhiên.
4.2.4 Áp dụng công nghệ than sạch trong sản xuất điện năng kết hợp với sản
xuất nhiên liệu thay thế nhiên liệu từ dầu khí
Sử dụng than trong sản xuất điện năng kết hợp với sản xuất nhiên liệu khí và
các loại nhiên liệu lỏng thay thế cho nhiên liệu đi từ dầu khí nhiên liệu khí về cơ
bản giống như quá trình sản xuất điện năng theo công nghệ IGCC, nhưng trên cơ
sở hai thành phần hydrogen và carbon monoxide của khí tổng hợp syngas được sử
dụng thực hiện phản ứng tổng hợp Fischer – Tropsch để sản xuất hydrocarbon.
Nước Mỹ và các nước Châu Âu, Nhật Bản chủ động trở về nghiên cứu và phát
triển hướng sản xuất nhiên liệu thay thế từ than theo công nghệ mới. Hiện nay, Mỹ
đang có chương trình đến năm 2016, nhiên liệu lỏng sản xuất bằng quá trình tổng
hợp Fischer-Tropsch từ than với việc áp dụng công nghệ than sạch sẽ thay thế
khoảng ½ lượng nhiên liệu lỏng dùng trong quân đội mà không cần thay đổi động
cơ, chủ yếu là trong không lực Hoa Kỳ, nhờ đó góp phần giảm được lượng dầu
nhập khẩu cho mục đích quân sự.
4.2.5 Công nghệ than sạch trong sản xuất chất mang năng lượng hydrogen

Hydrogen là chất mang năng lượng rất sạch và có ý nghĩa quan trọng trong
tương lai, chẳng những làm nhiên liệu thay thế trong lĩnh vực nhiên liệu cho giao
thông vận tải, mà còn trong lĩnh vực sản xuất điện năng. Sử dụng than sản xuất
điện với phát thải carbon bằng 0 cũng như không phát thải các chất ô nhiễm SOx,
NOx được thực hiện bằng công nghệ IGCC và CCS kết hợp.
Trong tình hình mới, hướng sản xuất hydrogen làm chất mang năng lượng cho
nhu cầu năng lượng cầu thế kỷ 21 hiện nay đang đề cập như một hướng mới để
phát triển. Bộ năng lượng Mỹ (US DOE) đã khởi động chương trình Hydrogen từ
than giai đoạn 2004-2015 để nghiên cứu, triển khai và trình diễn công nghệ sử dụng
than trong sản xuất điện và sản xuất chất mang năng lượng hydrogen bằng công
nghệ than sạch với kỳ vọng bằng cách kết hợp này sẽ nâng cao hiệu suất chuyển
hóa năng lượng của than và hạ gái thành hydrogen thu được.
Tổng hợp lại, hướng sử dụng nguồn tài nguyên năng lượng than được nghiên
cứu tập trung và kỳ vọng nhất để đưa than thành nguồn năng lượng chủ lực cho thế
kỷ 21 bằng công nghệ sạch, không phát thải carbon sẽ là một công nghệ liên hoàn
gồm những công nghệ riêng lẻ trên đây, tạo ra các sản phẩm đa dạng, bao gồm
điện, nhiên liệu khí thay thế khí thiên nhiên hoặc khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG), nhiên
Phan Công Minh –QLMT-K2010
20
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
liệu lỏng thay thế xăng, nhiên liệu lỏng thay thế nhiên liệu diesel của dầu khí và
chất mang năng lượng hydrogen.
4.3 Tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu suất thiết bị, máy móc sử dụng
năng lượng góp phần giảm phát thải carbon
Sử dụng năng lượng trong khu vực dân cư có tác động quan trọng đến việc
tiết giảm lượng dầu tiêu thụ và lượng phát thải carbon. Ở các nước thuộc tổ chức
OECD, khoảng 1/3 lượng điện sản xuất được là sử dụng vào hệ thống sưởi ấm và
làm mát, tủ lạnh gia đình, lò nấu nướng, chiếu sáng và các thiết bị gia đình khác.
Khu vực dân cư chiếm khoảng 35-40% lượng phát thải CO2 toàn quốc, riêng các
trang thiết bị đã phát ra khoảng 12% CO2.

Các thiết bị điện là một nguồn quan trọng có thể góp phần giảm nhu cầu tiêu
thụ xăng dầu và phát thải carbon. Theo tính toán trong Báo cáo phát triển con
người của Liên Hiệp Quốc 2007/2008, nếu tất cả các thiết bị điện sử dụng ở các
nước thuộc Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD) vào năm 2005 đạt tiêu
chuẩn tốt nhất về hiệu suất thì có lẽ đã giảm được 322 MT CO2 phát thải vào năm
2010, tương đương với việc giảm 100 triệu chiếc xe lưu thông trên đường – một
con số bằng tất cả xe ở Canada, Pháp, và Đức gộp lại. Đến năm 2030, những tiêu
chuẩn này cao hơn sẽ tránh được phát thải 572 triệu tấn CO2 mỗi năm, tương
đương với 200 triệu xe hơi không tham gia giao thông hoặc đóng cửa 400 nhà máy
điện chạy bằng khí thiên nhiên.
Một giải pháp giúp làm giảm lượng xăng dầu tiêu thụ cho lĩnh vực giao thông,
vận tải là sản xuất và sử dụng xe “lai ghép”, vừa sử dụng xăng vừa sử dụng điện
của pin nhiên liệu hydrogen, hoặc vừa sử dụng dầu diesel, vừa sử dụng điện từ xe
con, xe ca, đến xe bus, tàu hỏa. Theo thống kê cho thấy, việc sử dụng xe lai ghép có
tác dụng vừa làm giảm lượng xăng dầu tiêu thụ vừa làm giảm lượng phát thải
carbon rất nhiều, cụ thể lượng xăng dầu tiêu thụ giảm ½ đến ¼, chỉ còn từ 2,8 – 3
lít/km, đồng thời lượng khí thải carbon cũng giảm khoảng 1,5 lần so với trước.
Bằng giải pháp này có triển vọng vừa giảm được nhu cầu xăng dầu, vừa đạt được
mục tiêu phát thải 120g CO2/km hành trình vào năm 2012.
4.4 Một số ví dụ thực tiễn về việc áp dụng các giải pháp sử dụng tiết kiệm
và hiệu quả năng lượng.
Ví dục 1: Nhà máy thép Xanh Hà với các giải pháp sử dụng hiệu quả năng
lượng.
Là một trong những nhà máy quy mô lớn nhất khu vực làng nghề Châu Khê,
Đình Bảng, Bắc Ninh, mỗi năm nhà máy thép Xanh Hà cung cấp cho thị trường
khoảng 3,5 nghìn tấn phôi và 10 nghìn tấn thép các loại. Để sản xuất ra khối lượng
sản phẩm trên doanh nghiệp tiêu thụ hết hơn 4 nghìn MWh và trên 900 tấn than
chiếm trên 50% chi phí sản xuất. Tiến hành kiểm toán năng lượng, tìm biện pháp
Phan Công Minh –QLMT-K2010
21

Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
sử dụng hiệu quả năng lượng là cách mà ban lãnh đạo nhà máy lựa chọn nhằm đem
lại lợi nhuận kinh tế cao nhất.
Lãnh đạo nhà máy cho biết, trừ chi phí nguyên liệu đầu vào thì chi phí năng
lượng chiếm đến 50,4% (khu vực sản xuất phôi thép) và 68% (khu vực sản xuất cán
thép) tổng các chi phí còn lại. Đây là mức chi phí cao, khó chấp nhận nhất là trong
điều kiện giá năng lượng liên tục tăng. Bởi vậy, áp dụng các giải pháp quản lý, kỹ
thuật nhằm tiết kiệm và hiệu quả năng lượng là việc làm cấp bách, rất được nhà
máy quan tâm góp phần tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao lợi nhuận và
tránh ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.
Với đặc thù là nhà máy sản xuất thép, năng lượng tiêu hao chính tại công ty
Xanh Hà là điện, than và khí đốt. Trong đó, điện chiếm 43%, than chiếm 56%. Khí
đốt chiếm một phần nhỏ trung bình mỗi tháng doanh nghiệp phải trả trên 4 triệu
đồng bao gồm 4 bình gas và 10 bình khí O2.
Khu vực cán thép
Đối với động cơ cán thô các chuyên gia kiểm toán đưa giải pháp lắp thiết bị
tiết kiệm điện Powerboss. Với chế độ vận hành không tải lớn, lắp thiết bị tiết kiệm
điện Powerboss FBI 150 có thể tiết kiệm 18% tổng điện năng tiêu thụ tương
ddwong10,26 KWh/ngày. Nếu tính cho 1 năm vận hành 6600 giờ, mỗi năm nhà
máy tiết kiệm được 67,7 nghìn KWh tương ứng với trên 70 triệu đồng.
Ở động cơ cán tính, thiết bị biến tần tiết kiệm điện cho tiềm năng tiết kiệm lên
tới 221% tổng điện năng tiêu thụ tức khoảng 106 triệu đồng mỗi năm.
Ngoài ra, ở khu vực cán thép, việc lắp đặt hệ thống cung cấp và xử ls ý nước
làm mát lò trung tần cũng cho khả năng tiết kiệm 6 triệu đồng/năm/lò. Với 4 lò
đang hoạt động, giải pháp nhỏ giúp tiết kiệm 24 triệu đồng/năm.
Giảm tổn thất nhiệt

Phan Công Minh –QLMT-K2010
22
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp

Kết quả khảo sát quá trình cán thép tại doanh nghiệp cho thấy, lượng điện
năng không tải thất thoát trung bình 62 nghìn KWh/năm. Mặc dù không thể triệt
tiêu hoàn toàn thời gian vận hành không tải tuy nhiên việc hợp lý hóa quy trình sản
xuất, sắp xếp thời gian vận hành hợp lý có thể rút ngắn được tối đa 50% khoảng
thời gian này với mức tiết kiệm trên 80 triệu đồng/năm.
Ngoài ra, để việc sử dụng hiệu quả năng lượng bền vững, công tác tuyên
truyền, đào tạo nâng cao ý thức của toàn thể cán bộ, công nhân viên cũng có vai
trò quan trọng. Bên cạnh đó công ty cần chú ý đến việc chăm sóc, bảo dưỡng thiết
bị đình kỳ góp phần giảm tổn thất, giảm chi phí và tăng năng suất của thiết bị.
Ví dụ 2: Công ty Dệt may Thành Công là một doanh nghiêp gây ô nhiễm
nguồn nước nghiêm trọng, là đơn vị thuộc diện di dời bắt buộc của Tp. Hồ Chí
Minh. Trong quá trình áp dụng SXSH, Công ty đã đầu tư hệ thống xử lý nước
thải, lắp đặt các hệ thống công tắc treo, đồng hồ đo điện – nước – dầu FO, bố
trí hệ thống chiếu sáng hợp lý theo quy trình của SXSH. Sau một thời gian áp
dụng, Công ty đã tiết kiệm được gần 13 tỷ đồng về điện và dầu FO, giảm thải
ra môi trường trên 10.000 tấn CO2, giá đầu ra của thành phẩm giảm được 10%.
Ví dụ 3: Tiết kiệm năng lượng trong sử dụng lò hơi tại Công ty cao su Sao
Vàng
Việc nâng cao hiệu suất, tiết kiệm năng lượng đối với lò hơi đang là vấn đề
được các doanh nghiệp (DN) quan tâm, nhất là khi giá nhiên liệu có xu hướng ngày
càng tăng.
Hình ảnh Lò hơi Công ty cao su Sao Vàng
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiết kiệm năng lượng, Trung tâm
Năng suất Việt Nam (VPC) đã phối hợp với Tổ chức năng suất châu Á (APO) thực
hiện dự án "Nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng của các máy móc, thiết bị tại
Công ty cao su Sao Vàng".
Công ty cao su Sao Vàng là đơn vị chuyên sản xuất săm lốp và các sản phẩm
cao su. Hệ thống máy móc của Công ty vận hành đã lâu nên mức tiêu hao năng
Phan Công Minh –QLMT-K2010
23

Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
lượng rất lớn, đồng thời các thiết bị không đồng bộ nên hiệu suất sử dụng cũng như
tiết kiệm năng lượng rất thấp. Các chuyên gia tư vấn của VPC đã đưa ra một số
biện pháp tiết kiệm như: Tận dụng nước xả lò hơi, lắp đặt bộ hâm cho lò hơi đốt
dầu, tính toán tiết kiệm do mất bảo ôn, tận dụng nước làm mát
Qua tính toán của các chuyên gia cho thấy nếu áp dụng những biện pháp trên
sẽ giảm được chi phí đáng kể. Một trong những biện pháp đó là điều chỉnh khí cấp
lò hơi, chi phí đầu tư dưới 1.000 USD trong khi mỗi năm tiết kiệm được 21.168
USD và thời gian hoàn vốn khoảng 5 tháng. Với biện pháp thu hồi nước ngưng,
đầu tư cho cả 4 hệ thống là 25.000 USD mỗi năm tiết kiệm được 42.720 USD và
thời gian hoàn vốn nhanh
Trong 3 năm qua các giải pháp tiết kiệm năng lượng đã làm lợi cho Công ty
cao su Sao Vàng 6,5 tỷ đồng trong khi chi phí đầu tư cho chương trình tiết kiệm chỉ
có trên 700 triệu đồng. Đồng thời chương trình này vẫn tiếp tục phát huy hiệu quả
lâu dài và không ngừng nâng cao ý thức tiết kiệm của cán bộ công nhân viên trong
toàn Công ty.




Phan Công Minh –QLMT-K2010
24
Tiểu luận Môn học Quản lý bền vững các nguồn năng lượng GVHD: PGS.TS Lê Chí Hiệp
PHẦN KẾT LUẬN
Qua những vấn đề vừa trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng nguồn năng lượng
thực sự đang rất cạn kiệt. Chúng ta biết được các lý do vì sao con người khai thác
năng lượng nhiều đến như vậy và ảnh hưởng của nó đến môi trường ra sao. Và qua
các giải pháp được trình bày sơ lược trên, có lẽ phần nào cũng giúp chúng ta nhận
thức được tầm quan trọng của việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, để từ
đó mỗi cá nhân, tập thể sẽ hình thành cho mình ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ

nguồn năng lượng, góp phần làm cho môi trường ngày càng phát triển theo hướng
bền vững, giúp tiết kiệm nguồn năng lượng, nguồn kinh phí của quốc gia để những
khoản kinh phí ấy có thể dùng vào những việc có ích hơn cho xã hội. Bên cạnh đó
xem xét xây dựng các chiến lược và đề ra các giải pháp cụ thể, ổn định và lâu dài
để hỗ trợ cho việc đầu tư phát triển ngành năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng
lượng sạch để cung cấp nguồn năng lượng trong tương lai là một vấn đề cấp thiết
và nguồn năng lượng tái tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội, an
ninh lượng thực và phát triển bền vững. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay xây
dựng đất nước, cùng nhau đưa đất nước tiến đến thế kỷ 21- một thế kỷ không phát
thải carbon. Hãy bảo vệ môi trường bởi vì bảo vệ môi trường cũng có nghĩa là bảo
vệ cuộc sống của chính bản thân chúng ta.
Phan Công Minh –QLMT-K2010
25

×