Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Phát triển con người trong bối cảnh tòan cầu hóa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 105 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====================


PHAN THỊ MAI THÚY


PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học







Hà Nội - 2014



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


====================


PHAN THỊ MAI THÚY



PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60220301

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền




Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của cô giáo TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền.
Tôi xin cam đoan đề tài này không trùng với những đề tài luận văn thạc
sỹ đã được công bố ở Việt Nam.
Tôi hoàn toàn chịu tráchn nhiệm về nội dung của đề tài.
Người cam đoan


Phan Thị Mai Thúy













1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI
VÀ TOÀN CẦU HÓA 15
1.1. Một số quan niệm về phát triển con ngƣời 15
1.2. Toàn cầu hóa, thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa đối với phát triển
con ngƣời ở Việt Nam 27
1.2.1. Toàn cầu hóa và các đặc điểm của toàn cầu hóa 27
1.2.2. Những thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa đối với phát triển con
người Việt Nam hiện nay 31
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 40
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI VIỆT
NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY 43
2.1. Thực trạng phát triển con ngƣời Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay 43

2.1.1. Thực trạng phát triển năng lực sinh thể con người Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay 43
2.1.2. Thực trạng phát triển trí tuệ con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay 57
2.1.3. Thực trạng phát triển tâm lực con người Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay 65
2.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển con ngƣời Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay 76
2.2.1. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, nâng cao chất lượng
con người 77
2.2.2. Giải quyết việc làm cho người lao động 80
2.2.3. Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo gắn với phát triển kinh tế và
công tác an sinh xã hội 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 90
KẾT LUẬN CHUNG 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94



2
DANH MỤC VIẾT TẮT

UNDP Humam Developmnt reports
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
HDI Human Developman Index
Chỉ số phát triển con người


3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử tư tưởng triết học, với bản chất cách mạng và khoa học,
học thuyết Mác đã đặt ra cơ sở lý luận về bước chuyển của nhân loại sang một
kỉ nguyên mới - kỉ nguyên mà ở đó: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[37 tr. 628]. Chính vì lẽ đó
mà học thuyết Mác đã được cả cộng đồng nhân loại tiến bộ thừa nhận là học
thuyết về con người, về sự nghiệp giải phóng con người.
Nhưng đến cuối thế kỷ XX, việc thừa nhận con người là nguồn lực vô
tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu tối thượng của sự tiến bộ xã hội mới
được các chuyên gia của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
quán triệt, lượng hóa và thiết kế một thước đo chung, nhằm đánh giá trình độ
phát triển con người ở các quốc gia thuộc Liên hợp quốc. Tuy nhiên, việc coi
con người là trung tâm của sự phát triển không phải quốc gia nào cũng làm
được điều này. Việc phát triển con người có thực hiện được hay không, đạt tới
mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự phát triển về kinh tế, còn tùy thuộc vào
quan điểm, chính sách và chương trình hành động của từng quốc gia.
Lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam,
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến sự nghiệp xây dựng và phát triển con
người Việt Nam trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, từ khi đổi mới
đến nay, bằng việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở
cửa hội nhập với khu vực và thế giới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh đã mở rộng không gian phát triển đầy triển vọng cho con người
Việt Nam. Các cơ hội và điều kiện cho việc phát triển toàn diện con người
Việt Nam ngày càng được xác lập, bảo đảm và mở rộng. Sự nghiệp xây dựng,
phát triển con người Việt Nam thời gian qua đã gặt hái được nhiều thành tựu


4
nổi bật được bạn bè thế giới ghi nhận. Nhưng bên cạnh những thành tựu đã

đạt được, sự nghiệp phát triển con người Việt Nam cũng còn nhiều mặt hạn
chế, đặc biệt, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. Toàn cầu hóa
đang đặt ra những cơ hội và thách thức lớn đối với sự phát triển của các quốc
gia. Trong đó, việc phát triển con người của các nước là vấn đề có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, nhất là đối với các nước đang phát triển, để có thể khẳng định
mình trong “sân chơi” thế giới. Toàn cầu hóa tạo thuận lợi cho các nước đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, trao đổi và tiếp nhận
những tiến bộ mới nhất về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Nhưng đồng thời
nó cũng mang lại những khó khăn, thử thách không nhỏ, như: Sự phân hóa
giàu nghèo diễn ra ngày một nhanh hơn, gây ô nhiễm môi trường, lu mờ bản
sắc văn hóa truyền thống Phát triển con người như thế nào trong bối cảnh
toàn cầu hóa trở thành một vấn đề mang tính thời sự vì các quốc gia muốn
tăng trưởng một cách vượt trội và bền vững thì không thể không dành sự quan
tâm đặc biệt đến con người và phát triển con người.
Thực tiễn trên đây đang đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên
cứu cả về lý luận và thực tiễn để tìm ra những giải pháp hữu hiệu đẩy mạnh
sự nghiệp phát triển con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Vì những lý do trên đây, tôi chọn đề tài “Phát triển con ngƣời Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Liên quan đến đề tài này, ở nước ta, trong những năm gần đây, đã có
nhiều công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn cao
học… Trong số những công trình nghiên cứu tiêu biểu đó, có thể kể đến các
công trình sau:
“Tư tưởng triết học về con người” của Vũ Minh Tâm [64]. Đây là cuốn
sách thể hiện công trình nghiên cứu công phu, có hệ thống về vấn đề con


5

người trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Trên cơ sở luận giải
các quan điểm về con người của những nhà triết học tiêu biểu của các trường
phái, các nền triết học trong lịch sử, tác giả khẳng định triết học Mác -
Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung có mục đích cao nhất là
khắc phục sự tha hóa con người, giải phóng và phát triển con người. Lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người thể hiện tính nhân văn, nhân đạo,
khoa học và cách mạng triệt để.
“Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá” của Phạm Minh Hạc chủ biên [28]. Đây là một công trình khoa học thể
hiện sự nghiên cứu công phu của các tác giả về vấn đề phát triển con người
Việt Nam theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cuốn sách được chia làm hai phần
với mười hai chương nội dung. Ở phần thứ nhất của cuốn sách, các tác giả
đã trình bày những cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ sở lý luận cho
chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nước ngoài về
phát triển con người cũng là cơ sở quan trọng trong việc phát triển con người
Việt Nam. Đồng thời, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước đã trở
thành cơ sở thực tiễn của chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam. Các tác giả cũng đã đưa ra mô hình nhân cách con người Việt Nam, đó
là mô hình gắn bó chặt chẽ giữa đức và tài trong con người. Trong phần thứ
hai, các tác giả đã đưa ra định hướng chiến lược và luận giải những giải pháp
cụ thể cho việc phát triển con người Việt Nam trên bốn phương diện cơ bản
là đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất. Đồng thời luận giải những giải pháp
thiết thực, hiệu quả về việc phát triển con người Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng trong việc nghiên
cứu định hướng và giải pháp phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.


6

“Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Vũ Thiện Vương [75],
cuốn sách gồm ba chương. Ở chương 1: Những quan điểm cơ bản của triết
học Mác - Lênin về con người, trên cơ sở phê phán những hạn chế và sai lầm
của một số quan niệm trước Mác về con người, tác giả đã khẳng định sự ra
đời của chủ nghĩa Mác là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con
người. Trong chương 2 (Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một số vấn đề đặt
ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam theo quan điểm của triết học
Mác - Lênin về con người), tác giả đã nhấn mạnh yêu cầu khách quan của
việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng xây dựng
con người Việt Nam được tác giả phân tích qua ba giai đoạn cơ bản: Con
người Việt Nam truyền thống (giai đoạn trước khi Đảng ra đời), con người
Việt Nam trước đổi mới và sau đổi mới, những thành quả đạt được, tác giả
cũng đã trình bày những hạn chế của việc xây dựng con người Việt Nam.
Trong chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả
đã đưa ra và phân tích ba phương hướng và bốn nhóm giải pháp chủ yếu.
“Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người” [31], cuốn
sách của tác giả Nguyễn Văn Huyên, gồm hai phần, ở phần thứ nhất, trên cơ
sở cho rằng chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài
người, tác giả đã khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là môi trường,
điều kiện để tiến tới phát triển con người Việt Nam. Phần thứ hai của
cuốn sách tác giả cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan
trọng cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam. Từ đó tác giả cho
rằng, con người hiện đại là con người phải có trí tuệ, có kỹ năng nghề
nghiệp, có trình độ khoa học, kỹ thuật. Đặc biệt là phải biết sáng tạo, biết
thưởng ngoạn - hưởng thụ văn hóa. Rằng văn hóa, các giá trị nhân văn



7
và kinh tế thị trường, môi trường đô thị, văn hóa thẩm mỹ, nghệ thuật và
giáo dục là những nhân tố cho sự hình thành và phát triển các phẩm chất đó
của con người hiện đại.
“Con người và phát triển con người trong quan niệm của Mác và
Ăngghen” [53] do Hồ Sĩ Quý chủ biên. Cuốn sách gồm 2 phần. Phần
thứ nhất: Di sản kinh điển - những tư tưởng cơ bản về con người và phát
triển con người. Phần này trình bày những luận điểm về con người và
phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tương
ứng với các quan điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen về chủ đề con người, về bản chất con người, về vấn đề
giải phóng con người. Phần thứ hai: Di sản kinh điển nhìn từ thời đại
ngày nay - ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức
và phát triển con người. Phần này gồm những bài viết của các tác giả,
trong đó phân tích, làm sáng tỏ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
về vấn đề con người và phát triển con người. Cuốn tiếp theo của ông phải
kể đến đó là cuốn: “Con người và phát triển con người” [54]. Trong đó tác
giả luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc nghiên cứu con
người là một khoa học. Tiếp đến làm rõ vấn đề khái niệm con người, bản
chất con người, con người trong quan hệ với giới tự nhiên và vấn đề phát
triển con người. Đồng thời khẳng định: “Nghiên cứu con người nói
chung và con người Việt Nam nói riêng, hiện đang đứng trước những nhu
cầu đặc biệt cấp thiết đặt ra từ sự phát triển của bản thân khoa học và từ sự
phát triển của đất nước trong tương quan chung với sự phát triển của khu
vực, của thế giới và của nhân loại” [54, tr.127]. Tiếp nữa là tác giả trình bày
một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu con người.
Trong phần này, nhiều hướng nghiên cứu con người đã được tác giả đưa ra,
như: nghiên cứu phát triển con người, nguồn lực con người, con người trong
quan hệ với văn hóa, với môi sinh, nhân cách con người, tiềm năng con



8
người, tài năng, danh nhân.
Bộ giáo dục và Đào tạo, “Từ chiến lược phát triển giáo dục, đến chính
sách phát triển nguồn nhân lực” [5]. Đây là Tuyển tập các công trình
nghiên cứu và bài báo khoa học của nhiều tác giả, cuốn sách góp phần phổ
biến những thông tin về chiến lược, chính sách đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực. Cuốn sách được chia thành 3 phần: Phần I: Các vấn đề phương
pháp luận về chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực. Phần II: Thực
tiễn về chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam. Phần
III: Kinh nghiệm quốc tế - chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Cuốn sách là tài liệu quan trọng trong nghiên cứu chiến lược, chính sách phát
triển nguồn nhân lực và phát triển con người ở nước ta hiện nay.
Đoàn Văn Khái, “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam [33]. Tác giả đã làm rõ vai trò của nguồn lực
con người, coi đó là yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Từ thực trạng nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay và
những vấn đề đặt ra trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả đã
đưa ra những phương hướng, quan điểm chỉ đạo và những nhóm giải pháp
cơ bản. Đó là nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực
con người; nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người; nhóm giải
pháp về xây dựng môi trường xã hội thuận lợi nhằm khai thác và phát triển
hiệu quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam.
Cuốn “Quan niệm của C.Mác về tha hóa và ý nghĩa của nó đối với phát
triển con người Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Huyền [30]. Ở
đây, tác giả phân tích quan niệm của C. Mác về tha hoá và những biểu hiện
của tha hoá, con đường khắc phục tha hoá để phát triển con người. Vận dụng
quan niệm của C.Mác, bước đầu tìm hiểu vấn đề tha hoá trong xã hội Việt
Nam và khuyến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục tha hoá để



9
phát triển con người Việt Nam, tập trung vào hai nhóm giải pháp khắc phục
sự tha hóa kinh tế và tha hóa về chính trị, đẩy mạnh cuộc vận động chỉnh đốn
Đảng; xóa bỏ cơ chế xin-cho trong lĩnh vực ngân sách, tài chính và tổ chức,
kiểm tra; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực
của bộ máy Nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, trong sạch về phẩm chất, đạo đức, tận tụy với công
việc; thực hiện dân chủ hóa trên thực tế và nhóm giải pháp ngăn ngừa nguy
cơ tha hóa trong lĩnh vực đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay.
Luận án,“ Quan điểm của C.Mác về phát triển con người và sự vận dụng ở
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Sơn [57]. Ở đây, luận án luận giải quan
điểm của C.Mác về phát triển con người và sự vận dụng quan điểm này ở Việt
Nam trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn để trên cơ sở đó, đề xuất
phương hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Phạm Thành Nghị: “Phát triển con người bền vững và những thách thức
về quản lý”, [49]. Mở đầu bài viết, tác giải khẳng định: “Cơ may tạo ra sự
phát triển con người bền vững gắn liền với sự quản lý của các chính phủ, các
chính sách và cơ hội tham gia của người dân”[49, tr. 21]. Điều đó được tác
giả luận giải trong bài viết, trước tiên, tác giả đi vào làm rõ khái niệm phát
triển con người bền vững, sau đó tác giả khẳng định cái cơ sở của phát triển
con người bền vững không chỉ ở nâng cao đời sống vật chất mà chính yếu là ở
nâng cao các chuẩn mực văn hóa của con người, giúp họ hoàn thiện hơn, phát
huy tài năng và tăng cường năng lực, để giúp con người nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa, phát huy tài năng và năng lực thì Nhà nước có vai trò quan
trọng, Nhà nước tài trợ tạo cơ hội cho mọi người tiếp thu những kiến thức cơ
bản để có cơ hội phát triển lâu dài, đấy là trong giáo dục đào tạo, trong kinh tế



10
cũng vậy, Nhà nước bảo đảm sự công bằng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực
như khoa học kỹ thuật, xây dựng và thực thi các chính sách kinh tế và chính
sách xã hội. Cuối cùng, tác giả đưa những thách thức và giải pháp đối với
phát triển con người bền vững, giám sát thực thi các giải pháp đó đảm bảo
cho các chính sách phát triển con người bền vững được thực thi vì lợi ích của
chính người dân.
Lê Thi: “Nâng cao chỉ số phát triển con người Việt Nam và công cuộc xóa
đói, giảm nghèo”[74, tr. 33-38]. Bài viết đi vào luận giải chỉ số phát triển con
người Việt Nam và khẳng định chỉ số phát triển con người phản ánh chất
lượng sống còn thấp, và mức sống dân cư là yếu tố tác động mạnh đến chất
lượng sống của con người, chính vậy muốn tăng mức sống của dân cư thì phải
tiến hành công cuộc xóa đói giảm nghèo, đó là hướng cơ bản để nâng cao chất
lượng sống và tăng chỉ số HDI. Trong bài tác giả luận giải việc xóa đói giảm
nghèo trên cả hai mặt đó là: Đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Đối với
đời sống vật chất thì cần phải đảm bảo người dân đủ cơn ăn, áo mặc, có thể
lực cao và được hưởng các phúc lợi của y tế, giáo dục, văn hóa. Đối với đời
sống tinh thần thì cá nhân được hưởng quyền tự do dân chủ, bình đẳng, công
bằng…có cơ hội, điều kiện được thưởng thức các thành tựu văn hóa, nghệ
thuật, phương tiện thông tin…Từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản để
xóa đói giảm nghèo, tăng chất lượng sống cho con người.
Phạm Thành Nghị, “Công bằng xã hội và phát triển bền vững con
người”,[50, tr.21-26]. “ Phát triển con người bền vững luôn đi liền với công
bằng xã hội và bình đẳng về cơ hội phát triển” [50, tr. 21]. Ở đây, bài viết chủ
yếu chỉ ra mối quan hệ giữa công bằng, bình đẳng với phát triển con người
bền vững thông qua việc làm sáng tỏ khái niệm công bằng xã hội và phát triển
bền vững, từ đó cho chúng ta thấy được nền tảng của phát triển con người bền
vững là tạo ra sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận nguồn lực và trong cơ hội
phát triển năng lực.



11
Phạm Thành Nghị ,“Phát triển nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức”
[48, tr. 20 – 25]. Là một quốc gia kém phát triển, Việt Nam có nguồn lao
động dồi dào, nhưng xét theo trình độ đào tạo thì chất lượng còn thấp. Bài
viết cho rằng trước những thách thức của toàn cầu hóa và yêu cầu hội nhập
quốc tế, cần phải xem xét những vấn đề trọng tâm trong phát triển nguồn nhân
lực hiện đại, để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong quá trình phát triển.
Phùng Danh Cường, “Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và giải pháp” [11]. Tác giả đã đi luận giải thực trạng phát triển con
người Việt Nam trong những năm gần đây. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, còn một số hạn chế nhất định trên các bình diện: Chỉ số HDI, giáo dục
và đào tạo, công tác phát triển y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân và thành
tích trong xóa đói giảm nghèo và từ đó đưa ra giải pháp để phát triển con
người Việt Nam.
UNDP, Báo cáo Quốc gia về phát triển con người năm 2011: Dịch vụ xã
hội vì sự phát triển con người [13]. Từ những kết quả phân tích về phát triển
con người Việt Nam trong thập kỷ qua, Báo cáo đưa ra và phân tích bốn
thông điệp chính: Thứ nhất, tiến bộ trong chỉ số HDI của Việt Nam trong
những năm gần đây chủ yếu do tăng trưởng kinh tế mang lại; thứ hai, tăng
trưởng kinh tế đơn thuần không phải lúc nào cũng mang lại mức độ phát triển
con người cao hơn; thứ ba, mặc dù có nhiều tiến bộ song tốc độ tăng chậm
lại của chỉ số HDI thể hiện rõ ở cấp địa phương; thứ tư, việc chi trả và
cung cấp các dịch vụ xã hội hiện nay là thách thức đối với khát vọng và
mục tiêu phát triển con người của Việt Nam. Đồng thời, báo cáo còn đề xuất
và luận giải mười định hướng chính sách phát triển con người Việt Nam: 1/
Coi trọng con người hơn mục tiêu phát triển kinh tế; 2/ Các dịch vụ xã hội có
vai trò trong kìm chế bất bình đẳng ngày càng gia tăng; 3/ Cần một cách tiếp
cận mới về an sinh xã hội; 4/ Có một hệ thống lợi ích nhất quán hơn nhằm

hỗ trợ tiếp cận toàn dân; 5/ Đánh giá lại chính sách xã hội hóa; 6/ Gánh


12
nặng tài chính được chia sẻ công bằng hơn; 7/ Giải quyết tình trạng hai cấp
trong cung cấp dịch vụ; 8/ Tăng cường quản trị và nâng cao chất lượng dịch
vụ; 9/ Quản lý khu vực công và khối tư nhân hiệu quả hơn; 10/ Lập kế hoạch
cho tương lai. Quan điểm của UNDP về phát triển con người cùng những
nghiên cứu thực chứng của tổ chức này là cơ sở khoa học quan trọng cho
nghiên cứu con người và định hướng phát triển con người Việt Nam.
Các bài: “Phát huy nhân tố con người theo tinh thần đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nga. “Vấn đề phát huy nguồn lực
con người ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt. “Chiến lược
phát triển con người trong văn kiện đại hội XI của Đảng” của Bùi Thị
Phương Thùy trong “Một số vấn đề triết học trong các văn kiện đại hội XI
của Đảng” do PGS.TS Trần Văn Phòng và GS.TS Nguyễn Hùng Hậu (2011)
đồng chủ biên, Trong đó các nhà khoa học luận giải sâu sắc những phương
hướng, chủ trương, chính sách của Đảng đề ra về vấn đề phát huy, phát triển
nhân tố, nguồn lực con người.
Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xây dựng và phát
triển con người Việt Nam ở những cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm
vi hiểu biết của tác giả luận văn thì nghiên cứu về phát triển con người Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu
một cách hệ thống. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trên
đây, luận văn tiếp tục đi sâu nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở lý luận về phát triển con người và
toàn cầu hóa, luận văn làm rõ thực trạng và những giải pháp đẩy mạnh phát
triển con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Với mục đích như trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ như sau:



13
+ Trình bày khái quát quan niệm về phát triển con người, về toàn cầu
hóa, từ đó rút ra khái niệm “phát triển con người” và những thời cơ, thách
thức của toàn cầu hóa với phát triển con người Việt Nam hiện nay.
+ Phân tích thực trạng phát triển con người Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
+ Đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh phát triển con người ở nước ta
trong bối cảnh toàn cầu hóa.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, UNDP và quan điểm của Đảng ta về phát triển con người và xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu, thống kê,…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Phát triển con người Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn nghiên cứu thực trạng phát
triển con người Việt Nam từ sau đổi mới tới nay.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận:
- Luận văn trình bày khái quát quan niệm về phát triển con người.
- Luận văn khái quát chung về thực trạng phát triển con người Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên ba lĩnh vực cơ bản đó là: thể
lực, trí lực và tâm lực.
Về thực tiễn:
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập về những vấn đề liên quan. Đồng thời, luận văn có thể dùng



14
làm tài liệu tham khảo trong việc đề ra một số chính sách phát triển con người
Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương, 4 tiết.











15
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI VÀ
TOÀN CẦU HÓA
1.1. Một số quan niệm về phát triển con ngƣời
Thuật ngữ “phát triển” (Devolopment) có nhiều cách định nghĩa tùy theo
cấp độ xem xét khác nhau. Ở cấp độ chung nhất, theo quan niệm của triết học
Mác - Lênin, phát triển được hiểu là quá trình vận động từ thấp (đơn giản)
đến cao (phức tạp), mà nét đặc trưng chủ yếu là sự ra đời của chất mới thay
thế cho chất cũ. Trong lĩnh vực xã hội, có thể coi phát triển là một dạng vận
động đa chiều và người ta coi chiều cạnh nào đang diễn ra những thay đổi sâu

sắc, quan trọng nhất là phát triển.
Trong lịch sử, lúc đầu người ta đồng nhất phát triển với tiến bộ, văn
minh xã hội. Vào thế kỷ XIX, phát triển được đồng nghĩa với tiến hóa xã hội.
Từ giữa thế kỷ XIX, quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ ở các nước
châu Âu, đem đến sự phát triển vượt bậc về kinh tế, khái niệm phát triển
chuyển dịch sang lĩnh vực kinh tế. Nhiều học giả xem phát triển chính là quá
trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa diễn ra ở thành thị. Những mâu thuẫn
trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc cho thấy sự bế tắc của
quan niệm phát triển thuần túy cơ giới. Trên cơ sở kế thừa quan niệm của các
nhà tư tưởng đi trước và dựa vào thành tựu khoa học ở thời đại mình, C. Mác
đã tìm ra quy luật phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội dựa trên phương
thức sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn nhất định
dẫn đến quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời, đòi hỏi phải được thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Sự thay đổi quan hệ sản xuất đưa đến sự
thay thế của kiến trúc thượng tầng tương ứng. Sự tác động qua lại giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng tạo thành các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của xã


16
hội loài người từ thấp đến cao. Mác nói về sự phát triển của một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định, ông không dành khái niệm phát triển cho riêng lịch
sử con người. “Cái gọi là sự phát triển lịch sử nói chung, dựa trên tình trạng là
hình thái cuối cùng coi các hình thái đã qua là những giai đoạn để đi tới bản
thân nó” [39, tr.884].
Tuy nhiên, sự luận giải của học thuyết Mác về sự phát triển xã hội nhằm
mục đích cao nhất là “sự phát triển phong phú của bản chất con người, coi
như là mục đích tự thân” [41, tr.168]. Sự phát triển con người đã được các
ông đặt ra trực tiếp trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi

người” [38, tr. 628]. Theo quan niệm của các nhà kinh điển mácxít, đến chủ
nghĩa cộng sản trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, ở đó sự phát triển
của con người là tự do. Theo đó, sự phát triển của một cá nhân được tạo điều
kiện do sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó có quan hệ trực tiếp
hay gián tiếp. Tự do cá nhân theo nghĩa đầy đủ của từ này nghĩa là không có
một sự tha hóa xã hội nào, điều đó chỉ có được trong chủ nghĩa cộng sản. Sự
phát triển của mỗi cá nhân vì bản thân mình, là sự sử dụng “tự do” những khả
năng của mình, là sự phát triển “tự do” những tiềm năng của mình. Theo Mác,
mục đích của sự phát triển con người chỉ có thể là sự phát triển riêng những
con người có thực, những cá nhân cụ thể, đơn nhất, như thế chủ nghĩa cộng
sản chỉ là phương tiện thực hiện mục đích đó.
Có thể khẳng định, tư tưởng cốt lõi trong toàn bộ học thuyết về con
người của C.Mác và Ph. Ăngghen là tư tưởng về giải phóng, phát triển con
người. Theo C. Mác khắc phục, xóa bỏ sự tha hóa của con người trong xã hội
tư bản là điều kiện cho giải phóng con người; muốn giải phóng con người thì
phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và thay bằng hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ trong điều kiện đó, con người mới trở
về với bản chất đích thực của mình, mới có đầy đủ các điều kiện để phát triển


17
toàn diện. Đến lượt nó, khi con người trở thành chủ thể xã hội, sự phát triển
xã hội lại do chính con người thực hiện. Do đó, phát triển xă hội là cơ sở của
phát triển con người. Phát triển tự do, toàn diện con người là mục tiêu của sự
phát triển, là tiêu chuẩn tối cao của tiến bộ xã hội.
Sang thế kỷ XX, tại các nước công nghiệp phát triển, người ta không
còn xem phát triển đơn thuần là công nghiệp hóa. Nội hàm khái niệm được
mở rộng, bao hàm toàn bộ quá trình hiện đại hóa mà cốt lõi là tăng trưởng
kinh tế. Phát triển được đồng nhất với việc gia tăng vốn kinh tế hay của cải
của toàn bộ hệ thống, không cần chú ý đến hậu quả mà quá trình này gây ra

cho môi trường tự nhiên, xã hội và con người. Các quốc gia coi tăng trưởng
kinh tế là chìa khóa duy nhất sẽ đem lại phồn vinh, hạnh phúc cho con người.
Đến nửa sau thế kỷ XX, các nước châu Âu bắt đầu chú ý tới vấn đề tăng
trưởng kinh tế có tính đến việc đáp ứng nhu cầu cơ bản của các tầng lớp, chú
ý đến đòi hỏi nhiều mặt của con người. Nhưng thực tế, các Nhà nước mới chỉ
chú trọng đến đáp ứng và cải thiện nhu cầu vật chất của con người. Con người
vẫn chỉ được xem như phương tiện của nền sản xuất mà chưa thực sự quan
tâm đến phát triển con người và tính ổn định bền vững cho xã hội.
Nhiều nước trên thế giới lấy thước đo thu nhập quốc dân để đánh giá
trình độ phát triển của kinh tế, xã hội. Công cụ GDP bình quân đầu người
được coi như là công cụ hữu hiệu mà các quốc gia vẫn sử dụng. Tuy nhiên,
công cụ này đã thể hiện nhiều hạn chế, nó mới chỉ chú ý đến góc độ của tăng
trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, khía cạnh xã hội - nhân văn của phát triển xã
hội như sự công bằng, bình đẳng xã hội, đến giáo dục, y tế, sức khỏe cộng
đồng, Vì vậy, chưa đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, chưa hẳn đã
nâng cao đời sống văn hóa cho con người. Chỉ riêng sự tăng trưởng kinh tế
cũng không thể đảm bảo được yêu cầu cho sự phát triển công bằng, bình đẳng
xã hội. Chạy theo mục tiêu đó, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho sự phát triển


18
của mình, đó là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng tệ nạn xã hội phát triển
tràn lan, xung đột xã hội thường xuyên nổ ra, đời sống văn hóa suy đồi…
Thực tế cho thấy, tất cả các loại vốn vật chất, vốn xã hội, vốn con người tuy
đóng vai trò then chốt cho phát triển, đều không phải là mục tiêu cuối cùng của
quá trình này. Cùng với sự thay đổi của thời đại, phát triển con người ngày càng
được lựa chọn và chú trọng. Amartrya Sen, một trong những người đi tiên phong
về lý thuyết phát triển con người đã viết: Sự phát triển có thể được coi là một quá
trình mở rộng các quyền tự do thực sự mà người dân được hưởng.
Đến cuối những năm 1980, đầu những năm 90 của thế kỷ XX ra đời

cách tiếp cận mới của Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP).
Quan điểm nền tảng của chương trình này là lấy con người làm mục tiêu tối
thượng của sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, nghĩa là coi các nhân tố
khác của xã hội chỉ như là phương tiện để phát triển con người, và lấy phát
triển con người làm nhân tố cao nhất để đánh giá tính ưu việt và hạn chế của
đường lối, chính sách và thực hiện cải tạo xã hội của các quốc gia.
Khái niệm phát triển con người được đề xướng bởi ông Mahbub Ul
Haq nguyên bộ trưởng tài chính Pakistan, là người đã thiết kế, chỉ đạo thực
hiện HDR (báo cáo phát tiển con người) đầu tiên vào năm 1990 và khái niệm
đó được nhắc đến nhiều lần trong các báo cáo phát triển con người, đến nay
đã được sử dụng phổ biến. “Phát triển con người không chỉ là sự tăng giảm
của thu nhập quốc dân, mà còn là tạo ra một môi trường trong đó mọi người
có thể phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ một cuộc sống sáng tạo,
hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ. Do vậy, phát triển có ý nghĩa
là mở rộng những lựa chọn của con người để hướng tới cuộc sống mà họ coi
trọng” [13, tr.13].
Theo GS, TS. Hồ Sĩ Qúy, nội dung khái niệm phát triển con người của
UNDP được hiểu theo hai cách trình bày sau: “1. Là quá trình tăng cường các


19
khả năng (hoặc các cơ hội) cho sự lựa chọn của con người; 2. Là sự mở rộng
các lựa chọn cho mọi người” [54, tr. 148]
Nội hàm của quan điểm này bao hàm hai khía cạnh, đó là mở rộng các
cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người, nâng cao đời
sống con người về mọi mặt, có điều kiện phát triển toàn diện, có cuộc sống
hạnh phúc và bền vững.
Mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người nghĩa là mở rộng các điều kiện,
môi trường xã hội để con người tham gia vào các hoạt động xã hội một cách
tự do, bình đẳng, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo… Sự bình đẳng

về cơ hội là điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con
người, trong đó, thu nhập là yếu tố rất quan trọng, là yếu tố đầu tiên. Tuy
nhiên, thu nhập mới chỉ là điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại của con người;
ngoài yếu tố này, con người còn cần phải được tiếp cận đến các dịch vụ khác
của xã hội như: dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa… Phát triển vì con người phải
nhấn mạnh đến việc mở rộng không gian lựa chọn cho con người để mỗi
người có thể đạt được một cuộc sống tốt đẹp nhất và có ý nghĩa nhất.
Tăng cường năng lực lựa chọn của con người: Năng lực của con người
có thể hiểu là trình độ tri thức, sức khỏe, đạo đức, văn hóa… Con người có
năng lực mới có khả năng tham gia vào xã hội với tính cách như là người chủ
xã hội, tạo ra những cơ hội mới để con người tham gia vào xã hội một cách
chủ động. Năng lực của con người là điều kiện cần thiết và tất yếu để mỗi
người có thể tham gia vào xã hội, để tiếp cận với xã hội. Để tham gia vào các
hoạt động xã hội, con người cần có nhiều loại năng lực như: năng lực tham
gia, năng lực tổ chức, thực hiện các công việc và năng lực hưởng thụ các kết
quả lao động, và các kết quả khác trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Để
có các năng lực này thì đòi hỏi con người phải có thể lực, trí lực ở mức tối thiểu và
cần thiết. Vì vậy, các hoạt động chăm sóc con người về y tế, giáo dục, văn hóa…


20
có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành các năng lực cho con người, phải có
một chiến lược toàn diện về xây dựng và phát triển con người.
Như vậy, quan niệm về phát triển con người bao hàm các khía cạnh chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, mục tiêu của phát triển là vì con người, vì việc nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần một cách hiệu quả, bền vững chứ không phải là sự
gia tăng đơn thuần về mặt của cải vật chất. Ở đây, tăng trưởng kinh tế chỉ là
một trong những điều kiện cần, là một phương tiện cực kỳ quan trọng để phát
triển con người, song nó vẫn không phải là mục tiêu cuối cùng của sự phát

triển. Phát triển con người là mục tiêu tối thượng của xã hội, mục tiêu đó
được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính
trị, văn hóa… nghĩa là mục tiêu của tất cả các lĩnh vực này lấy phát triển con
người là cơ sở đề ra đường lối, quy định con đường phát triển cho nó, thể hiện
tính nhân văn, nhân đạo của toàn bộ quá trình phát triển này.
Thứ hai, phát triển con người phải được xem xét một cách toàn diện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cách tiếp cận này đề cập đến sự
mở rộng các điều kiện, không gian xã hội cho sự lưa chọn của con người trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, giáo dục, y tế… trong mối liên hệ và tác động qua lại giữa các
yếu tố này, chứ không chỉ giới hạn trên phạm vi kinh tế.
Cách tiếp cận toàn diện còn chú ý đến tất cả các tầng lớp người, không
phân biệt chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, giới tính nó hướng tới việc tạo ra sự
bình đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người, đồng thời nó quan tâm đến việc
phân bổ năng lực công bằng hơn trong toàn bộ dân cư. Ngoài ra, cần phải chú
ý đến cả những lớp người dễ bị tổn thương như người nghèo, người tàn tật,
người dân tộc thiểu số, cư dân vùng miền núi, hải đảo… để từ đó tạo điều
kiện để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của đời sống như ăn, ở mặc, chăm sóc


21
sức khỏe, y tế, giáo dục cơ bản để họ có thể hòa nhập vào cộng đồng xã hội
một cách tự giác và bình đẳng với các lớp người khác trong xã hội.
Thứ ba, phát triển con người phải do chính con người thực hiện. Con
người với tính cách là chủ thể của xã hội, phát triển con người là một quá
trình nâng cao đời sống con người về mọi mặt, để đảm bảo sự phát triển bền
vững thì một mặt không chỉ mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người mà còn
nâng cao khả năng lựa chọn của con người trong xã hội, đến lượt nó, khi con
người có năng lực cao sẽ trở thành chủ thể của chính bản thân mình và của xã
hội sẽ là lực lượng để nâng cao đời sống của chính bản thân mình.

Theo đó, để đánh giá trình độ phát triển con người, UNDP sử dụng ba
chỉ số cơ bản (là tập hợp của hàng trăm chỉ số thành phần) đó là tuổi thọ, giáo
dục và mức sống, đó là những “chỉ số phát triển con người” (Human
Development Index- HDI).
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành
tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
1. Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ
trung bình.
2. Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các
cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
3. Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
Đặc biệt, trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới hiện
nay, thì phát triển con người là một yêu cầu cơ bản và lâu dài cho tất cả các
quốc gia và cả nhân loại nói chung. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi
phải có một mặt bằng chung về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…
Nếu không nâng cao trình độ về mọi mặt cho tất cả mọi người thì quá trình
hội nhập, toàn cầu hóa sẽ vì lợi ích của một nhóm người giàu có, sự hội nhập
sẽ không thể đảm bảo sự vững chắc trong một thế giới năng động như hiện


22
nay, sẽ không đảm bảo được sự tiến bộ chung trong quá trình lịch sử nhân
loại. Vì vậy, HDI đến nay được coi là bộ công cụ hữu hiệu nhất để đánh giá
trình độ phát triển con người của các quốc gia, để từ đó, các quốc gia tự đánh
giá trình độ phát triển của nước mình và xây dựng những chính sách, chiến
lược phát triển con người cho phù hợp với sự phát triển, tiến bộ chung của
nhân loại.
Từ các quan niệm trên đây, có thể hiểu, phát triển con người, một mặt
là lĩnh vực của phát triển nói chung, mặt khác là tiêu chí, là mục tiêu cao cả
của phát triển. Bản chất của sự phát triển con người là làm gia tăng giá trị của

con người trên các mặt tinh thần, thể chất, đạo đức, trí tuệ, tình cảm, xã hội,
kinh tế
Kế thừa và phát huy những quan điểm đúng đắn đó, Đảng và Nhà nước
ta đã rất quan tâm đến việc xây dựng, phát triển con người mới, phát triển
toàn diện:
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng
ta khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng,
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng
các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội”[17, tr. 87].
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng
định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng
được chú trọng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp phát triển mang
tính cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó
không phải do bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp của
quảng đại quần chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản,

×