ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***
NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG
VAI TRÒ GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC
CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***
NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG
VAI TRÒ GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC
CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học : TS. Dƣơng Văn Duyên
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả Luận văn
Nguyễn Đình Hoàng
LỜI CẢM ƠN
“Vai trò giáo dục đạo đức của gia đình đối với thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay” - Bước đầu tìm hiểu nội hàm khái niệm này từ góc nhìn triết học
TS.
Dương Văn Duyên, Th
ban, t
.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Đình Hoàng
1
MỤC LỤC
Mở đầu 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 12
6. Đóng góp của luận văn 13
7. Ý nghĩa của luận văn 13
8. Kết cấu của luận văn 13
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ GIÁO
DỤC CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC CỦA
TRẺ VỊ THÀNH NIÊN 14
1.1. Trẻ vị thành niên và giáo dục của gia đình đối với trẻ vị thành niên 14
14
20
1.2. Vai trò giáo dục của gia đình đối với sự hình thành đạo đức của trẻ
vị thành niên 34
34
48
57
Kết luận chƣơng 1: 64
2
Chƣơng 2. VAI TRÒ GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM ĐỐI
VỚI SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI: THỰC TRẠNG , NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 66
2.1. Thực trạng vai trò giáo dục của gia đình Việt Nam đối với sự hình
thành đạo đức của trẻ vị thành niên những năm đổi mới, những vấn đề
đặt ra 66
66
71
80
2.2. Một số giải pháp mang tính định hƣớng nâng cao vai trò giáo dục
của gia đình Việt Nam đối với sự hình thành đạo đức của trẻ vị thành
niên ở nƣớc ta hiện nay 89
89
93
96
105
Kết luận chƣơng 2 : 108
Kết luận 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả điều tra nhận thức của cha mẹ về vai trò của nhà trường và
xã hội trong việc hình thành và phát triển đạo đức cho trẻ em: 81
Bảng 2.2: Bảng điều tra trình độ học vấn của cha mẹ trong việc hình thành
đạo đức cho trẻ em ở 04 huyện ngoại thành: 85
Bảng 2.3: Kết quả điều tra về khó khăn của cha mẹ trong việc hình thành và
phát triển đạo đức cho trẻ em: 85
Bảng 2.4: Lối sống của ông bà ảnh hưởng tới sự hình thành đạo của con cháu
trong gia đình theo vùng điều tra: 99
4
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức xã hội là nền tảng tinh thần của một xã hội. Đạo đức của mỗi
con người là cái gốc nhân cách của họ. Chính tầm quan trọng của đạo đức xã
hội như vậy, cho nên trong bất cứ chế độ xã hội nào giai cấp cầm quyền cũng
luôn luôn xây dựng những quan niệm đạo đức phù hợp, nhằm củng cố chế độ
xã hội của mình.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một xã hội
tiến bộ, dân chủ, công bằng, văn minh. Muốn thực hiện điều đó cần quan tâm
tới việc xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa (XHCN), một thứ đạo đức
nhằm đưa lại những điều tốt đẹp cho con người, tạo dựng những quan hệ giúp
đỡ nhau giữa những con người trong xã hội. Để xã hội phát triển lành mạnh,
huy động được sức mạnh của toàn dân phấn đấu thực hiện được mục tiêu mà
Đảng cộng sản Việt Nam nêu ra, xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh xã
hội dân chủ công bằng văn minh, một mặt chúng ta phải quan tâm tới phát
triển kinh tế - xã hội, tạo ra cuộc sống vật chất đầy đủ, tinh thần phong phú
cho nhân dân, mặt khác phải chăm lo xây dựng đạo đức xã hội lành mạnh,
khắc phục sự suy thoái phẩm chất đạo đức của một bộ phận dân cư hiện nay
nhất là trẻ vị thành niên - chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thế hệ trẻ Việt
Nam đã có những cống hiến xứng đáng cho dân tộc, cho đất nước. Nhiều anh
hùng, chiến sỹ đã hy sinh cho Tổ quốc ở độ tuổi mười chín đôi mươi. Ngày
nay cũng không ít thanh niên đã có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không ít những
thanh niên đến những vùng sâu vùng xa, ra biên giới hải đảo để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh những thanh niên đó còn một bộ phận thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay “ vô đạo đức, sống hư hỏng, không niềm tin, không lý
5
tưởng, luôn luôn bực dọc và bất mãn đi đến chỗ phá phách gia đình và ngoài
xã hội nhiều người trong số họ đã giẫm nát mọi giá trị đạo đức của dân tộc
và nhân loại, không còn ham mê học tập và tu dưỡng” [53, tr. 17]. Từ thực
trạng đó đang đặt ra một yêu cầu phải quan tâm tới giáo dục đạo đức cho trẻ
vị thành niên. Một trong những biện pháp khắc phục tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo
ngại nhất là lớp trẻ [33, tr. 172 - 173], là phải đẩy mạnh vai trò của gia đình
trong giáo dục đạo đức đối với họ, vì gia đình là cơ sở nền móng đầu tiên định
hướng cho sự hình thành đạo đức và phẩm chất của mỗi con người.
Từ thời cổ đại Hy Lạp, Socrat và Platon đã khẳng định:
nh ng
. Sự phát triển tâm lý, đạo đức của mỗi người là một quá trình lâu
dài và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó có môi trường xã hội và môi
trường gia đình. Gia đình có vai trò quan trọng đối với việc hình thành nếp
sống, cung cách ứng xử hàng ngày của trẻ từ tuổi sơ sinh.
Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật hôn nhân gia đình qua những lần sửa đổi
đều khẳng định vị trí, vai trò của gia đình trong cơ cấu xã hội, trong sự phát
triển của đất nước, nhất là việc chăm lo giáo dục con cái. Gia đình là tế bào
của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan
trọng giáo dục nếp sống, hình thành đạo đức. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX cũng đã nhấn mạnh “
” [17, tr. 28].
6
Do tầm quan trọng của giáo dục gia đình đối với trẻ vị thành niên ,
trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách quan
tâm, tạo điều kiện để xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no, hòa thuận, tiến bộ,
dân chủ, củng cố và phát huy vị trí của gia đình trong cơ cấu các thành phần
kinh tế, tạo cơ hội để gia đình thực hiện tốt chức năng giáo dục của mình bên
cạnh các chức năng khác. Tuy nhiên, sau hơn hai thập kỷ thực hiện đường lối
đổi mới; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vai trò giáo dục và tự giáo dục đạo đức của gia đình đối với trẻ vị thành
niên ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Tính cấp thiết này một mặt bị quy định
bởi bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mặt khác, sự tác động
có tính hai mặt của cơ chế thị trường, môi trường xã hội, các loại văn hóa
phẩm độc hại của lối sống thực dụng được du nhập từ phương Tây đang làm
băng hoại, tha hóa đạo đức của một bộ phận xã hội và đã lôi cuốn trẻ vị thành
niên vào vòng tội lỗi. Trong khi đó vai trò giáo dục đạo đức của gia đình đối
với trẻ vị thành niên chưa thật sự được coi trọng và đầu tư đúng cách. Sự
chuyển đổi nhanh chóng từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại làm
cho không ít các bậc cha mẹ lo nuôi con nhiều hơn là đầu tư dạy dỗ con,
nhiều cha mẹ không coi trọng đến việc giáo dục toàn diện cho con. Do kiến
thức và hạn chế năng lực của những bậc phụ huynh nên hiệu quả của việc
giáo dục đạo đức, nhân cách của gia đình cho trẻ vị thành niên là chưa cao.
Thực tế này đặt ra cho sự nghiệp giáo dục trong đó có giáo dục đạo
đức những thuận lợi và thách thức không nhỏ, nhiều vấn đề về mặt lí luận và
thực tiễn đã và đang đặt ra trong việc giáo dục đạo đức đặc biệt là trẻ vị thành
niên ở Việt Nam hiện nay. Đã đến lúc chúng ta nên có sự nhận thức đầy đủ
hơn, khách quan hơn về vai trò của giáo dục đạo đức của gia đình đối với trẻ
vị thành niên, cần phải có chiến lược và kế hoạch đầu tư thỏa đáng cho giáo
7
dục đạo đức trẻ vị thành niên và coi gia đình thực sự xứng đáng là trường học
đầu tiên cho việc hình thành đạo đức nhân cách của trẻ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cùng với sự hình thành gia đình trong quá trình phát triển của nhân loại,
giáo dục gia đình xuất hiện cùng với sự xuất hiện của gia đình. Điều đó có
nghĩa là ngay từ khi xã hội loài người hình thành, giáo dục của gia đình cũng
đã xuất hiện. Càng ngày giáo dục đạo đức của gia đình đối với trẻ vị thành
niên càng được quan tâm. Chính vì tầm quan trọng của giáo dục đạo đức
trong gia đình, như vậy nên những công trình nghiên cứu lĩnh vực này ngày
càng nhiều và được nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau.
Trước hết phải kể đến: "" của Pê-tréc-nhi-
cô-va, do Nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 1977; "
" của Am-bac-đi-an do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm
1977; " " của Xu-khôm-lin-xki, do
Nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 1977; "
" của A.Ma-ca-ren-cô, do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1978.
Với tâm huyết và năng lực vốn có, cùng với kinh nghiệm của một nhà giáo
dục Xô Viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục
trẻ vị thành niên phải được bắt đầu ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng, điều đó
không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, rằng tất cả các bậc cha mẹ đều
có thể làm được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh
phúc. Nếu tuổi trẻ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu, thì công việc
cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ của gia đình, mà xã hội phải
quan tâm. Kinh nghiệm giáo dục đạo đức trong gia đình của A.Ma-ca-ren-cô,
còn vẹn nguyên ý nghĩa trong giáo dục trẻ vị thành niên ở gia đình Việt Nam
hiện nay. Tiếp theo A.Ma-ca-ren-cô, phải kể đến I.A-Pê-sec-ni-cô-va với tác
phẩm " " do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1980.
8
Theo tác giả, muốn cho con cái của chúng ta lớn lên được mạnh khỏe, vui
tươi, yêu đời và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được
giáo dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã
hội ), bởi phẩm chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trước hết là trong quá trình
lao động. Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có nhiều công trình, bài viết
của nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học được công bố, đề cập khá sâu sắc đến
công tác giáo dục của gia đình đối với trẻ vị thành niên với nhiều góc độ, cấp
độ khác nhau. Các công trình đó có thể được phân chia tha
̀
nh ca
́
c nhóm sau:
Nhóm thứ nhất,
, có các công trình tiêu biểu:
- Nghiêm Sĩ Liêm, “
, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, số 2 năm 2000.
- Đỗ Thị Bình (chủ biên), “
” Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, năm 2002. Trong như
̃
ng công trình trên , các tác giả chủ yếu tập trung
nghiên cứu về vai trò của từng thành viên, ưu điểm nổi trội của họ đối với
việc giáo dục trẻ vị thành niên, chứ chưa đi sâu nghiên cứu vai trò của gia
đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ vị thành niên.
Nhóm thứ hai,
, có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau:
- Đức Minh (chủ biên), "" của
Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm 1979. Cuốn sách này
đã giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai
trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội
dung và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với trẻ vị thành niên; "
" của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản năm 1991. Tập
thể tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia
9
đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái nên người,
trên những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động,
mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hướng tới. Công trình
của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, xuất
bản năm 1994. Cuốn sách nghiên cứu về gia đình Việt Nam và việc thực hiện
các chức năng của gia đình, một số vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu gia đình
Việt Nam. Những vấn đề lý luận, phương pháp luận; quá trình biến đổi của
gia đình Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại; việc thực hiện các chức
năng của gia đình Việt Nam hiện nay, những vấn đề kiến nghị về chính sách
đối với gia đình và người phụ nữ, vai trò của giáo dục gia đình trong sự hình
thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam. Tác giả tập trung đi sâu
phân tích một chức năng cụ thể của gia đình; chức năng giáo dục (xã hội hoá)
trong đó chủ yếu nêu lên vai trò của gia đình, các thành viên trong gia đình
với việc giáo dục trẻ vị thành niên; những nội dung, phương pháp giáo dục
trong gia đình hiện nay; sự ảnh hưởng của các tôn giáo, thời đại và các môi
trường giáo dục khác đến giáo dục gia đình.
Trong các công trình nghiên cứu, còn có "
" của Tiến sĩ Lê Ngọc Văn, Nhà xuất bản Giáo dục, 1996;
“ của Viện khoa học
xã hội Việt Nam do giáo sư Nguyễn Duy Quý và giáo sư Hoàng Chí Bảo chủ
biên; “ ” do tiến sĩ Nguyễn Thị
Thọ giảng viên Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
chủ biên. Đặc biệt, có đề tài cấp Nhà nước KX-07-09: "
", của Trung
tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, giáo sư Lê Thi làm chủ biên, do Nhà
xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1997. Tập thể các tác giả cho rằng, những
thành tựu to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ trong những năm cuối
10
thế kỷ XX đang đưa lại những khả năng sáng tạo, trí thông minh tuyệt vời cho
con người và hứa hẹn đem lại những tiến bộ vượt bậc cho cuộc sống của cá
nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Bên cạnh những tiến bộ
vượt bậc do con người tạo ra, thì hàng loạt những sai lầm, thiếu hụt, những
hành động dã man, điên cuồng, những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm đang tồn tại
trên khắp thế giới cũng lại do con người gây ra. Hậu quả đó đang làm cho
hàng triệu gia đình tan tác, chia ly, cùng khổ. Tác giả khẳng định, bàn về sự
phát triển ổn định của xã hội, không thể tách rời sự phát triển của con người
và vai trò của gia đình trong việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây
dựng nhân cách con người.
Ngoài các công trình trên cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu
các vấn đề Gia đình, Phụ nữ; Gia đình - Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s
của Phan Thanh Hùng, “
” Hà Nội, 1996; Luận văn Th.s Phạm Thị Xuân, “
” Hà Nội, 2004; Luận
văn Th.s Nguyễn Thành Công, “
” Hà Nội, 2007; Luận án T.s
của Đặng Thị Linh, “-
” Hà Nội, 1997; Luận án T.s của Nghiêm Sỹ Liêm “
” Hà Nội, 2001.
Trong các công trình nghiên cứu trên đây thì các tác giả đã tập trung
phân tích làm nổi bật vai trò của giáo dục gia đình, những ưu điểm, thế mạnh
của mỗi người đối với việc hình thành đạo đức. Tuy nhiên, các tác giả đã tập
trung nghiên cứu gia đình chủ yếu dưới các góc độ có tính chuyên biệt như
tâm lí học, giáo dục học, xã hội học. Từ góc độ nghiên cứu các tác giả đã
phân tích về quy mô, kết cấu, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Việt Nam truyền thống sang gia đình Việt Nam hiện đại, vị trí vai trò của gia
11
đình thể hiện trong các chức năng (tái sản xuất ra con người, kinh tế và tổ
chức đời sống gia đình, chức năng giáo dục). Các tác giả đã bàn về việc
không thể tách rời sự phát triển của con người trong gia đình với việc bồi
dưỡng đạo đức, nhân cách, vì đây là phẩm chất quan trọng nhất của mỗi cá
nhân. Từ thực tiễn Việt Nam các tác giả đã tập trung trả lời những vấn đề hết
sức cơ bản như gia đình Việt Nam truyền thống đang biến đổi như thế nào
trong điều kiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, mở cửa giao lưu và hội nhập
với thế giới ? Vị trí, vai trò gia đình Việt Nam ra sao trong sự đổi mới và phát
triển của đất nước hiện nay, đặc biệt trong việc đào tạo, bồi dưỡng trẻ vị thành
niên xây dựng đạo đức con người mới. Có thể nói chưa có nhiều công trình
nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ đạo đức học về vai trò giáo dục đạo đức
của gia đình đối với trẻ vị thành niên, môi trường quan trọng nhất trong việc
hình thành và phát triển đạo đức trẻ vị thành niên .
Nhìn chung, công tác nghiên cứu về gia đình và giáo dục gia đình ở
nước ta đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng mừng. Song,
trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, trước cuộc sống đầy biến động của thế giới và
trong nước, sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, nhận thức đúng sai về
vai trò giáo dục của gia đình chưa được làm sáng tỏ v.v. Chúng ta phải có
thêm những đề tài nghiên cứu về gia đình và giáo dục đạo đức của gia đình
một cách chuyên sâu hơn nữa. Chính các tác giả của những công trình trên
thừa nhận bên cạnh những kết quả đã đạt được về mặt lí luận cũng như thực
tiễn nhưng vẫn cần những công trình nghiên cứu khoa học về giáo dục của gia
đình, cần có sự đầu tư hơn nữa.
Với mong muốn đóng góp một số ý kiến về vai trò giáo dục của gia
đình đối với giáo dục đạo đức trẻ vị thành niên Việt Nam hiện nay, tác giả
12
chọn “Vai trò giáo dục của gia đình đối với sự hình thành đạo đức của trẻ
vị thành niên hiện nay” làm đề tài Luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích:
Làm rõ vai trò và thực trạng vai trò giáo dục đạo đức của gia đình
đối với trẻ vị thành niên ở Việt Nam những năm đổi mới, trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trong bối
cảnh hiện nay .
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ một số khái niệm như “”, “Trẻ vị thành niên ”,
“”, “, “ nh” và vai trò
giáo dục đạo đức của gia đình trong việc hình thành đạo đức trẻ vị thành niên
+ Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra về vai trò giáo dục đạo
đức của gia đình đối với trẻ vị thành niên ở Việt Nam một số năm qua.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò giáo dục đạo đức
của gia đình đối với đạo đức trẻ vị thành niên ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò giáo dục đạo đức của gia đình
đối với trẻ vị thành niên Việt Nam ( dưới 18 tuổi). Đây là lứa tuổi chủ yếu
vẫn đang chịu sự nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục của gia đình.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vai trò giáo
dục đạo đức của gia đình Việt Nam đối với trẻ vị thành niên trong thời kỳ đổi
mới tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về gia đình và giáo dục đạo đức của gia đình.
13
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lôgic và
lịch sử, so sánh và chứng minh kết hợp với các phương pháp của các khoa
học chuyên ngành như Tâm lý học, Xã hội học, có sử dụng các số liệu điều tra
xã hội học của những công trình khác.
6. Đóng góp của luận văn
Trên quan niệm mác – xít, Luận văn làm rõ vai trò giáo dục của gia
đình trong việc hình thành đạo đức trẻ vị thành niên. Đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao vai trò của giáo dục gia đình với việc hình thành đạo đức trẻ
vị thành niên hiện nay ở nước ta.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Lý luận: Làm rõ hơn vai trò giáo dục của gia đình trong hình thành
đạo đức trẻ vị thành niên .
- Có thể sử dụng trong hoạt động giáo dục của gia đình hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương 4 tiết.
14
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ GIÁO
DỤC CỦA GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO ĐỨC
CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
1.1. Trẻ vị thành niên và giáo dục của gia đình đối với trẻ vị thành niên
1.1.1. Trẻ vị thành niên và những đặc điểm hình thành đạo đức trẻ
vị thành niên
- :
Sinh ra và lớn lên cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ trên mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế xã hội, trẻ vị thành niên ở nước ta vừa là những
người chứng kiến đồng thời lại là những người được hưởng thụ những thành
quả bước đầu của công cuộc đổi mới. Chính sự nghiệp đổi mới đã tạo dựng
cho họ một môi trường xã hội thuận lợi để lớn lên, trưởng thành và phát triển
nhanh chóng.
Tuy nhiên, sự biến đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường cũng đã làm nảy sinh rất nhiều điều mới mẻ, đặt trẻ vị thành
niên vào những điều kiện và hoàn cảnh phức tạp, tác động tới nhiều mặt nhận
thức, tâm tư tình cảm cũng như hành vi của họ.
Trẻ vị thành niên là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa,
nhiều cách khác nhau và dễ gây tranh luận nhiều cả về nội hàm cũng như
ngôn từ của nó trong tư duy của nhiều ngành khoa học. Tùy thuộc vào vị trí
tiếp cận, góc nhìn cũng như chức năng, nhiệm vụ của mỗi chuyên ngành mà
trẻ vị thành niên lại được giải thích theo một cách thức riêng.
Những nhà lập pháp và quản lý xã hội thường nhấn mạnh những
giới hạn về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý đối với trẻ vị thành niên, thông
15
qua đó mà có những phương thức đặc thù và hợp lý để quản lý nhóm đối
tượng này, phân biệt nó với những nhóm đối tượng khác. Với tính chất như
vậy thì trẻ vị thành niên có thể bao hàm tất cả những nhóm nhân khẩu xã hội
có tuổi đời ở dưới 18 tuổi, nhóm tuổi về cơ bản chưa phải chịu tất cả trách
nhiệm về mặt pháp luật đối với hành vi của mình.
Tuy nhiên, trên thực tế thì việc phân nhóm cho các đối tượng dưới
18 tuổi chỉ có một ý nghĩa tương đối vì chúng ta không thể tìm một sự đồng
nhất hoàn toàn giữa các lớp tuổi khác nhau trong nhóm được coi là trẻ vị
thành niên. Nhóm nhân khẩu dưới 18 tuổi này lại có thể phân chia làm thành
nhiều nhóm tuổi khác xuất phát từ những đặc điểm về sự phát triển thể chất,
nhận thức cũng như tâm sinh lý riêng của mỗi nhóm. Chẳng hạn, xưa nay
các nhà giáo dục thường nói đến những nhóm như trẻ sơ sinh, nhóm nhà trẻ,
mẫu giáo, nhóm nhi đồng, nhóm thiếu niên, nhóm vị thành niên
Mặt khác, cũng khó có thể chỉ lấy các tiêu chí về tuổi đời để phân
biệt trẻ vị thành niên với những nhóm xã hội khác. Mỗi đứa trẻ lại lớn lên
trong những môi trường sống, được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong
những điều kiện vật chất và tinh thần khác nhau. Chúng có những nhận thức,
tâm lý, tâm trạng không giống nhau.
Tại Điều 1, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “
”. Trong khi
đó công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em (1989) được Việt Nam phê
chuẩn năm 1990 lại xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi sớm hơn. Theo Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta (15/6/2004) xác định trẻ em là “
”. Như vậy, nếu theo công ước của Liên hợp quốc,
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì nhóm tuổi theo quan niệm mà
16
chúng ta vẫn thường hiểu xưa nay hoàn toàn có thể được xếp vào nhóm trẻ
em.
Tại Điều 20, Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (có hiệu lực 1/7/1996) cũng quy định rằng :" Người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa thành niên"; Điều 22 quy định năng lực hành vi dân sự của người
chưa thành niên là từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi và đồng thời cũng lại quy
định trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ
để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.
Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 tại chương X, Điều 68 quy
định "
, Theo quy định của chương này ", tiếp đó tại khoản 5, Điều
69 lại có sự
Trong khi đó trên khía cạnh những vấn đề về lao động và việc làm,
Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (23/6/1994)
lại quy định như sau: người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng
lao động có giao kết hợp đồng lao động. Trẻ em là người dưới 15 tuổi (Điều
120) Như vậy, ở đây quan niệm về độ tuổi của trẻ em đã khác với luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy, thuật ngữ trẻ em, nếu chỉ xét
theo tiêu chuẩn về độ tuổi ở các văn bản pháp luật khác nhau, trên thực tế
cũng đã phức tạp và thiếu thống nhất như thế nào rồi. Ở Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, độ tuổi tối đa của một người được gọi là trẻ em là
dưới 16 tuổi; ở Bộ Luật Lao động là dưới 15 tuổi; ở Bộ Luật Hình sự là dưới
16 tuổi; ở Công ước về Quyền trẻ em độ tuổi đó là dưới 18 tuổi. Ở độ tuổi có
17
thể được kết nạp vào Đoàn thanh niên, tức là đã đủ tiêu chuẩn trưởng thành
của một thanh niên, theo điều lệ Đoàn là 15 tuổi.
Chính việc quy định có tính khác biệt về độ tuổi giữa các văn bản
pháp luật, cũng có thể làm chúng ta rất lúng túng khi không biết dựa trên
những tiêu chí nào để nhận rõ về khái niệm trẻ vị thành niên và xử lý thế nào
những vấn đề rất cụ thể từ thực tiễn.
Trong các công trình nghiên cứu của nhiều nước, nhóm trẻ vị thành
niên cũng được phân định ở các lứa tuổi thật khác nhau. Gần đây, tổ chức y tế
thế giới đã đưa ra một tiêu chí cơ bản để chỉ trẻ vị thành niên . Đó là "nhóm
nhân khẩu xã hội có độ tuổi từ 10 đến 18 tuổi ". Trong nhóm nói trên, người
ta lại phân nhỏ thành ba nhóm khác nữa: nhóm trẻ nhỏ từ 10-13 tuổi, nhóm trẻ
trung bình từ 14-16 tuổi, nhóm trẻ lớn từ 17-18 tuổi. Theo chúng tôi cách
phân chia như trên là tương đối hợp lý, đồng thời cũng khá phù hợp với
những đặc điểm chung của trẻ vị thành niên ở nước ta.
Tuy có rất nhiều điều cần phải được tranh luận trong những công
trình nghiên cứu về trẻ vị thành niên, nhưng trên thực tế, không thể phủ nhận
một điều là “
“
mới biểu lộ đầy đủ nhất. Theo tôi, trẻ vị thành
niên là những ngƣời ở độ tuổi từ 10 đến dƣới 18 tuổi (dưới 10 tuổi gọi là
trẻ em) vì đây là lứa tuổi chủ yếu vẫn còn phụ thuộc vào gia đình và có nhiều
sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất, về tâm lý, tình cảm, nhận thức, hành vi
trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời đây cũng là nhóm tuổi mà người ta
dễ dàng hành động mà không cần có sự cân nhắc, tính toán và cũng rất dễ bị
lôi kéo vào những hành vi xấu mà không nhận biết được.
18
- n :
Thực tế cho thấy, lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người
được hình thành từ tuổi ấu thơ và định hình rõ nét từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ hàm
chứa trong nó rất nhiều những yếu tố vừa ghi nhận, vừa loại bỏ, vừa định
dạng, vừa biến động trong nhận thức, tâm lý tình cảm, suy nghĩ của con người
trong giai đoạn này rồi trở thành khuôn mẫu nhân cách của chính con người
đó trong cuộc đời sau này. Đặc điểm cơ bản của trẻ vị thành niên có thể được
xác định bởi những biến đổi thường xuyên, liên tục của ba mặt cơ bản, mặt
thể chất, mặt tâm lý, tình cảm nhận thức và sau đó là mặt hành vi, cụ thể là:
, tuổi trẻ là nhóm tuổi có sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể
chất trong cuộc đời của mỗi người. Trên bình diện y học, nó là giai đoạn
chuyển biến từ một đứa trẻ non nớt thành một người lớn khỏe mạnh. Sự
trưởng thành nhanh chóng gần như đột biến ấy không chỉ gây ngạc nhiên cho
những người xung quanh mà cho cả chính những đứa trẻ ở vào lứa tuổi
này. là câu tục ngữ hoàn toàn đúng mà người xưa đã
dùng để nói về trẻ vị thành niên .
tuổi trẻ cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về tâm
lý, tình cảm, nhận thức mà trong nhiều trường hợp, chính sự thay đổi ấy còn
có thể gây “” cho bản thân lứa tuổi này. Các nhà tâm lý học đã viết và nói
nhiều về sự đa dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm lý trầm tư, u uất, sự khép
mình vào thế giới nội tâm của nhiều bạn gái trẻ, hoặc thái độ ngang bướng
thậm chí phá phách, muốn khẳng định mình ở các bạn trai khi ở vào tuổi này.
Do vậy, có thể nói rằng tuổi trẻ cũng là giai đoạn có nhiều những biến động
nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân cách của mỗi
người. Để rồi sau khi vượt qua lứa tuổi này, con người có thể bước vào đời
như những công dân tương lai với tất cả những gì tạo dựng được từ trước đó,
19
những tốt và xấu, trắng và đen, những đúng đắn và sai lệch đan xen nhau, đấu
tranh với nhau trong suốt quãng đường còn lại của đời người.
từ sự thay đổi về thể chất và nhận thức, trẻ vị thành niên
cũng là nhóm nhân khẩu xã hội có những biến đổi mạnh mẽ nhất trong hành
vi. Nó khiến cho bao giờ cũng vậy rất nhiều hành vi của nhóm tuổi này luôn
là khó hiểu và khó lường trước được đối với những thế hệ khác. Ở tuổi trẻ
người ta dễ dàng hành động mà không cần cân nhắc, tính toán chín chắn. Tuổi
trẻ có thể là những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm
những điều tốt đẹp, nhưng cũng có thể ngay sau đó lại bị lôi kéo vào những
hành vi xấu mà không nhận biết được. Người ta cũng rất dễ bị lây nhiễm
những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, đánh nhau khi ở vào tuổi
này để rồi đến khi trưởng thành đã không dễ dàng từ bỏ những tệ nạn. Và đây
cũng là lứa tuổi có nhiều biểu hiện bồng bột, nhất thời, buồn vui vô cớ, tính
khí nắng mưa thất thường, cư xử nông nổi, hay làm phức tạp hóa mọi vấn
đề… Đồng thời, lứa tuổi này có khả năng gặp nhiều “”, vì các em chưa
đủ kiến thức và kinh nghiệm sống để tự giải quyết được những vấn đề của
mình, nhưng lại luôn muốn khẳng định bản thân như một người từng trải và
bản lĩnh. Do đó, nếu không có sự giáo dục đúng mực, kịp thời từ phía gia
đình, nhà trường và xã hội thì các em sẽ rất dễ có những hành động sai lầm,
dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc và lâu dài.
Ở nước ta, thực tế những năm thực hiện công cuộc đổi mới cho
thấy, sự nâng cao bước đầu về đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là về mức
sống đã khiến cho trẻ vị thành niên Việt Nam có những sự phát triển mạnh về
thể chất. Nhìn chung sức khoẻ, chiều cao, cân nặng của trẻ vị thành niên
những năm gần đây đã tăng lên so với những thế hệ trước đó. Bên cạnh sự
phát triển về thể chất, việc mở rộng các điều kiện học tập sinh hoạt, vui chơi
giải trí, giao lưu văn hoá cũng khiến cho trẻ vị thành niên hiện nay đã có
20
được những sự phát triển mạnh mẽ về nhận thức, tình cảm, suy nghĩ và sức
sáng tạo. Trẻ vị thành niên nước ta ngày càng chứng minh được rằng họ chính
là niềm hy vọng của gia đình và xã hội.
1.1.2. Giáo dục của gia đình đối với sự hình thành đạo đức của trẻ
vị thành niên
- Khái niệm gia đình và chức năng của gia đình
+
Có thể nói, gia đình là một tế bào xã hội, một thiết chế xã hội cổ xưa
nhất nhưng lại bền vững nhất. Cổ xưa nhất theo nghĩa là, có con người là có
gia đình, con người sinh ra từ gia đình, lớn lên và trưởng thành từ gia đình.
Mặc dù cho đến nay, nguồn gốc của của gia đình vẫn chưa thực sự được làm
sáng tỏ, nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, gia đình bắt nguồn từ quan hệ
nam nữ, từ việc sinh con đẻ cái rất tự nhiên và từ nhu cầu nuôi dưỡng, giáo
dục con cái. Quan điểm này được thể hiện trong công trình tập thể "
" do nhà xuất bản khoa học xã hội
xuất bản năm 1991.
Gia đình dù bắt nguồn từ những nhu cầu rất tự nhiên, nhưng gia
đình vẫn là một thiết chế xã hội, một hiện tượng xã hội, bởi vậy, hình thức và
chức năng của nó xét đến cùng, bị quy định bởi tính chất của quan hệ sản
xuất, của quan hệ xã hội nói chung và của trình độ phát triển văn hóa – xã hội
nói riêng. Trong tác phẩm "
", Ph.Ăngghen đã phân tích mối liên hệ giữa ba hình thức hôn nhân
chính, và do đó là ba loại hình gia đình chính tương ứng với trình độ phát
triển của xã hội loài người thông qua ba giai đoạn phát triển chính: thời đại
mông muội, thời đại dã man và thời đại văn minh. Theo đó, ứng với thời đại
mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man có chế độ hôn nhân cặp
đôi; ở thời đại văn minh có chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Trong những
21
điều kiện lịch sử cụ thể, gia đình hạt nhân có thể thu hẹp lại; chẳng hạn, có
những gia đình chỉ có vợ chồng, không con cái; nhưng thường thì gia đình
được mở rộng ra không chỉ bao gồm: vợ chồng, con cái mà còn có cả ông bà,
cháu chắt nữa. Đặc biệt là trong các xã hội phương Đông truyền thống, dưới
ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo, có những gia đình gồm bốn, năm thế hệ
cùng chung sống.
Do sự biến động và tính phức tạp của cơ cấu gia đình, vì vậy mà gia
đình được hiểu theo nhiều cách thức khác nhau:
Trong công trình «
», Giáo sư Lê Thi cho rằng: «
h
ng r
» [57, tr. 90-91].
Trong cách hiểu này, gia đình đã được mở rộng và bao gồm cả những quan hệ
phi huyết thống; đồng thời một vài đặc trưng của gia đình cũng được nêu ra.
Cũng bắt đầu từ hai quan hệ cơ bản, hôn nhân và huyết thống,
nhưng chú ý đến chức năng của gia đình, trong công trình Văn hóa gia đình
Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng G
n