Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng sư phạm qua việc giảng dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác - Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC



NGUYỄN NGỌC ÁNH



GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Hà Nội – 2014

NGUYỄN NGỌC ÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC



NGUYỄN NGỌC ÁNH


GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM HỒNG THÁI



Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong
bất cứ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014

TÁC GIẢ LUẬN VĂN




NGUYỄN NGỌC ÁNH














LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS Phạm Hồng
Thái, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy
giáo phản biện đã góp nhiều ý kiến quý báu để luận văn này của tôi được
hoàn thiện hơn, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Triết
học và Ban lãnh đạo trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học
quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này theo
đúng kế hoạch. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo và các anh
chị em đồng nghiệp trong Khoa Lý luận chính trị, Học viện Tài chính đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, trao đổi, góp ý những ý kiến bổ ích để
bản nội dung của luận văn này chặt chẽ và hoàn thiện hơn.















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA GIÁO
DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI HIỆN NAY 12
1.1. Một số lý luận về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ 12
1.1.1. Khái niệm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ 12
1.1.2. Một số nguyên tắc về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ 21
1.2. Sự cần thiết của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 26
1.2.1. Đặc điểm của thị hiếu sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 26
1.2.2. Vai trò của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 29
1.2.3. Nội dung và hình thức giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay . 36
Kết luận Chương 1 52

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI
HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HIỆN NAY 53
2.1. Thực trạng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 53
2.1.1. Thành tựu của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 53
2.1.2. Hạn chế của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 64
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
hiện nay 78
2.2.1. Yêu cầu thực tiễn về tăng cường giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội hiện nay 78
2.2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội hiện nay 83
Kết luận Chương 2 93
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97













1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành ý thức thẩm mỹ của con
người, là cơ sở cho mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm
mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh có vai trò to lớn trong xây dựng nền văn
hóa mới, con người mới ở nước ta mà mục tiêu trọng tâm là tạo cơ sở đúng
đắn cho mọi hoạt động sống cũng như mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá
và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể.
Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ biểu hiện quá trình tự phát triển của cá
nhân mà nó còn thể hiện trình độ giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường và ngoài
xã hội. Luật giáo dục năm 2005 đã nhấn mạnh: “Quan tâm đầy đủ đến giáo
dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân, giáo dục sức khỏe và thẩm mỹ cho
học sinh, sinh viên là yêu cầu chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn
mới ở nước ta”. Có thể nói, cùng với giáo dục đạo đức, trí tuệ, thể chất, giáo
dục thị hiếu thẩm mỹ có liên quan sâu sắc đến nhu cầu lành mạnh, lý tưởng
tiên tiến của con người Việt Nam giai đoạn mới.
Thế hệ trẻ nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng là lực lượng quan
trọng quyết định đến vận mệnh, tương lai của dân tộc. Sinh viên Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội là một bộ phận
hữu cơ của chỉnh thể ấy. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ
đối với sự phát triển của đất nước. Người khẳng định tuổi trẻ không những là
người kế tục các thế hệ đi trước mà còn là tương lai của đất nước, của dân tộc.
Hồ Chí Minh căn dặn thanh niên: "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi
nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước
nhà?" và Người nói về nguyên tắc giáo dục thanh niên: "Trường học, gia đình

và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt
động và sinh hoạt hằng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn
2

nắn, sửa chữa". Về bản thân người thanh niên, Người căn dặn: "Thanh niên
càng phải xung phong hăng hái thực hiện khẩu hiệu "Đâu cần thanh niên có,
đâu khó có thanh niên".
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế
thị trường như hiện nay, sự du nhập ngày một gia tăng các sản phẩm văn hóa,
lối sống từ bên ngoài vào khiến cho nhu cầu, thị hiếu và lí tưởng của người
dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ càng trở nên phức tạp. Văn kiện Hội nghị lần thứ
V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng khi đề cập tới văn hóa
nghệ thuật đã cảnh báo: “xu hướng thương mại hóa, chiều theo những thị hiếu
thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học nghệ
thuật bị suy giảm”. “Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho
thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng” [21,46].
Trước thưc tế đó, vấn đề giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhất là giáo dục
nhu cầu và thị hiếu, lí tưởng thẩm mỹ ở nước ta càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Đặc biệt với sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
tương lai sẽ là những đội ngũ tuyên truyền đường lối, chính sách văn hóa, xã
hội cơ bản cho Đảng, Nhà nước, góp phần củng cố và làm giàu mỹ quan cho
dân tộc. Vì thế, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội có vị trí và ý nghĩa
đặc biệt quan trọng.
Như vậy, có thể nói, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên là một
vấn đề hết sức thời sự, cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc trên các
bình diện lý luận và thực tiễn nhằm hướng tới xây dựng quan điểm thẩm mỹ
đúng đắn cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng trong điều
kiện hiện nay. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Giáo

dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
3

2. Tình hình nghiên cứu
Đánh giá cao vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong việc giáo dục hình
thành nhân cách con người cho nên từ lâu trong lịch sử phát triển của Mỹ học,
nhiều nhà Mỹ học nổi tiếng đã đề cập, nghiên cứu vấn đề này. Sự nghiên cứu
thị hiếu thẩm mỹ cũng như vai trò của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ ở lớp tuổi
trẻ ngày càng được quan tâm nhiều hơn trong các giai đoạn về sau này, nhất
là khi vấn đề xây dựng mẫu con người lí tưởng cho xã hội mới xã hội chủ
nghĩa được đặt ra. Có thể tổng quan vấn đề nghiên cứu có liên quan đến chủ
đề của luận văn ở 3 khía cạnh chính là: Về giáo dục thẩm mỹ, Về thị hiếu
thẩm mỹ và Về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ.
Về giáo dục thẩm mỹ: Các nghiên cứu nước ngoài về giáo dục thẩm
mỹ và vai trò của giáo dục thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống con người
có thể kể đến các công trình sau:
Vào thời khai sáng ở châu Âu, G.Sinlơ đã đề xuất một cương lĩnh giáo
dục thẩm mỹ nổi tiếng với mục tiêu tạo ra cái lợi sẽ gắn với cái chân, cái
thiện, cái mỹ với tác phẩm Những bức thư về giáo dục thẩm mỹ.
Ở Đức, người nghiên cứu về các vấn đề thẩm mỹ một cách khá đầy đủ
và công phu là I.Kant. Kant đã coi nghệ thuật và các hoạt động của thị hiếu có
ảnh hưởng tới các quá trình tự giác giáo dục thẩm mỹ.
Ở Nga, qua hai tác phầm “Giáo dục thẩm mỹ cho con người” của
Ph.Sinle và “Nhu cầu thẩm mỹ” của I.A.Giđrian, hai tác giả đã chứng minh
hai quan niệm khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ. Ph.Sinle cho thị hiếu thẩm mỹ
là cái không bị ràng buộc bởi các mối quan hệ xã hội, còn ngược lại
I.A.Giđrian lại bảo vệ quan điểm cho rằng mọi thị hiếu thẩm mỹ đều bắt
nguồn từ những mối quan hệ xã hội nhất định.
Trong các bài giảng mỹ học của Hegel, ông đã đưa ra quan điểm về

nghệ thuật và sự tự sản sinh ra nhân cách văn hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử
4

phát triển của mỹ học, Hegel đã coi nghệ thuật là sản phẩm của quá trình vận
động của tinh thần tuyệt đối và đến lượt mình, nghệ thuật trở thành chiếc chìa
khóa mở ra các vấn đề lớn lao của con người.
Mỹ học của các nhà dân chủ cách mạng Nga đã quan tâm sâu sắc đến
các vấn đề giáo dục thẩm mỹ. Khi coi cái đẹp là cuộc sống, Tsecnưsepxki đưa
ra quan điểm cho rằng nghệ thuật làm cho con người yêu cuộc sống hơn.
Trong các tư tưởng về mỹ học của mình, Mác, Ăngghen đã đề cập sâu
sắc đến vai trò của nghệ thuật đối với cuộc đấu tranh của nhân loại vì cái
đúng, cái tốt, cái đẹp. Mác - Ăngghen đã đưa ra những quan điểm cơ bản nhất
về văn hóa thẩm mỹ trong xã hội tương lai. Các ông đặc biệt nêu lên vai trò
của các quan điểm thẩm mỹ trong việc hình thành con người mới, thế giới
quan mới và cá tính con người.
Các nhà mỹ học Xô viết và Việt Nam đã đề cập nhiều về giáo dục thẩm
mỹ. Các bộ giáo trình mỹ học của Nhêđôsivin, Xcacherơsicốp, Lukin,
Ôpxiannhicôp đều có chương đưa ra các vấn đề liên quan đến nghệ thuật
thẩm mỹ và vai trò của nó đối với giáo dục thẩm mỹ.
Ở Việt Nam, giáo dục thẩm mỹ có thể coi là mảnh đất thu hút khá
nhiều tâm huyết của các nhà mỹ học, triết học, văn học cũng như nghệ thuật
học. Một trong số đó có thể kể đến các công trình: Lê Anh Trà đã có cuốn
Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới, Đỗ Huy với Giáo dục thẩm
mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Đỗ Văn Khang với Nghệ thuật học.
Ngoài ra, các giáo trình mỹ học của Hoài Lam, Lê Ngọc Trà, Vũ Minh Tâm,
Huỳnh Như Phương…đều có chương viết về giáo dục thẩm mỹ. Các nghiên
cứu này đều đề cao giáo dục thẩm mỹ trong vai trò thiết lập những lý tưởng
thẩm mỹ cho con người mới XHCN. “Chúng ta đều biết giáo dục thẩm mỹ là
một bộ phận, một hình thức của hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nó bao
gồm một nội dung rộng lớn: giáo dục sự hình thành những khả năng và thị

5

hiếu thẩm mỹ đúng đắn, giúp cho con người hiều biết, cảm xúc, hành động
đúng trước cái đẹp của đời sống xã hội, của cảnh vật thiên nhiên, của tác
phẩm nghệ thuật và điều quan trọng hơn hết là biết sáng tạo những cái đẹp
ngày càng phong phú và đa dạng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống nhất là
trong lĩnh vực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Bên cạnh đó, gần đây, một số công trình khoa học cũng đã bàn tới vấn
đề này như: Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995 của tác giả Trần Túy; Vai trò của văn học trong giáo
dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 1996 của tác giả Lê Quang Vinh; Vai trò của truyền thông đại
chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001 của tác giả Trần Ngọc Tăng… đã tập trung đề cao vai trò của
các yếu tố liên quan đến việc hình thành và hoàn thiện môi trường giáo dục
thẩm mỹ. Các nghiên cứu kể trên đều khẳng định rằng giáo dục thẩm mỹ là
một nội dung trọng tâm trong sự nghiệp giáo dục nói chung ở nước ta hiện
nay, và thành quả các hoạt động giáo dục thẩm mỹ có mối quan hệ mật thiết
với các yếu tố vệ tinh như nghệ thuật, văn học, truyền thông đại chúng…Các
tác giả đã đưa ra những đóng góp nhất định và đi sâu nghiên cứu nội dung lý
luận của giáo dục thẩm mỹ và quan hệ biện chứng giữa giáo dục thẩm mỹ với
các hình thức biểu hiện của đời sống thẩm mỹ.
Về thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ là vấn đề đã được đề cập nhiều
trong lịch sử mỹ học.
Ngay từ thế kỷ XVII – XVIII, một số nhà mỹ học Anh, Pháp đã quan
tâm nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ như: A.Sepxberi (1671-1713), G.Rútxô,
S.L.Môngtexkiơ vv…Ở Đức, triết gia nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ một cách
công phu và khá đầy đủ là I.Kant. Nhà mỹ học Đức này gọi thị hiếu thẩm mỹ
là phán đoán thẩm mỹ. Bằng các công trình của mình, ông đã vạch ra các đặc
6


điểm của thị hiếu thẩm mỹ như tính vô tư, không mục đích, không khái niệm
và ở một mức độ nhất định, ông cũng đề cập đến vai trò của các phán đoán thị
hiếu trong đánh giá và sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là trong đánh giá cái đẹp.
Tuy vậy, I.Kant đã không giải quyết được mối quan hệ giữa tính đặc thù và
tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ.
Ở Liên Xô, các bộ giáo trình mỹ học của V.Xcachersiccốp, I.Lukin,
M.Ôspxianhicốp và tập thể các nhà mỹ học đều có phần bàn về thị hiếu thẩm
mỹ. Riêng V.Raziumnưi đã có một cuốn sách ngắn là Bàn về thị hiếu nghệ
thuật tốt thể hiện rõ quan điểm của tác giả về sự khác biệt giữa các thị hiếu
thẩm mỹ tầm thường, thiếu lành mạnh và các thị hiếu thẩm mỹ tốt, các thị
hiếu thẩm mỹ lành mạnh.
Ở Việt Nam, thị hiếu thẩm mỹ cũng được các nhà nghiên cứu mỹ học,
văn học và nghệ thuật học đặc biệt quan tâm. Tiêu biểu trong đó có tác phẩm
của hai tác giả hàng đầu trong lĩnh vực mỹ học hiện nay là PGS.TS Đỗ Văn
Khang và GS. Đỗ Huy với các tác phẩm viết chung Mỹ học Mác – Lênin, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985; Giáo trình mỹ học cơ sở,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011 và các tác phẩm khác như Giáo trình mỹ học đại
cương của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004, Mỹ học đại cương của Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh, Huỳnh Như
Phương. Các công trình này nhìn chung đã lột tả được bản chất của giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ và đều coi thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng cấu
thành năng lực thẩm mỹ của con người.
Ngoài các công trình nêu trên, một số nghiên cứu khác như: Nâng cao
thị hiếu thẩm mỹ trong thưởng thức và đánh giá nghệ thuật, Văn hóa nghệ
thuật 9/1999, 7-10, luận án Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống
thẩm mỹ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội, 2000 của
tác giả Nguyễn Chương Nhiếp và các bài viết được in trong cuốn Thỏa mãn
7


nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Viện Văn hóa, Nxb Văn
hóa, Hà Nội, 1987 như: Thị hiếu nghệ thuật và cái mới của Phan Kế An, Bàn
về giáo dục thị hiếu âm nhạc lành mạnh cho quần chúng của Vũ Tự Lân, Mỹ
học thực dụng chủ nghĩa nguồn gốc thị hiếu nghệ thuật tầm thường ở Mỹ của
Trường Lưu, Thế nào là thị hiếu nghệ thuật lành mạnh của Lê Đức Nga…
Các nghiên cứu đều có sự quan tâm tới vai trò của thị hiếu thẩm mỹ trong đời
sống thẩm mỹ, đời sống nghệ thuật của con người. “Vai trò của thị hiếu thẩm
mỹ trong đời sống thẩm mỹ chính là sự ảnh hưởng, sự tác động của thị hiếu
thẩm mỹ đối với đời sống thẩm mỹ” [84, 51]. Nhìn chung, thị hiếu thẩm mỹ
đã được các nhà nghiên cứu bàn tới nhiều nhưng còn ở tầm vĩ mô, cần có
thêm những công trình nghiên cứu cụ thể hơn vai trò thị hiếu thẩm mỹ đối với
từng đối tượng cụ thể.
Về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nói chung và giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho sinh viên: Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là vấn đề còn khá mới mẻ
nhưng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao tư duy
thẩm mỹ cho con người nói chung cũng như giới trẻ hiện nay. Các công trình
nghiên cứu về vấn đề này chủ yếu khai thác trên bình diện lý luận và thực tiễn
về văn hóa thẩm mỹ và xây dựng lối sống văn hóa. Có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ như một công cụ lý
luận giáo dục có: Vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ của tác giả Lê Anh Trà
(in trong cuốn Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật,
Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1987), Nghệ thuật và vấn đề giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ, Mỹ học thời nay, 12/10 -1996, 55 – 57 của tác giả Nguyễn
Chương Nhiếp, Luận án Văn hóa thẩm mỹ với sự hình thành nhân cách của
con người Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Quang Vinh,1996… Mục tiêu
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là nội dung mà các công trình này hướng tới. Các
8

tác giả đều đề cập tới giáo dục thị hiếu thẩm mỹ như một nhân tố quan trọng

trong hệ thống giáo dục hiện nay, góp phần tích cực trong việc hình thành
nhân cách, nâng cao khiếu thẩm mỹ cho con người.
Nhóm các công trình nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ trong vai trò giáo
dục thế hệ trẻ như: Luận án Văn hóa thẩm mỹ và việc xây dựng lối sống cho
thanh niên đô thị của nước ta hiện nay của Hồ Thị Tuyết Dung, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Bàn thêm về nội dung và hình thức
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên hiện nay, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5(40), 2010 của hai tác giả Lê Hữu Ái -
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng và Đinh Đức Hiền - Sở Nội vụ
thành phố Đà Nẵng; đề tài Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh qua vẻ đẹp
của tranh dân gian Đông Hồ trên trang web . Các tác giả
đều cho thấy giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là nội dung quan trọng của chiến lược
giáo dục hiện nay. Các nghiên cứu chỉ ra những đặc trưng cơ bản trong việc
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, chỉ ra các nội dung và hình thức của giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên hiện nay, tuy nhiên đối tượng học sinh,
sinh viên các nghiên cứu này nhắm tới đều chung chung, chưa cụ thể.
Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Qua nghiên cứu và khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài, tác giả của luận văn xin đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, có thể thấy các tác giả nói trên đã nghiên cứu giáo dục thẩm
mỹ và thị hiếu thẩm mỹ trên những bình diện khác nhau từ lý luận đến thực
tiễn, song do nhiều nguyên nhân khác nhau, các công trình này đều nghiên
cứu về thị hiếu thẩm mỹ ở tầm khái quát cao. Vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho từng đối tượng cụ thể, trong đó có sinh viên còn nhiều nội dung cần
được nghiên cứu cụ thể hơn.
9

Thứ hai, có thể thấy, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập tới vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, nhất là giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
cho đối tượng thanh thiếu niên, sinh viên. Các tác giả đã tạo ra một sơ sở dữ

liệu và những gợi mở quan trọng để tác giả tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu một
cách sâu sắc và hoàn chỉnh hơn về vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ khai thác vấn đề trên bình diện khái
quát, chung chung, chưa đi vào đối tượng cụ thể, việc nghiên cứu về đề tài
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên của Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Hà Nội là một đề tài hoàn toàn
mới mẻ, chưa có tác giả nào đề cập tới một cách cụ thể và hệ thống về lý luận
và thực tiễn. Tác giả hy vọng với kết quả của luận văn sẽ góp phần làm sáng
tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ. Đồng
thời, tác giả mong muốn đề tài sẽ góp phần bổ sung những điểm khuyết của
mảng đề tài tài trong nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vai trò của thị hiếu thẩm mỹ đối với nhận thức của sinh viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội .
Chỉ ra những thành tựu và hạn chế của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong thời gian tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
10

Thứ nhất, làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội hiện nay.
Thứ hai, khảo sát và đánh giá thực trạng về thành tựu và hạn chế của
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong giai đoạn gần đây.

Thứ ba, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hoạt động giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và
thực tiễn có liên quan đến hoạt động giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và những nguyên lý mỹ học Mác – Lênin.
Luận văn đã vận dụng các nghị quyết của Đảng, những tác phẩm của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta, đồng thời có tham khảo các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước để thực hiện luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu chung như: phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phân
11

tích và tổng hợp, hệ thống hóa và so sánh, phương pháp điều tra xã hội
học…Và ở một mức độ nhất định, luận văn có sử dụng phương pháp hệ thống
– cấu trúc trong nghiên cứu giáo dục thẩm mỹ như một thành tố của toàn bộ
hệ thống giáo dục quốc dân.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Bằng các thành tựu của khoa học mỹ học, luận văn vận dụng vai trò

của thị hiếu thẩm mỹ trong hoạt động giáo dục thẩm mỹ cho sinh viên Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn là sự bổ sung quan trọng, đáng kể vào
lý luận về giáo dục thị yếu thẩm mỹ nói chung, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội nói riêng.
Những kết luận trong luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nghiên
cứu, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thị hiếu
thẩm mỹ cho sinh viên nói chung, sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng trong điều kiện hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu
và giảng dạy một số môn học về mỹ học, nghệ thuật học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
luận văn được kết cấu thành hai Chương, 4 tiết.

12

Chƣơng 1
GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA
GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN TRƢỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Quan niệm về giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
1.1.1. Khái niệm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ

Thị hiếu thẩm mỹ là một đối tượng nghiên cứu cụ thể của khoa học mỹ
học. Nó không chỉ biểu hiện trình độ giáo dục thẩm mỹ của xã hội mà còn thể
hiện quá trình tự phát triển của cá nhân. Nếu khái niệm thị hiếu chỉ sự thích
thú thông qua các giác quan của con người như thị giác, khứu giác, thính giác,
xúc giác, vị giác thì khái niệm thị hiếu thẩm mỹ gắn liền với cảm giác thông
qua hai giác quan thị giác và thính giác. “Năm 1647, trong luận văn của mình,
nhà tư tưởng Tây Ban Nha Gracian Moralès đã đồng nhất khái niệm thị hiếu
như khái niệm thị hiếu thẩm mỹ. Khi đó ông gọi thị hiếu gắn với các cảm giác
của tai và mắt là cảm giác gắn với cái đẹp và nghệ thuật. Cảm giác này khác
với cảm giác khi ăn, uống, tắm mát và ngửi hương thơm, nó thuộc về các cảm
giác tinh thần" (Trích theo: 84, 9).
Khi mỹ học trở thành một khoa học độc lập, nhà mỹ học
A.Baumgácten cũng đặc biệt chú ý đến đặc trưng cơ bản này của thị hiếu
thẩm mỹ so với các sở thích khác trong đời sống. A.Baumgácten đề xuất
Nguyên lý thích thú trong lĩnh vực mỹ học gắn liền với cảm giác về cái đẹp
thông qua các giác quan tai và mắt. Ông luận giải, thích thú thẩm mỹ là sự kết
hợp của các cảm giác tác động thụ động qua hai giác quan tai và mắt với quá
trình giải phóng lý trí. Theo đó, thị hiếu thẩm mỹ là sự thích thú của con
người về phương diện thẩm mỹ, gắn liền với tình cảm về cái đẹp, cái xấu, cái
bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và nghệ thuật.
13

Nhưng phải đến hai nhà mỹ học nổi tiếng I.Kant và G.Hegel, khái niệm
thị hiếu thẩm mỹ mới được luận bàn nhiều. Trong cuốn Phê phán năng lực
phán đoán, ngay từ những chương đầu của cuốn sách, I.Kant đã khẳng định
“Phán đoán thị hiếu là phán đoán thẩm mỹ”. Theo I.Kant, mỹ học là phê phán
năng lực phán đoán hay chính là khoa học nghiên cứu khả năng tự khám phá
ra các sở thích riêng của mình. Theo đó, thị hiếu thẩm mỹ là khả năng đưa ra
phán đoán của cá nhân về cái đẹp và cái cao cả. I.Kant gọi thị hiếu thẩm mỹ
về bản chất mang tính vô tư, thờ ơ với các quyền lợi về vật chất.

Đến Hegel, nhà mỹ học coi mỹ học là khoa học nghiên cứu cái đẹp của
nghệ thuật thì cho rằng thị hiếu nghệ thuật gắn bó chặt chẽ với các giác quan
thính giác và thị giác thông qua hai loại hình nghệ thuật chủ yếu là điêu khắc
và âm nhạc. Cụ thể ông đã dày công nghiên cứu những cảm nhận thẩm mỹ
của người Hy Lạp trong việc xây dựng những thành tựu thẩm mỹ của điêu
khắc Hy Lạp cổ. Đồng thời, Hegel có lời khen ngợi đôi tai thẩm âm trong phê
bình, sáng tạo và phổ biến âm nhạc của người Ý.
Theo quan điểm mác xít, thị hiếu thẩm mỹ không phải là cái trời cho,
có sẵn của con người, nó là kết quả của việc giáo dục và rèn luyện lâu dài.
C.Mác cho rằng: “chỉ có thông qua sự phong phú đã được phát triển về mặt
vật chất của bản chất con người thì sự phong phú của tính cảm giác chủ quan
của con người mới phát triển và một phần, thậm chí lần đầu tiên mới được sản
sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy cái đẹp của hình thức – nói
tóm lại là những cảm giác có khả năng về những sự hưởng thụ có tính chất
người và tự khẳng định mình như những lực lượng bản chất của con người”
[39, 137].
Kế theo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh yếu tố
không sẵn có của thị hiếu thẩm mỹ, ông chỉ ra rằng năng lực thẩm mỹ của các
thiên tài âm nhạc như Paganini, Thovanxen, Raphaen đã được hình thành
trong suốt quá trình lao động lâu dài của lịch sử nhân loại cùng sự cố gắng nỗ
14

lực hết mình của mỗi cá nhân. Ông khẳng định: “Chỉ nhờ có lao động, nhờ
thích ứng được với những động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự
phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các cơ, của các gân, và sau
những khoảng thời gian dài hơn, cả của xương nữa, và cuối cùng, nhờ luôn
luôn áp dụng lại sự tinh luyện thừa hưởng được đó vào trong những động tác
mới, ngày càng phức tạp hơn, - mà bàn tay con người mới đạt được trình độ
hoàn thiện rất cao khiến nó có thể, như một sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các
bức tranh của Raphaen, các pho tượng của Thovanxen và các điệu nhạc của

Paganini” [40, 20, 643].
Như vậy, có thể thấy, Thị hiếu thẩm mỹ là khái niệm chỉ sở thích của
con người trong lĩnh vực thẩm mỹ, bộc lộ năng lực lựa chọn, đánh giá của
con người bằng cảm xúc trước các hiện tượng thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ là
kết quả kết tinh ý kiến của xã hội và những nhận định riêng của mỗi cá nhân.
Hay nói khác đi, con người có một thước đo thẩm mỹ gắn liền với lịch sử
sáng tạo của nó, và thị hiếu thẩm mỹ là sản phẩm riêng của con người xã hội.
Tuy mỗi thị hiếu mang một màu sắc cá nhân riêng nhưng chúng đều được
kiểm nghiệm bằng các thước đo xã hội, từ đó người ta phân biệt được thị hiếu
tốt, thị hiếu xấu, thị hiếu lành mạnh, thị hiếu không lành mạnh.
Thị hiếu thẩm mỹ chỉ có ở con người, động vật không hề có thị hiếu
thẩm mỹ và mỗi thị hiếu cá nhân của con người đều gắn với thước đo thẩm
mỹ của một xã hội cụ thể. Minh chứng cho quan điểm này, trong Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã viết: “Súc vật chỉ sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, sản xuất một chiều; còn con người thì
sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống trị của nhu cầu
vật chất trực tiếp; trong khi đó thì con người sản xuất ngay cả khi thoát khỏi
nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất theo ý
nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn
15

con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp
gắn liền với cơ thể vật chất của nó, còn con người thì độc lập một cách tự do
với sản phẩm của mình. Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu
cầu của giống loài nó còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất
cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối
tượng; do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp” [10,
93-94]. Cũng gần quan điểm đó, trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã
hội cũng cho rằng: “Một con người xã hội nhất định (hoặc nói cho đúng hơn
một xã hội, một dân tộc một giai cấp nào đó) có chính là những thị hiếu và

quan niệm thẩm mỹ này, chứ không phải là những thị hiếu và quan niệm
khác” [82, 141]. Điều đó cho thấy, dù hình thức tồn tại của thị hiếu thẩm mỹ
là năng lực thẩm mỹ của cá nhân, nhưng mỗi cá nhân này không tách khỏi các
quan hệ thẩm mỹ của xã hội. Các nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng không vượt khỏi
các quan hệ dân tộc, giai cấp và thời đại. Do đó, những thị hiếu thẩm mỹ lành
mạnh là sản phẩm tất yếu của các hoạt động thực tiễn của chủ thể thẩm mỹ.
Nói theo nguyên thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Mỗi người đều có quyền theo
sở thích riêng của mình ưa hay không ưa mà khen chê; đó là sở thích của
mình thì không sao, nhưng nếu đem sở thích riêng của mình mà ép người
khác phải theo thì không được. V.I.Lênin đã dạy chúng ta không nên đem cái
ưa hay không ưa của mình về nghệ thuật mà ép thiên hạ. Làm sao mà ép thiên
hạ được! Tôi thích cái này, anh thích cái kia, mỗi người có một sở thích của
mình. Tôi nói như vậy không có nghĩa là cái hay không có tiêu chuẩn của nó”
[27, 111].
Như vậy, mỗi thị hiếu thẩm mỹ tốt không thể xa rời các định hướng giá
trị tiên tiến của thời đại, tính chủ quan thuần túy thực sự không tồn tại trong
thị hiếu thẩm mỹ. Các hoạt động quan sát, bình xét, sáng tạo thông qua các thị
hiếu cá nhân trong cùng một điều kiện lịch sử xã hội nhưng các giá trị thẩm
16

mỹ mà chúng đạt được có thể khác nhau. Kinh nghiệm thẩm mỹ cũng như
hoạt động tâm – sinh lý cá nhân có ảnh hưởng to lớn trong việc hình thành và
thực hiện các thước đo thẩm mỹ của xã hội.
Nhu cầu và khả năng thẩm mỹ hóa là một trong những yếu tố không thể
thiếu trong quá trình phát triển và hoàn thiện con người hiện nay. Thị hiếu
thẩm mỹ là một hình thức biểu hiện năng lực thẩm mỹ của con người, nó có
vai trò rất lớn đối với việc phát triển con người toàn diện. Thị hiếu thẩm mỹ
bắt đầu từ việc xác định được đối tượng thẩm mỹ đến việc xác định và nâng
cao thị hiếu thẩm mỹ trong cuộc sống, trong tự nhiên; từ đó nâng cao tính tích
cực sáng tạo trong mọi hoạt động, hoàn thiện nhân cách con người và xây

dựng xã hội phát triển theo quy luật của cái đẹp. Vì vậy, việc phổ biến và giáo
dục thị hiếu thẩm mỹ là thực sự cần thiết.
Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là hệ thống những biện pháp, cách thức
nhằm rèn luyện và hoàn thiện thái độ, tình cảm và năng lực cảm thụ của con
người trước cuộc sống và nghệ thuật thông qua hai giác quan chủ yếu là
thính giác và thị giác.
Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ có vai trò quan trọng
trong việc hình thành lối sống văn hóa nói riêng và hoàn thiện nhân cách con
người nói chung theo chiều hướng tiến bộ, nhân văn và vận động theo quy
luật của cái đẹp. Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là sự xã hội hóa cá nhân về mặt
thẩm mỹ thông qua mối quan hệ thẩm mỹ của con người với thực tiễn cuộc
sống để phát triển con người một cách toàn diện, hài hòa.Về vấn đề này, nhà
mỹ học Xô Viết E.Iakốplép đã viết: “Thực chất của thị hiếu thẩm mỹ là sự
thống nhất hài hòa giữa nhận xét với xúc cảm. Điều đó làm cho nó trở thành
một hiện tượng xã hội chung, còn trong những điều kiện lịch sử nhất định –
thành một hiện tượng giai cấp, đồng thời vẫn giữ được tính cá nhân sâu sắc”
[80, 141].
17

Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành hệ thống giáo dục
thẩm mỹ giúp hoàn thiện quá trình xã hội hóa cá nhân nhằm phát triển con
người toàn diện. Mục tiêu trọng tâm giáo dục con người mà Đảng và nhân
dân ta hướng tới là xây dựng những con người có năng lực hiểu biết, đánh giá
và sáng tạo cái đẹp. Mục tiêu này có mối quan hệ gắn bó với mục tiêu phát
triển trí tuệ, đạo đức, thể chế thông qua lao động và các thiết chế văn hóa. Bản
chất của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là hình thành một chủ thể thẩm mỹ có
năng lực thụ cảm nhạy bén và khả năng sáng tạo trong mọi hoạt động sống, là
phát triển một cách hài hòa các hoạt động cá nhân và xã hôi của con người.
Như vậy, để đạt được mục tiêu cao quý của giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ phải bao gồm trong đó giáo dục trong nhà trường và ngoài

xã hội, tự giáo dục và cả giáo dục lại. Nói cách khác, giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ là sự tác động vào ý thức con người một cách có định hướng, có kế hoạch
nhằm nâng cao khả năng nhận thức và sáng tạo thẩm mỹ theo chương trình,
mục tiêu xã hội.
Thực tiễn thẩm mỹ nhiều năm qua đã chứng minh rằng, việc thực hiện
các nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ, trong đó có giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là rất
cấp bách nhưng vô cùng phức tạp, đòi hỏi phải đặt trên cơ sở liên ngành và
tổng hợp. Nền kinh tế thị trường có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy kinh
tế phát triển và quá trình dân chủ hóa, nhưng cũng chính nó lại là nguyên
nhân này sinh những tiêu cực xã hội như tham nhũng, tội phạm, bạo lực. Đó
là sự kích thích lòng tham lợi, dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên
thiên nhiên cũng như sức lực của người lao động. Cơ chế thị trường còn kích
thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống chạy theo
đồng tiền bất chấp đạo lý. Đặc biệt, đối với những nước mới bước vào kinh tế
thị trường, sự đụng độ giữa kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc cũng trở thành một vấn đề nan giải. Hiện nay Đảng và Nhà
nước ta không chỉ quan tâm đến việc giáo dục cơ bản, giáo dục đạo đức, mà
18

hơn nữa đã quan tâm nhiều hơn vào định hướng cụ thể các nhu cầu thưởng
thức, đánh giá hưởng thụ và sáng tạo những giá trị thẩm mỹ của cuộc sống và
nghệ thuật. Trong cuộc đấu tranh giữa cái đẹp và cái xấu, giữa tiên tiến và lạc
hậu, cùng với giáo dục đạo đức học, lôgíc học, tâm lý học, xã hội học thì giáo
dục thị hiếu thẩm mỹ cũng đầy đủ tư cách tham gia tích cực vào việc cùng tạo
ra những phương pháp đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực để làm nảy sinh một
cách hợp quy luật những thị hiếu thẩm mỹ tốt, những khả năng sáng tạo
phong phú.
Công cuộc xây dựng nền văn hoá thẩm mỹ mới, con người xã hội chủ
nghĩa mới là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ
và cái lạc hậu, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng tư sản cá nhân; nên

việc quán triệt và làm tươi mới các tư tưởng mỹ học của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bằng cách giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là yêu
cầu cấp bách như xây dựng một căn nhà đủ khỏe khoắn và kiên cố trong mùa
mưa lũ. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn phải
nhằm vào cái hư hỏng mà đả phá, phải hướng về cái tốt đẹp mà xây dựng.
Đây là một "cuộc chiến đấu khổng lồ". Và cuối cùng, cái quyết định vẫn là
kiên trì xây dựng cho được xã hội văn hoá cao, văn hoá mới của xã hội chủ
nghĩa, trong đó có văn hoá thẩm mỹ. Đó là định hướng cơ bản của giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ theo quan điểm mỹ học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu về giáo dục nói
chung và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nói riêng. Trong tư tưởng của Người, cái
đẹp là sự hài hòa giữa tinh thần và thể chất, đó là “con người có cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách
mạng” [56, 127]. Không phải ngẫu nhiên mỗi khi nói đến đạo đức, Hồ Chí
19

Minh luôn gắn nó với hình ảnh cái đẹp hay sử dụng các thước đo thẩm mỹ
làm tiêu chuẩn để bình giá.
Trong thời kì đổi mới, kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm mỹ học
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hình thành nhân
cách con người mới, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm giáo dục thẩm mỹ
trong đó giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng. Theo cố Tổng
bí thư Trường Chinh thì trong các hoạt động thẩm mỹ, con người luôn cần có
năng khiếu, có thị hiếu thẩm mỹ linh hoạt. Trong đó, năng khiếu chỉ là tiền đề
ban đầu và mỗi hoạt động thẩm mỹ đều cần liên tục được thử thách bởi các
thước đo xã hội. Ông cho rằng: “Muốn có tác phẩm đẹp phải có khiếu, có tài
năng, có thiên tài. Những người cộng sản không phủ nhận tài năng và thiên
tài, nhưng không quan niệm tài năng và thiên tài là những cái siêu hình, bẩm
sinh đã có. Sự cấu tạo của khối óc và truyền thống gia đình có phần ảnh

hưởng đến văn nghệ sĩ, nhưng tài năng và thiên tài chủ yếu là những cái mà
người ta có thể do dày công học tập, rèn luyện mà tạo nên được” [9, 232].
C.Mác đã từng viết: “sản xuất tạo ra người tiêu dùng”, sáng tác nghệ
thuật tạo ra công chúng nghệ thuật. Như vậy, để nâng cao thị hiếu thẩm mỹ
cho công chúng, làm cho thị hiếu đó đạt đến trình độ tiên tiến và mang bản
sắc dân tộc cần có những lý tưởng thẩm mỹ Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng đưa đường dẫn lối. Theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã định hướng một nền văn hóa
nghệ thuật tiên tiến “là yêu nước và tiến bộ mà nội dung lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú,
tự do, toàn diện của con người trong quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng
đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả
trong hình thức thể hiện, cả phương tiện chuyển tải nội dung”, và bản sắc dân

×