Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Tìm hiểu thiết bị, thu thập, nghiên cứu và phân tích các số liệu kiểm định Hệ thống phanh của một số loại ôtô lưu hành phổ biến tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.25 MB, 92 trang )

ĐẬT VẤN ĐỀ
Sản xuất ôtô ngày nay trên thế giới tăng vượt bậc, ôtô trở thành phương
tiện vận chuyển quan trọng về hành khách và hàng hoá cho các ngành kinh tế
quốc dân, đồng thời đã trở thành phương tiện giao thông tư nhân ở các nước
có nền kinh tế phát triển. Ngay ở nước ta, số ôtô tư nhân cũng đang phát triển
cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, mật độ xe trên đường ngày càng cao.
Mĩ và Nhật Bản là hai nước sản xuất ôtô nhiều nhất trên thế giới, hàng năm
mỗi nước sản xuất khoảng 12 đến 13 triệu chiếc (năm 1992 Nhật Bản sản xuất
12,5 triệu chiếc).Sản xuất ôtô du lịch trên thế giới chiếm tỉ lệ 78
÷
80%, ôtô tải
chiếm 18
÷
20%, còn lại là các loại ôtô khác. Ở Việt Nam, từ năm 1990 đến
nay, nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc. Điều đó đồng nghĩa
với việc nhu cầu lưu thông hàng hoá trên thị trường, nhu cầu đi lại và du lịch
của người dân ngày càng cao. Ở các thành phố lớn, mật độ ôtô trên đường đã
tăng lên nhanh chóng. Trong tương lai, cùng với sự phát triển nhanh chóng
của nền kinh tế như hiện nay, ôtô sẽ trở thành phương tiện đi lại phổ biến và
thông dụng trong xã hội.
Hiện nay chất lượng đường xá đã đuợc nâng cấp và ngày càng được cải
thiện tốt hơn, tạo điều kiện để tăng tốc độ trung bình của các phương tiện giao
thông, trong đó có ôtô. Hơn thế nữa, mật độ ô tô tham gia giao thông tăng lên
một cách nhanh chóng. Đó là hai yếu tố quan trọng gây nên vấn đề tai nan
giao thông đang làm cả xã hội quan tâm. Ở nước ta, trong hai năm 1998-2000
bình quân mỗi năm có 20.000 vụ tai nạn giao thông làm chết 7.100 người.
Năm 2001 có 10.866 người chết vì tai nạn giao thông. Năm 2002 xảy ra
27.484 vụ tai nạn giao thông làm 12.989 người chết và 30.772 người bị
thương.
Tai nạn giao thông không những gây thiệt hại lớn về người mà còn gây
thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước và của công dân. Vì vậy, ngày 29-05-


1
1995 Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành
Nghị định 36 CP về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn
giao thông đô thị.
Theo thống kê của các nước thì trong tai nạn giao thông đường bộ 60
÷
70% do con người gây ra (như lái xe say rượu, mệt mỏi, buồn ngủ v.v…), 10
÷
15% do hư hỏng máy móc, trục trặc về kĩ thuật và 20
÷
30% do đường sá
quá xấu.
Trong nguyên nhân do hư hỏng máy móc, trục trặc về kĩ thuật thì tỉ lệ
tai nạn do các cụm của ô tô gây nên được thống kê như sau:
Phanh chân: 52,2
÷
74,4%
Phanh tay: 4,9
÷
16,1%
Lái 4,94,9
÷
19,2%19,2%
Ánh sáng: 2,3
÷
8,7%
Bánh xe: 2,5
÷
10%
Các hư hỏng khác: 2

÷
18,2%
Từ các số liệu trên thấy rằng, tai nạn giao thông do hệ thống phanh
chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các tai ban do kĩ thuật gây nên. Cũng vì thế mà hiện
nay hệ thống phanh ngày càng được cải tiến, tiêu chuẩn về thiết kế, chế tạo,
và sử dụng hệ thống phanh ngày càng nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Do hệ thống phanh có vai trò vô cùng quan trọng trong vấn đề giảm
thiểu tai nạn giao thông nên trên thế giới và Việt Nam, tất cả các ôtô muốn
được phép lưu hành đều phải được tiến hành kiểm định hệ thống phanh định
kì tại các trạm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ. Ở nước ta trước kia
việc kiểm tra hệ thống phanh trong lẩn kiểm tra xe định kì còn mang tính chất
thô thiển, tùy tiện, dựa trên sự quan sát bằng mắt, không dựa trên một tiêu
chuẩn nào và chưa dùng thiết bị đo nào cả. Từ ngày thực hiện nghị định 36
CP của Chính phủ thì Bộ Giao thông vận tải mới ra những tiêu chuẩn bước
đầu để kiểm tra phanh và đã dùng những phương tiện đo để xác định hiệu quả
2
phanh. Tuy nhiên các thiết bị kiểm tra phanh còn hạn chế ở dạng bệ thử với
tốc độ thấp, còn thiết bị kiểm tra phanh định kì trên đường vẫn chưa có, các
thiết bị để nghiên cứu về phanh ô tô lại càng hiếm nữa. Hiện nay cả nước đã
có 85 trạm đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ, hầu hết đã được trang bị
các thiết bị kiểm tra hiện trong đó có thiết bị kiểm định hệ thống phanh.
Xuất phát từ thực trạng tình hình an toàn giao thông và kiểm định xe
cơ giới tại các trạm Đăng kiểm xe cơ giới hiện nay và đặc biệt là được sự giúp
đỡ và chỉ bảo tận tình của Th.S Dương Mạnh Đức và Các cán bộ công nhân
viên trong trạm Đăng kiểm 2093- V, Hà Nội, em đã nghiên cứu xong đề tài
“Tìm hiểu thiết bị, thu thập, nghiên cứu và phân tích các số liệu kiểm định
Hệ thống phanh của một số loại ôtô lưu hành phổ biến tại Hà Nội”.
Với mục đích tìm hiểu sâu hơn về quá trình kiểm định hệ thống phanh
ô tô, để từ đó có thể đóng góp một phần sức lực của mình giải quyết vấn đề
nhức nhối của xã hội hiện nay, đó là vấn đề “An toàn giao thông”.

Do thời gian thực hiện đề tài có hạn và kiến thức của em còn nhiều hạn
chế nên đồ án của em vẫn còn nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được sự chỉ
bảo của thầy để đề tài tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Đỗ Duy An
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lược về tình hình sử dụng hệ thống phanh và kiểm định hệ thống
phanh ôtô:
Đã trình bày ở trên
1.2. Khái quát chung về hệ thống phanh
1.2.1. Chức năng, yêu cầu và phân loại hệ thống phanh
1.2.1.1. Chức năng của hệ thống phanh
Hệ thống phanh là một trong các cụm đảm bảo an toàn chuyển động cho
ôtô. Trong quá trình phanh, động năng của xe được chuyển hoá thành nhiệt năng
do ma sát giữa trống phanh (đĩa phanh) với má phanh nhờ vậy có thể giảm được
tốc độ chuyển động của xe, dừng hẳn hoặc giữ xe ở một vị trí nhất định.
Hệ thống phanh còn giúp nâng cao vận tốc trung bình của xe do đó nâng
cao được năng suất vận chuyển.
1.2.1.2. Yêu cầu của hệ thống phanh
Hệ thống phanh là một bộ phận quan trọng trên xe ôtô, đảm bảo chức năng
an toàn chủ động và thỏa mãn các yêu cầu sau:
- Có hiệu quả phanh cao nhất ở tất cả các bánh xe: quãng đường phanh
ngắn nhất, thời gian phanh nhỏ nhất, gia tốc phanh lớn nhất khi phanh
đột ngột.
- Quá trình phanh phải êm dịu trong mọi trường hợp, để đảm bảo sự ổn
định của xe ô tô khi phanh.

- Điều khiển nhẹ nhàng, lực bàn đạp nhỏ để giảm cường độ lao động của
người lái.
- Có độ tin cây cao, thích ứng nhanh với các trường hợp nguy hiểm.
4
- Đảm bảo việc phân bố mô men phanh trên các bánh xe phải theo
nguyên tắc sử dụng an toàn trọng lượng bám khi phanh xe với bất kì
cường độ nào.
- Không có hiện tượng tự xiết phanh.
- Thoát nhiệt tốt.
- Có hệ số ma sát giữa má phanh và trống phanh (đĩa phanh) cao và ổn định
trong điều kiện sử dụng.
- Giữ được tỉ lệ thuận giữa lực tác dụng lên bàn đạp phanh và lực phanh
sinh ra ở cơ cấu phanh.
- Có độ bền và tuổi thọ cao.
- Có khả năng phanh ôtô khi đứng trong thời gian dài.
Dễ lắp ráp, điều chỉnh, bảo dưỡng, sửa chữa.
1.2.1.3. Phân loại hệ thống phanh
Có nhiều cách phân loại hệ thống phanh.
a. Theo công dụng:
• Hệ thống phanh chính (phanh chân).
• Hệ thống phanh dừng (phanh tay).
• Hệ thống phanh dự phòng.
• Hệ thống phanh chậm dần (phanh bằng động cơ, thủy lực
hoặc điện từ).
b. Theo kết cấu của cơ cấu phanh:
• Hệ thống phanh với cơ cấu phanh guốc.
• Hệ thống phanh với cơ cấu phanh đĩa.
c. Theo dẫn động phanh:
• Hệ thống phanh dẫn động cơ khí.
• Hệ thống phanh dẫn động thủy lực.

• Hệ thống phanh dẫn động khí nén.
5
• Hệ thống phanh dẫn động kết hợp khí nén- thủy lực.
• Hệ thống phanh dẫn động có cường hóa.
d. Theo khả năng điều chỉnh mômen phanh ở cơ cấu phanh:
Theo khả năng điều chỉnh mômen phanh ở cơ cấu phanh chúng ta có hệ
thống phanh với bộ điều hòa lực phanh.
e. Theo khả năng chống bó cứng bánh xe khi phanh:
Theo khả năng chống bó cứng bánh xe khi phanh chúng ta có hệ thống
phanh với bộ chống hãm cứng bánh xe (hệ thống ABS).
1.2.2. Kết cấu chung của hệ thống phanh.
Hệ thống phanh trên ôtô thuộc hệ thống điều khiển của xe bao gồm các
bộ phận sau:
Hình 1.1: Sơ đồ kết cấu chung của hệ thống phanh
6
Hình 1.2: Sơ đồ bố trí hệ thống phanh trên ôtô
Hệ thống phanh chính dùng để phanh ôtô ở tất cả các chế độ chuyển động,
còn hệ thống phanh dừng để giữ ôtô ở vị trí đứng yên. Ngoài ra còn có hệ thống
phanh dự phòng được xử dụng khi hệ thống phanh chính đột ngột hư hỏng.
Nguồn năng lượng chính có vai trò tích trữ năng lượng dưới dạng thế
năng giúp cho phanh luôn ở trạng thái sẵn sàng làm việc.
Cơ cấu điều khiển là cơ cấu trực tiếp tác động điều khiển từ lái xe và
đảm bảo tính chất tùy động của hệ thống dẫn động, bộ phận truyền dẫn truyền
năng lượng từ nguồn đến cơ cấu chấp hành. Tại cơ cấu chấp hành năng lượng
được biến đổi thành dạng thích hợp để dẫn động cơ cấu phanh.
Cơ cấu phanh là bộ phận trực tiếp làm giảm tốc độ góc của bánh xe ôtô,
luôn có mô men phanh lớn, luôn luôn ổn định khi điều kiện bên ngoài và chế
độ phanh thay đổi.
Dẫn động phanh là một hệ thống các chi tiết truyền lực tác dụng từ
bàn đạp đến cơ cấu phanh làm cho cơ cấu phanh hoạt động thực hiện quá

trình phanh.
7
1.2.3. Cấu tạo chung của hệ thống phanh.
Hình 1.3. Cấu tạo chung hệ thống phanh
Nhìn vào sơ đồ cấu tạo, chúng ta thấy hệ thống phanh bao gồm hai phần chính:
– Cơ cấu phanh:
Cơ cấu phanh được bố trí ở các bánh xe nhằm tạo ra mômen hãm trên
bánh xe khi phanh ôtô.
– Dẫn động phanh:
` Dẫn động phanh dùng để truyền và khuếch đại lực điều khiển từ bàn đạp
phanh đến cơ cấu phanh. Tùy theo dạng dẫn động: cơ khí, thủy lực, khí nén hay
kết hợp thủy – khí mà trong dẫn động phanh có thể bao gồm các phần tử khác
nhau. Ví dụ dẫn động cơ khí thì dẫn động phanh bao gồm bàn đạp và các thanh,
đòn cơ khí. Nếu là đẫn động thủy lực thì dẫn động phanh bao gồm: bàn đạp, xi
lanh chính (tổng phanh), xi lanh công tác (xi lanh bánh xe) và các ống dẫn.
8
1.2.4. Cơ cấu phanh
1.2.4.1. Cơ cấu phanh guốc ( tang trống):
a) Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua trục:
-Cấu tạo:

Hình 1.4.Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua trục.
Cơ cấu phanh đối xứng qua trục (có nghĩa gồm hai guốc phanh bố trí đối
xứng qua đường trục thẳng đứng) được thể hiện trên hình 1.4. Trong đó sơ đồ
hình 1.4.a là loại sử dụng cam ép để ép guốc phanh vào trống phanh, loại này
hay sử dụng trên ôtô tải lớn; sơ đồ hình 1.4.b là loại sử dụng xi lanh thủy lực
để ép guốc phanh vào trống phanh, loại này thường sử dụng trên ôtô du lịch
và ôtô tải nhỏ.
Cấu tạo chung của cơ cấu phanh loại này là hai chốt cố định có bố trí bạc
lệch tâm để điều chỉnh khe hở giữa má phanh và trống phanh ở phía dưới, khe

hở phía trên được điều chỉnh bằng trục cam ép (hình 1.4.a) hoặc bằng cam
lệch tâm (hình 1.4.b).
Trên hai guốc phanh có tán (hoặc dán) các tấm ma sát. Các tấm này có
thể dài liên tục (hình 1.4.b) hoặc phân chia thành một số đoạn (hình 1.4.a).
9
a b
Ở hình (hình 1.4.b) trống phanh quay ngược chiều kim đồng hồ và guốc
phanh bên trái là guốc xiết, guốc bên phải là guốc nhả. Vì vậy má phanh bên
guốc xiết dài hơn bên guốc nhả với mục đích để hai má phanh có sự hao mòn
như nhau trong quá trình sử dụng do má xiết chịu áp suất lớn hơn.
Còn đối với cơ cấu phanh được mở bằng cam ép (hình 1.4.a) áp suất tác
dụng lên hai má phanh là như nhau nên độ dài của chúng bằng nhau.
- Nguyên lý làm việc:
Ma sát trong cơ cấu phanh khi phanh được tạo ra do má phanh áp vào
tang trống, có được điều đó là do đầu dưới của hai má được định vị bởi chốt
xoay còn đầu trên có thể bung ra tựa như bản lề và áp vào tang trống dưới tác
dụng của cam ép hoặc cụm pitông-xylanh của cơ cấu phanh.
- Ưu, nhược điểm:
Cấu tạo của cơ cấu phanh guốc đối xứng qua trục là khá đơn giản, việc
bảo dưỡng sửa chữa không phức tạp. Do vậy, nó mang tính kinh tế.Tuy nhiên,
do đặc trưng của cơ cấu phanh loại này là má phanh làm việc không đều cụ
thể là đầu trên của má phanh làm việc nhiều hơn nên má phanh mòn không
đều. Ngoài ra, đối với loại sử dụng cụm xylanh thuỷ lực thì do lực tác dụng
lên hai má không đều nhau nên khi chế tạo một guốc dài hơn(guốc xiết) một
guốc ngắn hơn(guốc nhả). Mặt khác, do má phanh sẽ bám không đều lên tang
trống cho nên loại này hiệu quả phanh không cao.
b. Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua tâm:
- Cấu tạo:
Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua tâm được thể hiện trên hình 1.5. Sự đối
xứng qua tâm ở đây được thể hiện trên mâm phanh cùng bố trí hai chốt guốc

phanh, hai xi lanh bánh xe, hai guốc phanh hoàn toàn giống nhau và chúng
đối xứng với nhau qua tâm.
10
Hình 1.5 Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua tâm
Mỗi guốc phanh được lắp trên một chốt cố định ở mâm phanh và cũng có
bạc lệch tâm để điều chỉnh khe hở phía dưới của má phanh với trống phanh.
Một phía của pittông luôn tì vào xi lanh bánh xe nhờ lò xo guốc phanh. Khe
hở phía trên giữa má phanh và trống phanh được điều chỉnh bằng cơ cấu tự
động điều chỉnh khe hở lắp trong pittông của xi lanh bánh xe. Cơ cấu phanh
loại đối xứng qua tâm thường có dẫn động bằng thủy lực và được bố trí ở cầu
trước của ôtô du lịch hoặc ôtô tải nhỏ.
- Nguyên lý làm việc:
Khi phanh thì các pitông sẽ đẩy guốc áp vào tang trống do vậy tạo ra ma
sát giữa má phanh và tang trống. Người ta bố trí sao cho khi xe tiến thì cả hai
guốc là guốc xiết còn khi lùi thì cả hai guốc là guốc nhả. Do vậy hiệu quả
phanh khi tiến cao hơn khi lùi.
11
1. ống nối; 2. vít xả khí; 3. xi lanh bánh xe;
4. má phanh; 5. phớt làm kín; 6. pittông;
7. lò xo guốc phanh; 8. tấm chặn; 9. chốt guốc phanh; 10. mâm phanh.
- Ưu, nhược điểm:
Cơ cấu phanh dạng này có hiệu quả phanh cao hơn do cả hai guốc phanh
đều là guốc xiết khi xe tiến.Tuy nhiên, cơ cấu phanh dạng này sẽ phức tạp
hơn dạng trên do phải bố trí thêm đường ống dẫn động thuỷ lực và cụm
xylanh cơ cấu phanh.Và nó vẫn mang khuyết điểm của cơ cấu phanh đối xứng
qua trục đó là sự mòn không đều giữa hai đầu má phanh.
c. Cơ cấu phanh guốc loại bơi:
( a) (b)
Hình 1.6.Cơ cấu phanh guốc loại bơi.
Cơ cấu phanh guốc loại bơi có nghĩa là guốc phanh không tựa trên một

chốt quay cố định mà cả hai đều tựa trên mặt tựa di trượt.
Có hai kiểu cơ cấu phanh loại bơi: loại hai mặt tựa tác dụng đơn (hình
1.6.a); loại hai mặt tựa tác dụng kép (hình 1.6.b).
– Loại hai mặt tựa tác dụng đơn:
Ở loại này một đầu của guốc phanh được tựa trên mặt tựa di trượt trên phần
vỏ xi lanh, đầu còn lại tựa vào mặt tựa di trượt của pittông. Cơ cấu phanh loại này
thường được bố trí ở các bánh xe trước của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ.
12
Ở trạng thái bình thường dưới tác dụng của 2 lò xo guốc phanh các guốc
phanh áp sát vào các mặt tựa khe hở giữa má phanh và trống phanh. Khi làm
việc, trước hết một đầu của guốc phanh được pittông đẩy ra ép sát vào trống
phanh và cuốn theo chiều quay của trống phanh làm đầu còn lại của guốc
phanh trượt trên mặt tựa để khắc phục hết khe hở giữa má phanh và trống
phanh và trở thành điểm tựa cố định. Loại này nếu trống phanh quay theo
chiều mũi tên thì 2 guốc đều là guốc xiết( ứng với chiều tiến của ôtô). Khi
trống phanh quay theo chiều ngược lại( ứng với chiều lùi của ôtô) thì 2 guốc
trở thành guốc nhả. Như vậy, hiệu quả phanh khi tiến sẽ cao hơn khi lùi. Loại
này thường được bố trí ở bánh xe trước của ôtô du lịch hoặc ôtô tải nhỏ.
– Loại hai mặt tựa tác dụng kép:
Ở loại này trong mỗi xi lanh bánh xe có hai pittông và cả hai đầu của mỗi
guốc đều tựa trên hai mặt tựa di trượt của hai pittông. Khi làm việc guốc
phanh được đẩy ra ép sát vào trống phanh ở cả 2 đầu guốc phanh nên thời
gian khắc phục khe hở giữa má phanh và trống phanh sẽ ngắn hơn nghĩa là
thời chậm tác dụng giảm. Ở loại này hiệu quả phanh khi tiến hoặc lùi là như
nhau vì trong cả hai trường hợp cả 2 guốc đều là guốc xiết. Cơ cấu phanh loại
này được sử dụng ở các bánh xe sau của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ.
– Ưu, nhược điểm:
Với kết cấu phanh loại bơi thì hai má phanh có hiệu quả tương đối giống
nhau khi tiến cũng như lùi. Mặt khác, sự khắc phục khe hở giữa má phanh với
trống phanh là nhanh chóng hơn và hơn thế nữa là má phanh tiếp xúc với tang

trống đều hơn nên mang lai hiệu quả phanh cao hơn. Tuy nhiên, kết cấu loại
này phức tạp, gây khó khăn trong việc bảo dưỡng, sửa chữa.
13
d. Cơ cấu phanh guốc loại tự cường hóa:
(a) (b)
Hình 1.7. Cơ cấu phanh guốc loại tự cuờng hoá.
Cơ cấu phanh guốc tự cường hóa có nghĩa là khi phanh bánh xe thì guốc
phanh thứ nhất sẽ tăng cường lực tác dụng lên guốc phanh thứ hai.
Có hai loại cơ cấu phanh tự cường hóa: cơ cấu phanh tự cường hóa tác
dụng đơn (hình 1.7.a); cơ cấu phanh tự cường hóa tác dụng kép (hình 1.7.b).
– Cơ cấu phanh tự cường hoá tác dụng đơn:
Cơ cấu phanh tự cường hóa tác dụng đơn có hai đầu của hai guốc phanh
được liên kết với nhau qua hai mặt tựa di trượt của một cơ cấu điều chỉnh di
động. Hai đầu còn lại của hai guốc phanh thì một được tựa vào mặt tựa di trượt
trên vỏ xi lanh bánh xe còn một thì tựa vào mặt tựa di trượt của pittông xi lanh
bánh xe. Cơ cấu điều chỉnh dùng để điều chỉnh khe hở giữa má phanh và trống
phanh của cả hai guốc phanh. Khi làm việc một đầu của guốc phanh được
pittông đẩy ra ép sát vào trống phanh và, thông qua cơ cấu điều chỉnh tác dụng
lên lên guốc phanh còn lại và khi đa khắc phục hết khe hở cả hai guốc phanh có
14
(a) (b)
cùng điểm tựa cố định là mặt tựa của vỏ xylanh. Như vậy không những cả 2
guốc phanh đều là guốc xiết mà guốc thứ 2 còn được guốc thứ nhất cường hoá
một lực thông qua cơ cấu điều chỉnh. Cơ cấu phanh loại này thường được bố trí
ở các bánh xe trước của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ đến trung bình.
– Cơ cấu phanh tự cường hóa tác dụng kép:
Cơ cấu phanh tự cường hóa tác dụng kép có hai đầu của hai guốc phanh
được tựa trên hai mặt tựa di trượt của hai pittông trong một xi lanh bánh xe.
Do vậy hiện tượng tự cường hoá và hiệu quả phanh cả 2 chiều quay của trống
phanh đều như nhau. Cơ cấu phanh loại này được sử dụng ở các bánh xe sau

của ôtô du lịch và ôtô tải nhỏ đến trung bình.
- Ưu, nhược điểm:
Hiệu quả phanh sẽ tăng lên do hiện tượng tự cường hoá đồng thời hiệu quả
phanh khi xe tiến hay lùi đều như nhau.Tuy nhiên, cơ cấu phanh như thế này có
kết cấu phức tạp dẫn đến chế tạo, bảo dưỡng và sửa chữa đều khó khăn.
1.2.4.2. Cơ cấu phanh đĩa
Cơ cấu phanh dạng đĩa có các dạng chính và kết cấu trên hình 1.8.
Hình 1.8. Kết cấu của cơ cấu phanh .đĩa.
15
a) loại giá đỡ cố định
b) loại giá đỡ di động
Cấu tạo của cơ cấu phanh đĩa bao gồm:
– Một đĩa phanh được lắp với moayơ của bánh xe và quay cùng bánh xe;
– Một giá đỡ cố định trên dầm cầu trong đó có đặt các xi lanh bánh xe;
– Hai má phanh dạng phẳng được đặt ở hai bên của đĩa phanh và được
dẫn động bởi các pittông của các xi lanh bánh xe;
Có hai loại cơ cấu phanh đĩa: loại giá đỡ cố định và loại giá đỡ di động:
a. Loại giá đỡ cố định (hình 1.9.a):
Loại này, giá đỡ được bắt cố định trên dầm cầu. Trên giá đỡ bố trí hai xi
lanh bánh xe ở hai đĩa của đĩa phanh. Trong các xi lanh có pittông, mà một
đầu của nó luôn tì vào các má phanh. Một đường dầu từ xi lanh chính được
dẫn đến cả hai xi lanh bánh xe. Khi ở trạng thái không làm việc thì má phanh
sẽ rời khỏi đĩa phanh dưới tác dụng của độ chân không trong xylanh hoặc do
phản lực từ đĩa phanh hay là do vòng cao su làm kín kéo lại.

Hình 1.9.a. Cơ cấu phanh đĩa loại giá đỡ cố định.
Khi phanh thì dưới tác dụng của áp lực dầu đẩy 2 quả pittông hai bên
mang theo 2 má phanh áp vào đĩa phanh tạo ra ma sát trong cơ cấu phanh.
16
áp suất thuỷ lực

Giá cố định
Đĩa phanh
Má phanh
Pittông
Giá bắt
b. Loại giá đỡ di động (hình 1.9.b):
Ở loại này giá đỡ không bắt cố định mà có thể di trượt ngang được trên
một số chốt bắt cố định trên dầm cầu. Trong giá đỡ di động người ta chỉ bố trí
một xi lanh bánh xe với một pittông tì vào một má phanh. Má phanh ở phía
đối diện được gá trực tiếp lên giá đỡ.
Phanh đĩa có giá xylanh di động chỉ bố trí xylanh thuỷ lực một bên. Giá
xylanh có thể di động động được trên các trục nhỏ dẫn hướng bắt trên moay
ơ. Khi phanh, dầu cao áp đẩy pittông ép một bên má phanh áp sát vào đĩa
phanh, đồng thời đẩy giá đặt xylanh trượt trên trục dẫn hướng đến ép má
phanh còn lại áp sát vào trống phanh. Khi cả hai má phanh đều ép sát vào đĩa
phanh, phanh mới được thực hiện.
Phanh đĩa có giá xylanh di động được dùng trên đa số các xe ôtô du
lịch ngày nay do chỉ bố trí một bên xylanh nên tăng diện tích được làm cho
đĩa phanh, tránh hiện tượng sôi dầu khi phanh liên tục.
Hình 1.9.b.Cơ cấu phanh đĩa loại giá đỡ di động.
17
Chuyển động
áp suất thuỷ lực
Giá di động
Pittông
Má phanh
Đĩa phanh
Giá dẫn hướng
1.2.4.3. Cơ cấu phanh dừng
Phanh dừng được dùng để dừng (đỗ xe) trên đường dốc hoặc đường

bằng. Nói chung hệ thống phanh này được sử dụng trong trường hợp ôtô đứng
yên, không di chuyển trên các loại đường khác nhau.
Về cấu tạo phanh dừng cũng có hai bộ phận chính đó là cơ cấu phanh và
dẫn động phanh.
– Cơ cấu phanh có thể bố trí kết hợp với cơ cấu phanh của các
bánh xe phía sau hoặc bố trí trên trục ra của hộp số.
– Dẫn động phanh của hệ thống phanh dừng hầu hết là dẫn động
cơ khí được bố trí và hoạt động độc lập với dẫn động phanh chính và được
điều khiển bằng tay, vì vậy còn gọi là phanh tay.
18
Hình 1.10. Sơ đồ bố trí chung của cơ cấu phanh dừng.
19
1.2.5. Dẫn động phanh
1.2.5.1. Dẫn động phanh chính bằng cơ khí
Hệ thống phanh dẫn động cơ khí có ưu điểm kết cấu đơn giản nhưng
không tạo được mômen phanh lớn do hạn chế lực điều khiển của người lái,
thường chỉ sử dụng ở cơ cấu phanh dừng (phanh tay).
1.2.5.2. Dẫn động phanh chính bằng thủy lực
Ở phanh dầu lực tác dụng từ bàn đạp lên cơ cấu phanh qua chất lỏng
(chất lỏng được coi như không đàn hồi khi ép).
Hình 1.11. Sơ đồ hệ thống dẫn động thủy lực
Cấu tạo chung của hệ thống phanh dẫn động bằng thuỷ lực bao gồm: bàn
đạp phanh, xi lanh chính (tổng phanh), các ống dẫn, các xi lanh công tác (xi
lanh bánh xe).
Dẫn động phanh dầu có ưu điểm phanh êm dịu, dễ bố trí, độ nhạy cao (do
dầu không bị nén). Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là tỉ số truyền của dẫn
động dầu không lớn nên không thể tăng lực điều khiển trên cơ cấu phanh. Vì
20
a b
vậy hệ thống phanh dẫn động thuỷ lực thường được sử dụng trên ôtô du lịch

hoặc ôtô tải nhỏ.
Trong hệ thống phanh dẫn động phanh bằng thuỷ lực tuỳ theo sơ đồ của
mạch dẫn động người ta chia ra dẫn động một dòng và dẫn động hai dòng.
- Dẫn động một dòng(hình 1.11):
Dẫn động một dòng có nghĩa là từ đầu ra của xi lanh chính chỉ có một
đường dầu duy nhất dẫn đến tất cả các xi lanh công tác của các bánh xe. Dẫn
động một dòng có kết cấu đơn giản nhưng độ an toàn không cao. Vì một lý do
nào đó, bất kỳ một đường ống dẫn dầu nào đến các xi lanh bánh xe bị rò rỉ thì
dầu trong hệ thống bị mất áp suất và tất cả các bánh xe đều bị mất phanh.
Vì vậy trong thực tế người ta hay sử dụng dẫn động thuỷ lực hai dòng.
- Dẫn động hai dòng (hình 1.12):
Dẫn động hai dòng có nghĩa là từ đầu ra của xi lanh chính có hai đường
dầu độc lập dẫn đến các bánh xe của ôtô. Để có hai đầu ra độc lập người ta có
thể sử dụng một xi lanh chính đơn kết hợp với một bộ chia dòng hoặc sử dụng
xi lanh chính kép (loại "tăng đem").
Có nhiều phương án bố trí hai dòng độc lập đến các bánh xe, ở đây giới
thiệu hai phương án tiêu biểu thường được sử dụng hơn cả, đó là sơ đồ trên
hình 1.12.a và 1.12.b.

Hình 1.12.Dẫn động hai dòng.
21
Ở sơ đồ hình 1.12.a thì một dòng được dẫn động ra hai bánh xe cầu trước
còn một dòng được dẫn động ra hai bánh xe cầu sau. Với cách bố trí này một
trong hai dòng bị rò rỉ dòng còn lại vẫn có tác dụng. Ví dụ trên hình vẽ khi
dòng dầu ra cầu trước bị rò rỉ thì dòng dẫn ra cầu sau vẫn có tác dụng và lực
phanh vẫn xuất hiện ở hai bánh sau khi phanh.
Ở sơ đồ hình 1.12.b thì một dòng được dẫn tới một bánh xe phía trước và
một bánh xe phía sau so le nhau, còn một dòng được dẫn tới hai bánh xe so le
còn lại. Trong trường hợp này khi một dòng bị rò rỉ thì dòng còn lại vẫn có
tác dụng và lực phanh vẫn sinh ra ở hai bánh xe so le trước và sau.

1.2.5.3. Dẫn động phanh chính bằng khí nén
Hình 1.13.Cấu tạo chung của dẫn động phanh khí nén.
1.Máy nén khí; 2.bầu lọc khí; 3. Bộ điều chỉnh áp suất; 4. đồng hồ áp suất;
5. bàn đạp phanh; 6.van an toàn; 7. bình chứa khí; 8. van phân phối (tổng phanh);
9.bầu phanh; 10. cam phanh; 11.lò xo cơ cấu phanh; 12. guốc phanh.
22
Dẫn động phanh bằng thuỷ lực có ưu điểm êm dịu, dễ bố trí, độ nhạy cao
nhưng lực điều khiển trên bàn đạp không thể giảm nhỏ do tỉ số truyền của dẫn
động thuỷ lực có giới hạn.
Để giảm lực điều khiển trên bàn đạp, đối với ôtô tải trung bình và lớn
người ta thường sử dụng dẫn động phanh bằng khí nén. Trong dẫn động
phanh bằng khí nén lực điều khiển trên bàn đạp chủ yếu dùng để điều khiển
van phân phối còn lực tác dụng lên cơ cấu phanh do áp suất khí nén tác dụng
lên bầu phanh thực hiện.
Dẫn động phanh khí nén có ưu điểm giảm được lực điều khiển trên bàn
đạp phanh, không phải sử dụng dầu phanh nhưng lại có nhược điểm là độ
nhạy kém (thời gian chậm tác dụng lớn) do không khí bị nén khi chịu lực.
1.2.5.4. Dẫn động phanh chính bằng thủy khí kết hợp
Dẫn động bằng thuỷ lực có ưu điểm độ nhạy cao nhưng hạn chế là lực
điều khiển trên bàn đạp còn lớn. Ngược lại đối với dẫn động bằng khí nén lại
có ưu điểm là lực điều khiển trên bàn đạp nhỏ nhưng độ nhạy kém (thời gian
chậm tác dụng lớn do khí bị nén khi chịu áp suất).
Để tận dụng ưu điểm của hai loại dẫn động trên người ta sử dụng hệ
thống dẫn động phối hợp giữa thuỷ lực và khí nén.
Loại dẫn động này thường được áp dụng trên các ôtô tải trung bình và lớn.
Sơ đồ cấu tạo chung của hệ thống bao gồm hai phần dẫn động:
– Dẫn động thủy lực: có hai xi lanh chính dẫn hai dòng dầu đến các xi
lanh bánh xe phía trước và phía sau;
– Dẫn động khí nén: bao gồm từ máy nén khí, bình chứa khí, van phân
phối khí và các xi lanh khí nén.

23
Phần máy nén khí và van phân phối hoàn toàn có cấu tạo và nguyên lý
làm việc như trong hệ thống dẫn động bằng khí nén.
Phần xi lanh xi lanh chính loại đơn và các xi lanh bánh xe có kết cấu và
nguyên lý làm việc như trong hệ thống dẫn động bằng thủy lực.
Đây là dẫn động thủy khí kết hợp hai dòng nên van phân phối khí là loại
van kép, có hai xi lanh chính và hai xi lanh khí.
Hình 1.14. Sơ đồ hệ thống dẫn động thuỷ khí kết hợp.
24
Van phanh
Xả ra ngoài
Bình khí
Bình
chứa
dầu
Máy nén khí
Xi lanh
chính
Bình
chứa
dầu
Xi lanh bánh
xe
Xi lanh
chính
Trống
phanh
Trống
phanh
Guốc

phanh
Guốc
phanh
Bánh xe trước Bánh xe sau
Đường khí
Đường
dầu
Xi lanh bánh
xe
1.3. Mục đích và nội dung nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Mục dích nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu sơ đồ cấu tạo, tính năng kĩ thuật, phương pháp kiểm tra bằng
các thiết bị kiểm định hệ thống phanh của một số loại ôtô đang lưu hành
rộng rãi tại Hà Nội.
- Tìm hiểu và tập hợp các chỉ tiêu kĩ thuật của hệ thống phanh ôtô do nhà
nước Việt Nam và một số nước khác trên thế giới qui định.
- Thu thập, tập hợp, phân tích, xử lý các số liệu kiểm tra hệ thống phanh
của các loại ôtô hiện đang lưu hành tại Hà Nội.
1.3.2. Nội dung của đề tài
- Nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu sơ đồ cấu tạo, nguyên lý làm việc, qui trình
kiểm tra hệ thống phanh của các thiết bị hiện có tại cơ sở thực tập và một
số cơ sở khác.
- Tìm hiểu tính năng kĩ thuật, phương pháp kiểm tra hệ thống phanh bằng
thiết bị kiểm định của một số nước tiên tiến.
- Thu thập, tập hợp, nghiên cứu và phân tích các số liệu kiểm tra hệ thống
phanh của các loại xe ôtô tại cơ sở thực tập để đánh giá về tình trạng hệ
thống phanh nói chung của xe ôtô.
25

×