Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.23 KB, 101 trang )


i

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN NAM PHONG







VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN KỲ ANH,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học









Hà Nội – 2013


ii


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN NAM PHONG






VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN KỲ ANH,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu






Hà Nội – 2013


iii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Linh Khiếu.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn có nguồn gốc và được
trích dẫn rõ ràng này trung thực, những kết luận nghiên cứu chưa từng được
công bố dưới bất kỳ hình thức nào.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên


Trần Nam Phong


iv
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là những thầy cô đã
tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Linh
Khiếu đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, cán bộ Trung tâm Bồi
dưỡng Chính trị huyện Kỳ Anh đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập và
hoàn thành tốt khóa học.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn quý thầy, cô và các em học sinh tại các
trường THPT trên địa bàn huyện Kỳ Anh đã tạo điều kiện cho tôi điều tra
khảo sát để có dữ liệu viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Hà Tĩnh, tháng 12 năm 2013
HỌC VIÊN



Trần Nam Phong

v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT
Chữ cái viết tắt
Nội dung
1
THPT
Trung học phổ thông
2
BCH
Ban Chấp hành
3
TNCS
Thanh niên Cộng sản


vi
MỤC LỤC
Mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của luận văn 5

7. Kết cấu của luận văn…………………… 5
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên và
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên học sinh THPT 6
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên 6
1.1.1. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam 6
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên 12
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh
niên học sinh THPT 20
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức 20
1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên học sinh THPT 22
1.2.3. Phương pháp giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh 33
Chương 2. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh THPTvà vấn đề vận
dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh 42
2.1. Những nhân tố tác động đến đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT ở huyện Kỳ Anh 42
2.1.1. Nhân tố truyền thống địa phương 42
2.1.2. Nhân tố chủ động của Đảng, Nhà nước, Đoàn Thanh niên, gia đình 44
2.1.3. Nhân tố hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường 45
2.2. Đặc điểm chung của học sinh THPT ở huyện Kỳ Anh 46
2.2.1. Tình hình, đặc điểm học sinh THPT 46
2.2.2. Thực trạng đạo đức của học sinh THPT ở huyện Kỳ Anh 49
2.2.3. Thực trạng vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT ở Kỳ Anh 53

vii
Chương 3. Vấn đề đang đặt ra và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức
cho học sinh THPT ở Kỳ Anh hiện nay 63

3.1. Một số vấn đề đang đặt ra đối với việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vào giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở Kỳ Anh hiện nay 63
3.1.1. Nhận thức về vai trò của đạo đức và giáo dục đạo đức theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh 63
3.1.2. Về nội dung giáo dục đạo đức 64
3.1.3. Về hình thức về phương pháp giáo dục đạo đức 65
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở Kỳ Anh hiện
nay 66
3.2.1. Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, nội dung tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh, xác định đúng và cụ thể hơn mục tiêu giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT 66
3.2.2. Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh trong các trường THPT 68
3.2.3. Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT phải gắn với các hoạt động thực
tiễn, đa dạng, phong phú nhằm thực hiện tốt cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" 70
3.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có những năng lực chuyên
môn tốt, đạo đức trong sáng và lòng yêu nghề 74
3.2.5. Phát huy vai trò, tính chủ động, tích cực, tự giác của học sinh nhằm tự
tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 76
3.2.6. Phương pháp phối hợp và các giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa
các thiết chế xã hội – văn hóa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá trình
giáo dục đạo đức của học sinh 80
3.2.7. Lồng ghép các chương trình góp phần giáo dục đạo đức. Tích cực xây
dựng môi trường xã hội và giáo dục lành mạnh, phát huy vai trò của các nhân
tố giáo dục 84
Kết luận 88
Danh mục tài liệu tham khảo 90


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới, đồng thời là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc. Sinh thời Người luôn quan
tâm đến sự nghiệp giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trong thư gửi các thầy cô giáo
và các em học sinh nhân dịp khai giảng năm học mới, Người căn dặn: “Non
sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước
tới đài vinh quan để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Người cho rằng, thanh niên, trong
đó có học sinh trung học phổ thông (THPT) là người chủ tương lai của nước
nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Vì
thế, trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta phải luôn chú trọng công
tác giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về mọi mặt, coi đó là việc làm thường
xuyên, quan trọng và cần thiết.
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặt vấn đề bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng lên hàng đầu.
Theo Người, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của cha
anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở thế hệ trẻ là đạo đức cách mạng, có đạo
đức cách mạng mới có nghị lực vươn lên trong học tập, rèn luyện, thực hiện
thành công ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ. Trong bản “Di chúc” Chủ tịch Hồ
Chí Minh lưu ý: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên, đào tạo họ thành những lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa hồng vừa chuyên. Lời di huấn của người đã trở thành tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta. Vì vậy, Đảng ta luôn coi việc giáo dục đạo đức cho thanh niên là vấn
đề sống còn của dân tộc, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới tác động của cơ chế thị trường, giáo dục
học đường phải chịu nhiều sự chi phối làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy -


2
học nói chung và đạo đức học sinh nói riêng. Trong những năm gần đây, công
tác giáo dục đạo đức đối với học sinh THPT trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng bên cạnh đó vẫn còn
rất nhiều hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục.
Trước tình hình đó, vấn đề giáo dục đạo đức (GDĐĐ) cho thanh niên
nói chung, học sinh THPT trên địa bàn huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng
ngày càng trở nên cấp bách. Với lý do trên, tôi chọn “Vận dụng tƣ tƣởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” làm luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ xưa đến nay, thanh niên luôn được coi là rường cột của đất nước,
tương lai của dân tộc và hạnh phúc của mỗi gia đình. Bởi vậy “thanh niên” đã
được nhiều tác giả nghiên cứu, tìm hiểu ở các góc độ khác nhau, cụ thể như:
Tác giả Nguyễn Phương Hồng với “Thanh niên, học sinh với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1997; Tác
giả Văn Lam với “Bồi dưỡng đạo đức cộng sản cho thanh niên” Nxb Thanh
niên, H.1985; Phạm Đình Nghiệp: Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ
Việt Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, H. 2000; Đoàn Nam Đàn với Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb CTQG, H. 2002. Trần Quy
Nhơn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên trong cách mạng Việt
Nam”, Nxb TN, H. 2004; Tác giả Võ Minh Tuấn với “Giáo dục ý thức đạo đức
cho sinh viên Việt Nam hiện nay” Nxb Thanh niên, H. 2005; Tác giả Dương Tự
Đam với “Thanh niên giáo dục và phát triển” Nxb Thanh niên, H. 2007; Tác giả
Văn Tùng với “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên”
Nxb Thanh niên, H.2006; Các tác giả Quang Vinh, Trần Kim Duyên, Văn Song
với “Hồ Chí Minh về giáo dục và tổ chức thanh niên” Nxb Thanh niên, H.
2005…


3
Hầu hết các tác giả đã đề cập tới các vấn đề như: vai trò, nhiệm vụ của
thanh niên trong giai đoạn hiện nay; giáo dục đạo đức cộng sản cho thanh
niên; những nguyên tắc, phương pháp xây dựng, phát triển ý thức đạo đức
mới cho sinh viên; thanh niên với các vấn đề xã hội và phát triển; công tác tổ
chức giáo dục cho thanh niên… Bên cạnh đó còn có nhiều giáo trình dùng
trong các trường đại học, cao đẳng, các sách tham khảo, bài viết đăng trên các
tạp chí như: Tạp chí Giáo dục, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Thanh niên… quan
tâm đề cập đến vấn đề này.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học, nhà giáo, nhà
hoạt động xã hội đặc biệt quan tâm đối với hiện tượng suy thoái, thậm chí
băng hoại đạo đức ở một bộ phận thanh thiếu niên do tác động tiêu cực từ
những mặt trái của cơ chế thị trường và đã có nhiều bài viết đáng được
tham khảo.
Trong các công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức cho thanh niên liên
quan đến đề tài luận văn từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đến nay, có
thể kể: Thành Duy: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb CTQG, H. 1996;
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức - nhân văn, Nxb
Giáo dục, H. 1998; Trần Sỹ Phán: Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sỹ Triết học. H. 1999; Trần Minh Đoàn: Giáo dục đạo đức cho thanh
niên học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ
Triết học, H. 2002; Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên):
Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
Nxb CTQG, H. 2003; Nguyễn Chí Mỳ - Trần Hậu Kiêm - Đoàn Đức Hiếu:
Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb
CTQG, H. 2004; Công trình mang mã số NN7: "Cải tiến công tác giáo dục tư
tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong hệ thống
giáo dục quốc dân" do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm… Ngoài ra còn rất

nhiều các bài viết về đạo đức, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ trong quá trình

4
đổi mới được công bố trên nhiều tạp chí chuyên ngành, các tạp chí lý luận,
tuyên truyền…
Những công trình nêu trên được tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau
và được công bố ở những thời điểm khác nhau nhưng đã từng bước làm sáng
tỏ những vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh trong
điều kiện kịnh tế thị trường. Đó là những thành tựu khoa học và lý luận rất
đáng trận trong và cần được nghiêm túc kế thừa. Tuy nhiên, có thể khẳng định
mặc dù có nhiều tác giả nghiên cứu về thanh niên, học sinh ở những phương
diện khác nhau song về vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên nói
chung và học sinh nói riêng thì chưa nhiều. Hơn thế, qua sự tìm hiểu tư liệu,
chúng tôi nhận thấy vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu,
chưa có bài viết nào được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
thanh niên, đạo đức, giáo dục đạo đức cho thanh niên - học sinh, nghiên cứu
thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh
niên, đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên - học sinh.
- Tìm hiểu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả

giáo dục đạo đức cho học sinh THPT huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh theo tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, đạo đức,
giáo dục đạo đức cho thanh niên - học sinh, thực trạng đạo đức và giáo dục
đạo đức cho học sinh THPT ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
thanh niên, đạo đức, giáo dục đạo đức cho thanh niên - học sinh; luận văn chỉ
tìm hiểu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở huyện
Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm, đường lối của Đảng về thanh niên - học sinh, đạo đức và giáo dục đạo đức.
Trong đó chú trọng soi chiếu dưới góc độ chính trị học với các khái niệm mang
tính chất công cụ: con người chính trị, văn hoá chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chú trọng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử,
kết hợp lôgíc với lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, đạo đức,
giáo dục đạo đức cho thanh niên - học sinh.
- Chỉ rõ thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên một số
trường THPT ở Kỳ Anh - Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức, nâng cao nhận thức chính trị, tạo cơ sở khoa học, lý luận và thực tiễn cho
việc xây dựng đạo đức, lối sống và những tiêu chuẩn con người mới cho học
sinh THPT ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương và 7 tiết.

6
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA THANH NIÊN VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO THANH NIÊN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỐ THÔNG

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên
1.1.1. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên đã có
những kết luận khoa học theo những nhận định của Người về vai trò, vị trí của
thanh niên trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Chúng tôi rất đồng tình với các
kết quả nghiên cứu đã đạt được. Xin liệt kê những nhận định của Hồ Chí Minh
về vai trò của thanh niên đã được các nhà khoa học nghiên cứu như sau:
1.1.1.1. Thanh niên là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự
phát triển của đất nước.
Kết luận này dựa trên những luận điểm cơ bản của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của
nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là
do các thanh niên” [31, tr.185]. Để xứng đáng là người chủ tương lai của đất
nước, Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải tự mình phấn đấu học tập, rèn
luyện để nắm lấy tri thức, bồi dưỡng ý chí, nghị lực và tinh thần cách mạng.
Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được
hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em [30, tr.33].
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt cộng với những khó khăn khi cùng

một lúc tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và giải phóng miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lạc quan và
vững tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bởi vì: “Với một thế hệ
thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự

7
nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” [38,
tr.66- 67].
1.1.1.2. Thanh niên là lực lượng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc
Hồ Chí Minh xác định cách mạng là công việc của “cả dân chúng” chứ
không phải việc của một hai người, trong đó công, nông là gốc của cách
mạng, là đội quân chủ lực của cách mạng. Hồ Chí Minh sớm nhận thấy vai trò
của thanh niên trong lực lượng cách mạng, tiềm năng của thanh niên là vô
cùng to lớn. Người từng có nhận xét: “Tính trung bình thanh niên chiếm một
phần ba tổng số nhân dân- tức là một lực lượng to lớn” [34, tr.94] và “thanh
niên là bộ phận quan trọng của dân tộc”. Để hiện thực hoá tiềm năng đó thì
trước hết cần phải tập hợp thanh niên trong một tổ chức cách mạng. Người
cho rằng: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu
dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ” [33, tr.162].
Được sự quan tâm giáo dục của Đảng, được sự dìu dắt mà nhiều thế hệ
thanh niên đã trưởng thành. Tiếp tục phát huy vai trò xung kích, không ngại
hy sinh quyết tâm kháng chiến để giữ vững nền độc lập của nước nhà, đã có
hàng triệu thanh niên hăng hái xung phong ở tuyến đầu của cuộc chiến đấu,
nhiều thanh niên đã trở thành cán bộ trung kiên của Đảng như: Võ Thị Sáu, Lê
Hồng Phong, Lý Tự Trọng, Hoàng Văn Thụ, Phan Đình Giót…Các đồng chí là
những tấm gương sáng chói cho các thế hệ thanh niên sau này học tập, noi theo.
Sau năm 1954, đất nước tạm thời chia cắt hai miền. Trước kẻ thù mới
hùng mạnh hơn, nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc đưa cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội càng trở nên khó khăn, phức tạp, nặng nề hơn.

Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng chống Mỹ cứu nước. Hồ Chí Minh động
viên thanh niên thực hiện tốt vai trò xung kích của mình “Các cháu thanh niên
gái cũng như trai hãy thực hiện tốt “ba sẵn sàng”, xung phong hiến dâng tất cả
tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cho Tổ
quốc và chủ nghĩa xã hội ” [37, tr.471].

8
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, tính đến cuối tháng 5/1965 đã có
2 triệu 50 vạn đoàn viên và thanh niên ghi tên thực hiện: “sẵn sàng chiến
đấu”, “sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang” và “sẵn sàng đi bất cứ nơi
nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”.
1.1.1.3. Thanh niên là đội xung kích trên các mặt trận
Trong mọi công việc, thanh niên là lực lượng luôn thực hiện khẩu hiệu:
“Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên làm” [37, tr.504]. Vì
vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm tới thanh niên, biểu dương những
việc làm tốt, những hành động anh hùng, dũng cảm sáng suốt của họ. Người
nói: “Khắp thành thị, nông thôn, miền xuôi, miền núi, thanh niên ta ngày nay
đã thành một đội quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy sinh
vì Tổ quốc thân yêu, vì tiến bộ xã hội” [37, tr.162].
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò xung kích đi đầu của thanh niên
trong hành động cách mạng. Trong một buổi nói chuyện với thanh niên, Bác
nói: “Bác rất yêu mến thanh niên. Vì thanh niên là người xung phong trong
công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Vì thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự
vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, bảo vệ Tổ quốc. Vì trong mọi việc, thanh
niên thi đua thực hiện khẩu hiệu “Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó
thanh niên làm”. Theo Hồ Chí Minh “thời đại này là thời đại vẻ vang của
thanh niên. Mà thanh niên phải là đội xung kích trên các mặt trận chính trị,
kinh tế, khoa học, kỹ thuật” [36, tr.390].
Thi đua trong chiến đấu, học tập, lao động sản xuất, thanh niên lập nên

nhiều thành tích to lớn. Nhiều cá nhân, tập thể thanh niên được Đảng và Nhà
nước phong tặng danh hiệu anh hùng, chiến sĩ thi đua ngày càng nhiều. Chiến
công và sự trưởng thành của thanh niên cả nước trong thời kỳ chống Mỹ, cứu
nước xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các cháu
thanh niên thân mến, các cháu là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng. Bác
mong các cháu đều xứng đáng là những anh hùng trong sự nghiệp cách mạng
tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc và xây dựng xã hội mới” [37, tr.505].

9
1.1.1.4. Thanh niên là đội hậu bị, cánh tay đắc lực của Đảng, đồng thời
là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng
Theo Hồ Chí Minh: “Trong mọi công việc thanh niên ta luôn luôn hăng hái
xung phong và họ xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng” [36, tr.271]. Thanh
niên luôn đi đầu trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối do Đảng đề
ra. Thông qua hoạt động, tổ chức Đoàn phát hiện và giới thiệu những đoàn viên
ưu tú cho Đảng. Như vậy, Đoàn thanh niên là nguồn bổ sung lực lượng cho đội
ngũ của Đảng những người trẻ, khỏe. Điều đó làm cho Đảng càng đông và
càng mạnh.
Mối quan hệ giữa Đảng với tổ chức Đoàn, Hồ Chí Minh viết: “Đường
chính trị, thì thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc
lập” [28, tr.295]. Nghĩa là Đoàn do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đoàn thanh niên
phải lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng làm tôn chỉ hoạt động của tổ chức mình.
Tuy nhiên, Đoàn thanh niên hoàn toàn tự chủ trong việc đề ra kế hoạch,
chương trình hành động. Theo Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên Cộng sản vừa
là tổ chức gần gũi Đảng, vừa là người phụ tá đắc lực cho Đảng. Trước hết,
Đoàn là người trực tiếp giúp Đảng giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thanh
niên, vận động thanh niên đi theo lý tưởng của Đảng. Đoàn còn lôi cuốn, tập
hợp đông đảo thanh niên xung phong thực hiện và hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ mà Đảng giao phó. Được tổ chức Đoàn dìu dắt, giúp đỡ, thanh niên
không ngừng rèn luyện, phấn đấu vươn lên xứng đáng là lực lượng kế thừa sự

nghiệp cách mạng của Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên còn có vai trò là người
giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng. Cách mạng là sự nghiệp của nhiều thế
hệ nối tiếp nhau. Việc chuẩn bị thế hệ cách mạng kế tục là một quy luật đảm
bảo cho cách mạng giành thắng lợi trong từng thời kỳ, thúc đẩy xã hội phát triển
không ngừng. Chăm lo, giáo dục, dìu dắt các em thiếu niên, nhi đồng là chiến
lược đào tạo đội ngũ kế cận để chuẩn bị cho tương lai. Thanh niên có vai trò rất
lớn trong việc tổ chức, hướng dẫn, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng, giúp các em học

10
tập, vui chơi, lành mạnh, tránh những tác động xấu ngoài xã hội. “Đoàn thanh
niên Lao động phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục
thế hệ thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [36, tr.21].
Rõ ràng, theo Hồ Chí Minh, thanh niên có vai trò vô cùng to lớn trong
tiến trình lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng. Thanh niên là bộ phận quan
trọng của dân tộc, là lực lượng nòng cốt trong cách mạng giải phóng dân tộc
và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận mệnh của dân tộc, tương lai của
đất nước phụ thuộc vào bản chất và bản lĩnh của thanh niên. Thanh niên là lực
lượng to lớn, là đội quân xung kích trên mọi mặt trận, là cánh tay đắc lực và
đội hậu bị của Đảng và còn là lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ cha
anh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Song, Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá thanh niên
mà Người thường xuyên chăm lo bồi dưỡng thanh niên, thế hệ kế tục sự
nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc:
- Hồ Chí Minh chăm lo bồi dưỡng thế hệ tương lai vì lợi ích của nhân
dân, của Tổ quốc và sự phát triển của nhân loại
Những người cộng sản vốn ý thức được quy luật vận động của lịch sử
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bác Hồ đã nói: Muốn có chủ
nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Trong

thư gửi học sinh cả nước nhân ngày khai trường (9-1945) đầu tiên dưới chế độ
mới, Hồ Chí Minh gửi gắm: “Non sông Việt Nam có trở lên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính nhờ một phần lớn ở công họ tập
của các em”.
Năm 1947, trong thư Gửi các bạn thanh niên, Người lại viết: “Thanh
niên là người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách
dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”, “là người xung phong trong công cuộc
phát triển kinh tế và văn hoá, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “là

11
lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ
gìn trật tự trị an, bảo vệ Tổ quốc”.
Qua đó ta thấy Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao khả năng cách mạng và
cống hiến to lớn của thanh niên đối với tương lai của dân tộc, tiền đồ của cách
mạng. Thanh niên là cái cầu nối giữa các thế hệ. kế tục sự nghiệp của lớp
người đi trước đồng thời bồi dưỡng, dìu dắt thế hệ đàn em. Thanh niên bao
giờ cũng là lớp người hăng hái, nhiệt tình, luôn luôn đi đầu trong mọi việc
khó khăn “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”.
Đó là sự đánh giá khách quan, phản ánh bản chất cách mạng, vai trò và
sức mạnh của thanh niên ta, đồng thời cũng thể hiện lòng yêu mến, tin tưởng
của Đảng và Bác Hồ đối với thế hệ trẻ Việt Nam.
Từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm:
“Muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên”. Trong thư Gửi
thanh niên Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ, thanh niên Việt Nam
có khả năng cách mạng to lớn, là lực lượng cứu nguy dân tộc. Người dẫn ra
các biến cố phi thường đã làm đảo lộn thế giới hồi đầu thế kỷ XX, Người ca
ngợi tấm gương “cần công, kiệm học” của thanh niên Trung Quốc đang sống
ở châu Âu để trở về chấn hưng đất nước Trung Hoa. Thế thì thanh niên Việt
Nam phải làm gì đây? Sau khi dẫn ra một số việc tiêu cực, Người kêu gọi:

“Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên
già cỗi của Người không sớm hồi sinh!”. Sau lời cảm thán đượm buồn đó vẫn
toát lên các ý lớn: vận mệnh dân tộc, sự tồn vong của đất nước, tùy thuộc vào
ý chí và nghị lực của thế hệ trẻ.
- Trách nhiệm chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và sự
làm gương, nêu gương lý tưởng và đạo đức của thế hệ trước
Ngay từ những ngày cách mạng còn trứng nước, cùng với việc tổ chức ra
Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng, gửi người vào học trường Quân sự
Hoàng Phố, cử đi đào tạo ở Mátxcơva… Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
trực tiếp giáo dục thanh niên Việt Nam từ Thái Lan sang, tất cả đều mang họ

12
Lý của Lý Thụy (tên hoạt động của Người ở Quảng Châu) trong đó Lý Tự
Trọng đã được cử về nước để chuẩn bị tổ chức ra Đoàn Thanh niên Cộng sản
sau này. Cho đến những năm tháng cuối đời, đã mấy lần trong Di chúc, Hồ
Chí Minh nhắc đến đoàn viên và thanh niên, Người lưu ý: Đảng phải chăm lo
giáo dục đạo đức cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”, coi đó là một việc rất quan trọng và
rất cần thiết.
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Bác Hồ đặt lên hàng
đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng, chí khí và đạo đức cách mạng cho thanh niên. Lý
tưởng mà Bác Hồ quan tâm giáo dục cho thanh niên là lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, tức là kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác
- Lênin. Ngày nay, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội đang tìm cách lung lạc
thanh niên ta bằng cách tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Chúng
ta lựa chọn chủ nghĩa xã hội vì, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người tự do, bình đẳng, bác
ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.
Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng trung với nước, hiếu với dân,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng

đánh thắng. Không sợ gian khổ hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và
anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền
tảng đạo đức cách mạng, đó là đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
của Bác Hồ. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ
không đủ vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì
phấn đấu đến cùng cho lý tưởng. Thiếu nền tảng đạo đức cách mạng, người
chiến sỹ trẻ dễ gục ngã trước những cám dỗ của kinh tế thị trường.
Cuối cùng trong nội dung giáo dục, Bác Hồ yêu cầu: “Thanh niên phải
học và học cho giỏi”, “phải ham học”. Cách mạng đòi hỏi cả nhiệt tình cách
mạng và tri thức cách mạng. Thanh niên ta ngày nay cần theo được tấm

13
gương học tập của Bác Hồ: Từ một người yêu nước nhiệt thành, tuy không có
điều kiện học tập nhiều trong nhà trường, nhờ sự nỗ lực với ý chí phi thường,
nhờ cả thiên tài trí tuệ hiếm có, Người đã từng bước chiếm lĩnh được những đỉnh
cao của tri thức nhân loại, trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới.
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh
niên
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá
của Đảng và nhân dân ta.
1.1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn
diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc
công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học
tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở
mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến
quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một

cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng
của đời sống xã hội và của mỗi con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là đạo đức Việt Nam vừa là đạo
đức cộng sản, vừa mang cốt cách của văn hóa đạo đức phương Đông vừa
mang dáng dấp của đạo đức phương Tây.
Theo quan điểm mác-xít, đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các
quan hệ kinh tế - xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho
tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài
người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [59, tr.371].
Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp
phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những
người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của

14
những người cộng sản” [58, tr.452]. Đây là một quan niệm mang tính cách
mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo
đức khác không thể đạt tới. Đạo đức ngoài sự chi phối của các điều kiện kinh
tế- xã hội, còn chịu sự tác động của sự tự ý thức và niềm tin về bản thân mình,
về dân tộc, giai cấp theo những lý tưởng và những định hướng giá trị nhất
định. Do đó, đạo đức có tính độc lập tương đối. Cho nên không thể quả quyết
rằng, sự giàu có về vật chất sẽ gắn liền với sự giàu có về tinh thần đạo đức
hay ngược lại.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì. Ta thấy, thông
thường, thuật ngữ đạo đức được Người dùng với 3 nghĩa: rộng, hẹp, và rất hẹp.
Nghĩa rộng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong
các quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng. Nghĩa hẹp, đạo
đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ
giữa người với người trong hoạt động sống. Nghĩa rất hẹp đó là hành vi đạo
đức. Hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về

nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn
phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù không lặp lại. Hồ Chí Minh tập
trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối quan hệ cơ bản của mỗi
con người (với mình, với người và với việc) và đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách
mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần
quốc tế trong sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền
tảng của người cách mạng.

15
Mặt khác Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức
đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường
tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng
đứng ngoài, đối lập với đạo đức đời thường. Vì vậy không thể bào chữa cho
khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi,
không liên quan gì đến cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của
Đảng, của cách mạng, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược
với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh đạo đức mới là đạo đức cách mạng, nó hoàn toàn
khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sự kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức
của nhân loại. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngửng lên trời” [33, tr.320-321]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân phong

kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm, trói buộc con người, tàn phá con
người. Còn đạo đức mới đạo đức cách mạng là “Quyết tâm giúp đỡ loài người
ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh
thần chí công vô tư”; “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” là “Vô
luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết”, “là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” [33, tr.568].
Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với
người cách mạng như sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí
Minh, nhiệm vụ cách mạng không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng khó khăn,
phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách mạng phải có
quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ “thắng không
kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [35, tr.283].

16
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”
thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh
giành độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Người
cũng nhắc lại ý của V.I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh
dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống
hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
dân tộc Việt Nam. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức tiên
phong của thanh niên Việt Nam là cánh tay đắc lực, đội hậu bị của Đảng, tập
hợp đại đa số thanh niên trong trường học. “ Đạo đức”, “văn minh” theo chư
hiền Hồ Chí Minh đó là văn hoá chính trị. Điều cốt lõi là lấy dân làm gốc, tôn
trọng dân, lo cho dân, tiếp thu ý kiến phê bình của dân, sửa chữa khuyết điểm.

Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối
hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và
“chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể thiếu
mặt này hay thiếu mặt kia. Như vậy, đạo đức trong quan niệm Hồ Chí Minh
được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của
con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những
chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm
về thiện và ác, về cái không được làm và nghĩa vụ phải làm.
1.1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh
niên
Tùy theo đối tượng, từng thời điểm, nhất là theo yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung đạo đức cách mạng cho từng
chủ thể đạo đức nhất định. Cũng như đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên, đạo đức cách mạng của thanh niên được Hồ Chí Minh nêu tóm tắt là:
Thanh niên phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng có
thể tóm tắt trong mấy điểm:

17
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ
quốc, với Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện đâu cần thanh niên có,
việc gì khó có thanh niên làm, gian khổ đi trước, hưởng thụ sau mọi người.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không được khoe công,
không được tự phụ [36, tr.106].
Đối với thanh niên trong lực lượng vũ trang, theo Hồ Chí Minh, đạo đức
của họ thể hiện ở 5 điều: Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm:
- Trí: Là sáng suốt, biết địch biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết
người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu
của mình để mà tránh.
- Tín: Nói cái gì phải cho tin. Nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho

dân tin, cho bộ đội tin ở mình.
- Nhân: Là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình.
- Dũng: Là phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều. Phải
có kế hoạch. Phải kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là
phải có lòng dũng cảm trong công việc.
- Liêm: Là không tham danh vị, không tham sống, không tham tiền, không
tham sắc. Người cán bộ đã dám hy sinh cho Tổ quốc, hy sinh cho đồng bào, hy
sinh vì nghĩa không tham gì hết [31, tr.223-224].
Đối với đoàn viên thanh niên cộng sản, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách
mạng của họ khác các thanh niên bình thường ở chỗ: “Bất kỳ ở cương vị nào,
bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một
dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây
dựng chủ nghĩa xã hội” và “Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải
đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” [36, tr.306].
Ngay đối với thiếu niên, nhi đồng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức
cộng sản chủ nghĩa đối với các cháu là chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có
kỷ luật…” [36, tr.680].

18
Hồ Chí Minh là người đã từng hoạt động trong các phong trào thanh
niên khi còn trẻ, từng tham gia đại hội Quốc tế thanh niên cộng sản, là người
trực tiếp sáng lập, lãnh đạo các tổ chức thanh niên tiên tiến ở nước ta. Chính
vì vậy, Người đã nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan về vị trí, vai trò
của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, qua đó Người định hướng công tác
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên. Người khẳng định thanh
niên không chỉ là người chủ tương lai của đất nước, mà còn là “lớp người tiếp
sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt
thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng” [36, tr.488]. Để làm tròn
sứ mệnh cao cả và vẻ vang này, thanh niên phải rèn luyện tinh thần và lực
lượng của mình, trước hết là phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.

Người xác định mục đích của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
thanh niên là để giúp họ phấn đấu trở thành những lớp người vừa có đức vừa
có tài, kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: thanh niên “Phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể… ra sức cần
kiệm xây dựng nước nhà” [36, tr.106].
Người khuyên thanh niên: Các sự khó nhọc thì mình làm trước người ta,
còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước. Các việc
đáng làm, thì khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được. Ham làm những
việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý. Đem lòng chí
công vô tư mà đối với người, đối với việc. Quyết tâm làm gương về mọi mặt:
Siêng năng, tiết kiệm, trong sạch. Chớ kêu ngạo tự mãn… [31, tr.186].
Để thực hiện khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên
làm”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cho mỗi thanh niên phương hướng hành động để
từ đó có một hướng đi đúng đắn, sát thực tiễn. Thanh niên đã làm rất nhiều
điều quan trọng cho Tổ quốc, nhưng theo Người “Chớ vì thế mà tự cao, tự
đại, phải khiêm tốn, luôn luôn cố gắng hơn mới vượt qua mọi khó khăn để
giành lấy thành tích nhiều hơn”. Người nhấn mạnh: “Thanh niên phải xung

×