Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.84 KB, 88 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






VŨ QUỐC ĐẠT


PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Tôn giáo học











Hà Nội – 2015



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ QUỐC ĐẠT


PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60.22.90


Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh



Hà Nội – 2015

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Thị Kim Oanh. Các số liệu, tài liệu
tham khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận văn



Vũ Quốc Đạt


1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài. 2
2. Tình hình nghiên cứu. 4
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn. 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. 7
7. Kết cấu của luận văn. 7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ TÌNH
HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY 8
1.1. Một số vấn đề về hội nhập quốc tế 8
1.2. Thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay. 20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 43
2.1. Hội nhập Phật giáo về vấn đề văn hóa, tư tưởng. 43
2.2. Hội nhập Phật giáo đối với hoạt động đời sống xã hội Việt Nam. 49

Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI PHẬT
GIÁO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 62
3.1 Những vấn đề đặt ra. 62
3.2 Giải pháp và kiến nghị. 63
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay trong quá trình hội nhập quốc tế tôn giáo đang có sự biến đổi
sâu sắc về nhiều mặt để phù hợp với thực tại chung của xã hội. Sự biến đó là
quy luật tất yếu của tôn giáo trong sự vận động, phát triển chung của mình.
Quá trình hội nhập phát triển đã đã thúc đẩy tôn giáo thâm nhập sâu rộng vào
đời sống con người, trái ngược với xu hướng thần thánh hóa, thiêng liêng hóa.
Bên cạnh đó, sự biến động của điều kiện kinh tế xã hội hiện nay cũng đã tác
động mạnh mẽ đến việc biến đổi tôn giáo, từ chỗ hướng về thế giới “bên kia”
thì hiện nay tôn giáo trực tiếp quan tâm phục vụ cho chính bản thân con người
nơi trần thế. Cũng như vậy, Phật giáo trên thế giới đang có sự chuyến mình
mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu chung của con người trong sự giao lưu, phát
triển giữa các quốc gia. Sự biến chuyển mình đó không chỉ tăng cường mối
quan hệ Phật giáo giữa các nước mà còn đóng góp vai trò to lớn trong việc
giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia trong quá trình hội nhập phát triển; đóng
góp tích cực cho cuộc đấu tranh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tự do tôn
giáo, chố ng âm mưu “diễn biến hòa bình của các thế lực xấu”.
Có mặt tại Việt Nam hơn 2.000 năm, Phật giáo cũng đã có những đóng
góp nhất định vào nền văn hoá dân tộc, đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong
từng triều đại. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam đang đứng trước một trào lưu
mới, đó là trào lưu đất nước đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập quốc tế theo
xu hướng toàn cầu hóa. Đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ với những

bước tiến vượt bậc của công cuộc hội nhập, đổi mới và xây dựng đất nước
ngày càng vững mạnh sánh vai cùng những cường quốc trên thế giới. Trong
quá trình đó Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh
vực về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và ngoại giao, bên cạnh đó không thể
không nói tới những đổi mới, phát triển của tín ngưỡng tôn giáo. Đồng hành

3
cùng dân tộc Phật giáo đã hòa nhập theo sự chuyển biến sâu rộng ấy. Bởi lẽ
theo quy luật: “Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh…”, Phật
giáo luôn luôn vận động thay đổi để phù hợp với sự phát triển chung của đất
nước. Không chỉ vậy Phật giáo cũng đã tiếp thu, phát triển công tác hoằng dương
Phật pháp của mình trong sự vận động chung của Phật giáo nói riêng và tôn giáo
nói chung trên thế giới. Để từ đó khẳng định vai trò, vị trí của mình trong đời
sống xã hội, tạo ảnh hưởng và uy tín đối với cộng đồng quốc tế.
Chính từ thực tế đó, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có sự đổi mới
trong chính sách đối với tôn giáo, dân tộc; tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt
động phát triển ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Đây là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong tiến
trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời đại ngày nay. Thông qua các
hoạt động tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta một phần nào đã khẳng định được
vị thế, vai trò của mình trong quá trình hội nhập và phát triển chung của thế
giới, thể hiện rõ quan điểm tự do tôn giáo, tín ngưỡng.
Đúng như nhà vật lý học Albert Einstein đã từng nói: “Tôn giáo của
tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn cầu, vượt lên mọi thần linh giáo điều và
thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt
trên căn bản của ý thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
phương diện trong cái nhất thể đầy ý nghĩa, chỉ có Đạo Phật mới đáp ứng đủ
điều kiện ấy”. Trong giai đoạn phát triển, hội nhập của đất nước hiện nay Phật
giáo thể hiện rõ vai trò quan trọng, ảnh hưởng của mình. Đạo Phật không chỉ
phát triển trên phương diện tôn giáo thuần túy mà những tư tưởng nhập thế

Đạo Phật trong xã hội ngày nay cũng đang là nét son tô đậm trong quá trình
phát triển ấy. Xuất phát từ hệ tư tưởng của đạo Phật về con người, về vũ trụ
trong đó con người sinh sống, đạo Phật đã đưa nội dung giáo lý siêu việt ấy đi
vào đời sống đời thường, dùng nó như là phương thuốc chữa lành vết thương

4
cho những con người đang gặp nhiều nỗi đau thương mất mát, đang có nhiều
sự sợ hãi và đau khổ…Tinh thần nhập thế ấy của đạo Phật vẫn liên tục phát
triển từng nơi từng lúc và trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong quá trình hoạt
động của Phật giáo Việt Nam.
Chính từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu lý luận quá trình hoạt động,
phát triển của Phật giáo hiện nay có vai trò quan trọng trong tiến trình phát
triển chung của xã hội. Vấn đề đó cũng đang trở thành một trong những vấn
đề thu hút được nhiều sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như
những nhà hoạt động thực tiễn trong nước cũng như thế giới. Để góp phần
đáp ứng nhu cầu thực tiễn chung của xã hội, cũng như đóng góp cống sức của
mình vào việc tìm hiểu nghiên cứu quá trình hoạt động của Phât giáo tôi đã
chọn đề tài “Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” làm đề tài
luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Như phần trên đã trình bày hiện nay vấn đề này đang là một vấn đề có
yếu tố quan trọng, được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đông đảo
các tầng lớp xã hội trong nước và ngoài nước đặc biệt là tầng lớp tăng, ni tín
đồ Phật tử nước ta. Do đó đã có rất nhiều các học giả, các hội thảo cũng như
những cuốn sách, bài viết nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
Hội thảo “Phật Giáo Trong Thời Đại Mới – Cơ Hội Và Thách Thức” do
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam tổ chức vào năm 2006. Hội thảo đã tập
hợp được 85 báo cáo, nghiên cứu khoa học xung quanh 2 mảng vấn đề chính:
mảng thứ nhất tập trung phân tích những cơ hội và thách thức của Phật giáo
thế giới trước những yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở đó, xác định vai trò đạo

đức, xã hội và tâm linh của đạo Phật trong việc góp phần giải quyết các vấn
nạn toàn cầu, như chiến tranh, khủng bố, phá hoại môi trường và các tệ nạn xã
hội khác; mảng thứ hai của hội thảo đề cập đến vai trò của Phật giáo Việt

5
Nam trong hiện tình đất nước và thời đại, trên cơ sở phân tích và đánh giá
những thành tựu và thất bại, cơ hội và thách thức mà Phật giáo Việt Nam
đang đối diện hiện nay.
Nghiên cứu về Phật giáo tiêu biểu như các công trình: “Phật học khái
lược” của Lưu Vô Tâm; “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang,;
“Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Lê Mạnh Thát; “Phật giáo với văn hóa - xã
hội Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, do PGS.TS Nguyễn
Hồng Dương, TS. Nguyễn Quốc Tuấn chủ biên; “Các vấn đề xã hội hôm nay”
của HT. K.Sri Dhammananda Thích Tâm Quang dịch… Xét ở góc đội khái
quát chung nhất, các công trình nghiên cứu trên với nội dung đề cập đến
những vấn đề lịch sử, nghiên cứu Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hiện nay
trên nhiều vấn đề.
Nghiên cứu về quá trình hội nhập quốc tế có các công trình tiêu biểu
sau: “Toàn cầu hóa - Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và
văn hóa” của Phạm Thái Việt, Nxb Khoa học xã hội năm 2006; “Thử bàn về
đụng độ văn hóa trong quan hệ quốc tế” của Guoji Zhengzhi năm 2004, tài
liệu nghiên cứu của Viện Thông tin Khoa học xã hội; Đây là những công trình
nghiên cứu một cách tổng thể về vấn đề toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc
tế trên nhiều lĩnh vực của các nước trên thế giới trong đó và Việt Nam.
Ngoài ra trên một số tạp chí, các báo nghiên cứu mà điển hình là: Tạp
Chí Triết Học, Tạp Chí Nghiên Cứu Tôn Giáo, Tạp Chí Phật Học, Tạp Chí
Công Tác Tôn Giáo, Báo Giác Ngộ… cũng đã có một số các bài viết liên đề
cập đến thực trạng của Phật giáo Việt Nam hiện nay trên nhiều các lĩnh vực,
những thách thức đặt ra cho sự phát triển của Phật giáo, quá trình hội nhập
quốc tế và các vấn đề liên quan. Phạm Thái Việt với Xung đột văn hóa, Tạp

Chí Triết Học, số 09 năm 2010; Tìm hiểu về tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam, Tạp Chí Khoa Học, ĐHQGHN, số 01/2003.

6
Nhìn chung về tình hình có thể thấy các công trình, tác phẩm đều
nghiên cứu hoặc đề cập đến thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay, nhưng
chỉ ở tầm bao quát hay đi vào những vấn đề riêng lẻ mà chưa có một công
trình nào cụ thể nghiên cứu về những vấn đề đặt ra cho Phật giáo Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế. Vì vậy tôi hy vọng với đề tài này của mình
sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề đặt ra cho Phật giáo Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị
giúp một phần cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
3.1. Mục đích nghiên cứu : Trên cơ sở lý luận Mác xít về tôn giáo, luận
văn làm rõ thực trạng Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu : Để thực hiện mục đích trên, luận văn có
nhiệm vụ:
Thứ nhất: Trình bày một số vấn đề tổng quan chung về đề tài nghiên cứu.
Thứ hai: Luận văn phân tích rõ thực trạng của Phât giáo Việt Nam hiện
nay trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Thứ ba: Luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị cho sự phát triển
của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng của Phật giáo Việt Nam từ
năm 2000 đến nay.(đây là năm khởi đầu cho một thiên niên kỷ mới của thế
giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.

5.1. Cơ sở lý luận:

7
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ
Chí Minh về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng
trong xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học,
phươn pháp phân tích tổng hợp, phân tích tài liệu, thu thập thong tin, phương
pháp Logic lịch sử và phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Trên cở sở nghiên cứu đánh giá thực
trạng của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, luận văn làm
sáng tỏ những vấn đề cấp thiết của Phật giáo Việt Nam hiện nay. Thông qua
đó tạo một cách nhìn mới, một hướng đi mới cho Phật giáo Việt Nam ngày
nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Đóng
góp ý kiến, giải pháp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam giải quyết các về các
vấn đề đặt ra trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
luận văn bao gồm 3 chương và 6 tiết.



8
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
VÀ TÌNH HÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY


1.1. Một số vấn đề về hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế
thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập
diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo
tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới
hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc
gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc
gia để phát triển. Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ
khá thân quen với hầu hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở
quán nước trên hè phố, thậm chí cả ở thôn quê, người ta đều sử dụng nó một
cách rất thông dụng. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm
này; đặc biệt, hiểu nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy người.
Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau
và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế.
Trong giới hạn của luận văn, tác giả sẽ đề cập sâu đến sự hội nhập của
văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bởi lẽ, bao hàm trong sự hội nhập về
văn hóa còn có sự hội nhập về tôn giáo. Văn hóa là một hệ thống được tạo
thành bởi nhiều thành tố khác nhau như ngôn ngữ, văn chương, kiến trúc,
phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng và tôn giáo… Mối quan hệ giữa văn
hóa và tôn giáo là mối quan hệ bộ phận không thể tách rời. Tôn giáo là một
hiện tượng của văn hóa hay là một bộ phận của văn hóa nên có mối quan hệ

9
phổ biến, cơ bản và quan trọng trong từng giai đoạn lịch sử. Văn hóa là toàn
bộ hoạt động của con người bao gồm cả hoạt động vật chất và tinh thần, nên
văn hóa bao trùm cả lĩnh vực tôn giáo.
1. 1.1 Một số khái niệm
* Khái niệm hội nhập quốc tế:

Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ
tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là
“intégration internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu
trong các lĩnh vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng
giữa thế kỷ trước ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể
chế chủ trương thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp)
nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng
Cộng đồng châu Âu.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử
dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập
ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế
kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm
chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với
hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Cho đến nay vẫn không có một
định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn
toàn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ lý luận và
thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với
khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập
quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Tôi cho rằng cách tiếp cận phù
hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn
diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội
nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động
tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá

10
trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các
luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy,
khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay
nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên
sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của

các chủ thể tham gia.
* Khái niệm văn hóa:
Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải
có một khái niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của
nó. Trên thực tế, cũng đã có rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa.
Nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí và cũng chưa có định
nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Có thể đưa ra một số
quan niệm, khái niệm và định nghĩa về văn hoá như sau:
Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982) để bắt đầu thập kỷ văn
hoá UNESCO. Đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội
hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong
xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương
thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.”
Cựu Tổng Giám đốc UNESCO GS Federico Mayor khi ông đưa ra một
định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động
mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong

11
quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu
thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình".
Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày một quan niệm về văn hoá: "Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh

ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá"
1.1.2. Những hình thức hội nhập quốc tế và xu hướng vận động của nó.
Như phần đầu đã trình bày, trong giới hạn của luận văn tác giả sẽ đi
sâu, tập trung nghiên cứu, làm rõ quá trình hội nhập văn hóa trong thời kỳ hội
nhập quốc tế.
* Hội nhập kinh tế quốc tế:
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực,
vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo
nhiều mức độ. Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội
nhập với tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản
phải trải qua các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có
thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng
đồng Kinh tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự
do và liên minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là
nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các
lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước
ưu tiên thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối
cảnh toàn cầu hóa.

12
b) Hội nhập chính trị
Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu
nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể
hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về
các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực

và đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị
quốc tế thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở
thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng
minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như
ASEAN, EU) hay một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn như Liên Hiệp
quốc).
c) Hội nhập an ninh-quốc phòng
Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá
trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh.
Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song
phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia
sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt
động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng Nhìn chung, hội nhập trong
lĩnh vực an ninh - quốc phòng là tiến trình khó khăn hơn cả, vì nó liên quan
trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm nhất- cốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là
hòa bình, độc lập và chủ quyền.
d) Hội nhập về văn hóa-xã hội
Hội nhập về văn hóa-xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với
các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các
giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân
tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã

13
hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng
một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu
(ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và
thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-
xã hội với các nước.
Giao lưu hội nhập văn hóa là một hiện tượng phổ biến của xã hội loài
người, là một quy luật vận động và phát triển của văn hóa. Thông qua quá

trình hội nhập văn hóa mà các dân tộc có điều kiện để học hỏi và tiếp nhận
những giá trị của nhau. Chính nhờ có hội nhập văn hóa mà các nước, các khu
vực chậm phát triển có cơ hội trở thành một nước phát triển trong thời gian
ngắn vì kế thừa được các giá trị của các dân tộc, các khu vực phát triển.
Ngày nay, loài người đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu
rộng trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lối sống Xu thế toàn cầu
hóa là một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, nó xuất phát từ chính
nhu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh ngày nay, các quốc gia muốn
phát triển thì không thể không tham gia vào quá trình này. Hội nhập quốc tế
ngày nay đã đem lại nhiều thời cơ, đồng thời cũng hàm chứa nhiều thách thức
cho sự phát triển của các quốc gia dân tộc. Vì thế, mỗi quốc gia dân tộc phải
chủ động tham gia vào xu thế này. Thông qua hội nhập mà họ có điều kiện để
kế thừa những yếu tố tích cực của thế giới và loại bỏ những yếu tố tiêu cực,
hạn chế của mình tạo động lực cho sự phát triển. Lịch sử đã cho thấy quốc gia
dân tộc nào biết tiếp thu những giá trị văn hóa, văn minh mới của nhân loại
thì có sự phát triển, đồng thời những quốc gia nào đi ngược lại sẽ suy vong.
Quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế trong lĩnh vực văn hóa là quy
luật tất yếu, sự đối thoại giữa các nền văn hóa nhiều khi đóng vai trò quan
trọng, thậm chí quyết định cho những cuộc đàm phán về biên giới, về lãnh
thổ, về mâu thuẫn giữa các dân tộc. Hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa

14
cần tính đến các giá trị chung, giá trị nhân loại, đồng thời cũng thừa nhận sự
khác biệt về văn hóa. Vì vậy, cần phải có cách thức để bảo vệ và phát huy nền
văn hóa bản địa và văn hóa khu vực là trách nhiệm của từng dân tộc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự gia tăng của hoạt động sản
xuất, sự mở rộng của thị trường tiêu thụ hàng hóa đã dẫn đến sự hình thành
các mối quan hệ quốc tế. Xu thế quốc tế hóa không chỉ diễn ra trong lĩnh vực
kinh tế mà nó còn diễn ra trong tất cả các lĩnh vực như chính trị, pháp luật,
văn hóa Quốc tế hóa là quá trình phức tạp và chứa đựng nhiều mâu thuẫn và

có tính chất hai mặt, đó là nó vừa có yếu tố tích cực nhưng đồng thời cũng
chứa đựng những yếu tố tiêu cực, có cả thời cơ và cũng tồn tại những thách
thức. Trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã thấy rõ hiện tượng này, trên thế
giới hiện đang có những lực lượng muốn áp đặt hệ giá trị của mình cho các
nước khác, thông qua và lợi dụng quốc tế hóa để can thiệp vào nội bộ của các
nước, buộc các nước phải lệ thuộc vào mình. Quốc tế hóa là điều kiện, là tiền
đề cho hội nhập văn hóa, chuyển giao công nghệ hiện đại, liên kết trí tuệ, phát
triển của các quốc gia dân tộc. Nhưng đồng thời, quốc tế hóa cũng có thể
đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất chủ quyền quốc gia.
Gắn với xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển của khoa học và công
nghệ là cuộc cách mạng trên lĩnh vực thông tin đại chúng, thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình hội nhập văn hóa quốc tế. Sự phát triển trên lĩnh vực thông tin đại
chúng một mặt chúng đem lại cho nhân loại một lượng thông tin khổng lồ và
đáp ứng nhu cầu thông tin của của con người một cách nhanh nhất. Nó lôi kéo
các quốc gia dân tộc và toàn nhân loại xích lại gần nhau về nhận thức, về tư
duy, về thế giới tinh thần, đạo đức của con người. Nó phổ cập nhiều giá trị
văn hóa, văn minh của nhân loại, kích thích sự sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng
các giá trị văn hóa. Mặt khác, nó cũng tạo ra những hậu quả khôn lường, đó là
xu hướng đồng nhất hóa lối sống của các quốc gia dân tộc, đặc biệt là xu thế

15
áp đặt văn hóa, áp đặt các mô hình và giá trị trong văn hóa. Đối với Việt Nam
chúng ta, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng hệ thống truyền thông và
giao lưu, hội nhập văn hóa để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” với
mục đích nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn và đang xây dựng. Chống lại xu thế nhất thể hóa lối sống, áp đặt văn
hóa là vấn đề giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc của nhiều quốc gia dân
tộc, đây là xu hướng tích cực. Bên cạnh xu hướng tích cực đó, lại xuất hiện
một xu hướng tiêu cực là khuyến khích sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan,
nhằm gây ra những xung đột chính trị, xung đột văn hóa, tôn giáo, nhằm

khuyến khích chủ nghĩa ly khai, hận thù dân tộc và khủng bố quốc tế
Những xu hướng ấy đều tác động đến văn hóa Việt Nam nói riêng và tác
động đến đời sống xã hội nói chung. Vì thế, trên lĩnh vực văn hóa cần phải có
sự định hướng cho phù hợp.
Quá trình hội nhập hóa không phải là quá trình bắt chước nước ngoài,
mà nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, cũng không
phải chỉ vì giữ gìn bản sắc của mình mà đóng cửa không chịu hội nhập. Quá
trình hội nhập văn hóa đồng thời phải tiếp thu những tinh hoa của tri thức
nhân loại để làm thêm cho mình, làm phong phú thêm giá trị văn hóa cho
mình. Do vậy, trong quá trình hội nhập văn hóa chúng ta phải đặt ra và thực
hiện những nguyên tắc nhất định nhằm bảo vệ và phát triển giá trị văn hóa
Việt Nam.
1.1.3 Những mặt tích cực và tiêu cực của hội nhập quốc tế
* Tích cực:
Hội nhập quốc tế thúc đẩy rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của lực
lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao,nhất là vào nửa đầu của thế
kỷ 20, GDP thế giới tăng hơn 2,7 lần, đến cuối thế kỷ thì đã tăng lên 5,5 lần.
Hội nhập quốc tế góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt tăng

16
mạnh các sản phẩm chế tác, chiếm khoảng 22% và các dịch vụ chiếm 63%
trong cơ cấu kinh tế thế giới. Hội nhập quốc tế tạo thêm những tiền đề rất quý
cho xã hội mới hiện đại. Xét từ góc độ này, ngay cả những khiếm khuyết của
hội nhập quốc tế tuy có hại nhưng nó đã góp phần vào việc đặt ra hoặc cảnh
báo những vấn đề lớn của tương lai và mở ra các giải pháp. Sự phát triển bền
vững kinh tế xã hội với sự tôn vinh con người là nguồn lực chính, với mối
quan tâm đặc biệt tới môi trường sinh thái cũng xuất phát từ tiến trình hội
nhập quốc tế. Mặt khác, hội nhập quốc tế truyền bá và chuyển giao trên quy
mô ngày càng lớn những thành quả, những đột phá sáng tạo về khoa học và
công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và

kinh nghiệm đến với các dân tộc, đến từng hộ gia đình, từng con người và dọn
đường cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính hội nhập quốc tế nên khả
năng phát triển rút ngắn, mang lại những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết
cho các nước đang phát triển từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức
và kinh nghiệm, cả về chiến lược lâu dài, về tổ chức và cả ở tầm vĩ mô của
một quốc gia và tầm vi mô của từng doanh nghiệp và cá thể. Hội nhập quốc tế
đã gây sức ép mãnh liệt và gay gắt về mặt cạnh tranh do dó đòi hỏi những tiến
hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của mỗi nền
kinh tế, mỗi doanh nghiệp, chỉ rõ yếu tố hàng đầu của yếu tố chất lượng, thời
gian, nâng cao giá trị gia tăng để có sức cạnh tranh và hiệu quả. Mặt khác, hội
nhập quốc tế mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới, những thị
trường mới, những đối tác mới cho từng nước như các nước đang phát triển.
Hội nhập quốc tế thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc, kích thích
các luồng và các dạng giao lưu, làm cho con người ở mọi châu lục ngày càng
hiểu biết nhau hơn, nắm bắt được mọi tình hình, cập nhật ở mọi nơi và góp
phần tác động nhanh chóng đến các sự kiện. Hội nhập quốc tế cũng góp phần
vào sự nâng cao dân trí và sự tự khẳng định mình của các dân tộc và của từng
con người.

17
* Mặt tiêu cực
Hội nhập quốc tế làm tăng thêm sự bất công xã hội, khoét sâu hố ngăn
cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Trong 1 báo cáo mới đây
của UNDP đã khẳng định các thế lực của quá trình hội nhập quốc tế đã mang
lại sự giàu có vô độ cho những người biết tận dụng lợi thế của các luồng hàng
hóa, dịch vụ đang tràn qua các đường biên giới quốc gia trong khi đa số dân
chúng bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Xét theo nhiều khía cạnh, dân chúng ở gần
100 quốc gia trên thế giới đã có mức sống thấp hơn so với nhiều năm trước
đây. Khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Các nước công nghiệp
phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm

tới 85% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp của nước
ngoài và 75% số máy điện thoại; trong khi đó các nước nghèo nhất chiếm 1/5
dân số thế giới chỉ tạo ra 1%GDP toàn thế giới. Hiện nay vẫn còn hơn 1 tỷ
người nghèo, những người giàu thì chỉ chiếm 20% dân số nhưng lại chiếm
hơn 86% chi phí dành cho tiêu dùng trong khi sản xuất thực phẩm cơ bản toàn
thế giới đã ở trên mức 110% nhu cầu thì hàng năm trên 30 triệu người vẫn
tiếp tục chết đói, hàng triệu người vẫn thiếu ăn. Ví dụ: Người giàu tiêu thụ
45% lượng thịt cá trên thế giới trong khi người nghèo chỉ tiêu thụ 5%, số
người sử dụng internet đã tăng lên hàng trăm triệu nhưng mạng thông tin toàn
cầu chỉ đa số được dùng nhiều trong các nước công nghiệp phát triển. Hội
nhập quốc tế cũng làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người
thêm kém an toàn, từ kinh tế, tài chính văn hóa xã hội cho tới môi trường đến
an toàn chính trị và an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn của
quốc gia và an toàn của hệ thống kinh tế tài chính tiền tệ thế giới. Hội nhập
quốc tế có phần thu hẹp quyền lực, phạm vi và hiệu quả tác động của các Nhà
nước dân tộc, làm rung chuyển một nền tảng tích cực quan trọng của đời sống
các quốc gia, đặt ra những vấn đề nhạy cảm và gây nên những phản ứng quyết

18
liệt. Mặt khác, về mặt xã hội, hội nhập quốc tế cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản
sắc dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ quốc gia, nó cũng tạo ra các khả năng quốc tế
hóa các hiện tượng tiêu cực như buôn bán ma túy, mại dâm, du nhập lối sống đồi
trụy, chủ nghĩa khủng bố, lây truyền các bệnh dịch HIV - AIDS
* Những nguy cơ, thách thức do hội nhập quốc tế đối với văn hóa:
Thứ nhất, nguy cơ làm lu mờ quan điểm coi trọng truyền thống, dẫn
đến tình trạng xem nhẹ tính kế thừa các giá trị văn hóa dân tộc trong bộ phận
cán bộ nhân dân. Đó là thông qua các quan hệ kinh tế, các nước tư bản tích
cực truyền bác các giá trị phương Tây, khai thác và phát triển tâm lý hưởng
lạc vật chất tầm thường, đánh vào thị hiếu thấp hèn của một bộ phận dân
chúng và cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị làm thay đổi quan niệm

của họ về giá trị văn hóa truyền thống. Các giá trị văn hóa phương Tây đang
thâm nhập ngày càng tăng, từ đó tạo ra trong lòng xã hội trào lưu “cách tân”,
xem nhẹ và quay lưng lại với các giá trị truyền thống và coi thường tính kế
thừa, tạo ra một lớp người “mới” xa lạ, mất gốc và không định hướng được
tương lai, gieo rắc và khuyến khích các loại hình văn hóa độc hại, các tệ nạn
xã hội phát triển nhằm từng bước hủy hoại sức sống văn hóa dân tộc. Theo tổ
chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) hiện nay
hãng thông tấn liên bang và hãng thông tấn AP (Mỹ) sử dụng 100 thứ tiếng để
phát tin liên tục trong ngày 24/24 giờ vào 100 quốc gia. Mạng internet, số
lượng bài viết truyền bá các giá trị Mỹ và phương Tây với gần 7 triệu chữ
được đưa lên mạng hàng ngày. Các chương trình truyền hình của các nước
đang phát triển sử dụng từ 60 -70% các nội dung chương trình của các kênh
truyền hình Mỹ và phương Tây, biến các kênh truyền hình, phát thanh của các
nước này thành trạm trung chuyển cho truyền hình Mỹ và Phương Tây.
Thứ hai, nguy cơ đồng hóa văn hóa bởi cái gọi là giá trị của “thế giới
tự do”. Bắt nguồn từ học thuyết của S. Hăn -Tinh- Tơn, một học giả người

19
Mỹ với tên gọi “Cuộc xung đột giữa các nền văn minh”. Bản chất của học
thuyết này chỉ bao biện cho các hành động của chủ nghĩa đế quốc, gieo rắc
tâm lý lo sợ về một thảm họa do xung đột văn hóa gây ra. Điều mà chúng ta
thấy ở đây đó là văn hóa phương Tây hay làn sóng văn minh phương Tây
đang phát triển, tạo ra nguy cơ đẩy văn hóa truyền thống về phía sau.
Với Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng CSVN đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế”.

Thứ ba, nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Điều này được các thế lực thù
địch tận dụng toàn cầu hóa và chính sách đối ngoại mở cửa của Việt Nam để
thực hiện âm mưu phá hoại văn hóa tư tưởng. Âm mưu “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch nhằm tạo ra tình trạng tự diễn biến về văn hóa - tư
tưởng. Thể hiện ở quá trình khuyến khích sự truyền bá phổ biến các giá trị tư
sản trong lòng xã hội Việt Nam, lấn át các giá trị ưu việt của xã hội chủ nghĩa
và các giá trị văn hóa dân tộc. Tự diễn biến văn hóa - tư tưởng đồng nghĩa với
quá trình thúc đẩy các phức tạp xã hội, làm đảo lộn trật tự nhất là các vấn đề
nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền.
Chính “diễn biến hòa bình” đang tạo ra nguy cơ thẩm thấu gặm nhấm
các giá trị văn hóa xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho
người ta quên đi nghĩa vụ, quên đi bản quán, gốc rễ cội nguồn. Bản thân “diễn
biến hòa bình” đang tìm mọi cách để tạo ra mâu thuẫn xã hội, làm hậu thuẫn
cho chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa ly khai, làm nhụt chí trong nhân dân, đánh
lạc phương hướng.

20
1.2. Thực trạng Phật giáo Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Tiếp nối truyền thống 2000 năm Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng
dân tộc, trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết, phụng đạo yêu nước, tăng, ni, phật
tử GHPGVN cùng nhân dân cả nước tiếp tục công cuộc đổi mới đất nước,
từng bước phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, giáo dục, xã
hội và ngoại giao. Tuy nhiên trong những năm qua đất nước và thế giới lâm
vào bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính và biến đổi khí hậu toàn cầu,
nhưng với sự nỗ lực và quyết tâm chung của tăng, ni, phật tử trong toàn Giáo
hội, dựa trên nguyên tắc thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo
và tổ chức, tinh thần đoàn kết hòa hợp, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm
giáo hội, với những thuận lợi khách quan và chủ quan, qua Pháp lệnh Tín
ngưỡng Tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định của Chính

phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng Tôn giáo, Ban
Thường trực HĐTS đã triển khai nhiều công tác Phật sự như tổ chức Hội
nghị, Hội thảo, Lễ hội Văn hóa Phật giáo, công tác ngoại giao mang tầm vóc
quốc gia, quốc tế và khu vực… cho đến các hoạt động chuyên ngành như
Tăng sự, giáo dục tăng ni, hướng dẫn phật tử, hoằng pháp, nghi lễ, văn hóa,
kinh tế tài chính, từ thiện xã hội, phật giáo quốc tế, nghiên cứu Phật học đều
được thực hiện đồng bộ. Có thể nói rằng, hiện nay Phật giáo Việt Nam nói
riêng và Phật giáo thế giới nói chung đã và đang trên đà phát triển rất mạnh và
được xem là một tôn giáo lớn trên thế giới.
Đối với Phật Giáo Việt Nam, trải qua hàng ngàn năm trong lịch sử, tinh
thần dấn thân, phụng sự chúng sanh ngày một tích cực hơn. Từ khi giáo hội
Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1981 mở ra con đường mới cho Phật giáo Việt
Nam phát triển, đó là thống nhất các tổ chức mà trước đó vẫn còn tồn tại riêng
biệt, rồi thống nhất ý chí cho đến hành động, nhằm đem ánh sáng đạo pháp

21
vào đời sống xã hội, góp phần vào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước, tạo dựng một cuộc sống hòa bình và an lạc. Kể từ đó đến nay giáo hội
Phật giáo Việt Nam có những thành tựu Phật sự quan trọng có tính chất quyết
định cho Phật giáo Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Ngày nay, Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo thế giới nói
chung đang trên đà phát triển mạnh với những thành tựu quan trọng về mặt
giáo dục, cũng như hoằng pháp, tham gia các công tác từ thiện xã hội. Số
lượng Tăng Ni trẻ ngày một đông, tính đến nay có khoảng hơn 50.000 Tăng
Ni đang tu trong hơn 15.000 tự viện trên cả nước. Hệ thống giáo dục Tăng Ni,
Phật tử ngày một mở rộng trên quy mô lớn, nội dung và hình thức, phương
pháp dạy cũng thay đổi. Hiện nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam có 03 Học
Viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Huế và 01 Học
viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Tp. Cần Thơ. Rút kinh nghiệm trong công
tác giảng dạy, điều hành ở các khóa trước, hiện nay Học Viện Phật giáo Việt

Nam đã có nhiều cải tiến trong chương trình học và dạy. Để chương trình đào
tạo được nâng cao và phong phú hóa, phù hợp với nhu cầu phát triển giáo dục
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong hiện đại, ngoài những Giảng sư Phật
học cơ hữu, Hội đồng điều hành các Học viện cũng đã liên hệ mời thêm Giáo
sư, Tiến sĩ các trường Đại học trong nước và nước ngoài tham gia giảng dạy
tại các Học viện. Trường Cao đẳng Phật học, có 08 lớp Cao đẳng Phật học
đang hoạt động theo hệ thống trường Trung cấp Phật học gồm: Tp. Hà Nội,
Tp. Hồ Chí Minh, Huế, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bạc Liêu, Bà Rịa – Vũng
Tàu, Đồng Nai. Để chuyển đổi hệ thống lớp Cao đẳng Phật học thành trường
Cao đẳng Phật học, Ban Thường trực HĐTS/GHPGVN, Ban Giáo dục tăng,
ni đã làm thủ tục đề nghị Chính phủ cho phép đổi tên và thành lập Trường
Cao đẳng Phật học nhưng cho đến nay vẫn chưa có kết quả. Trường Trung
cấp Phật học có 31 trường , miền Bắc có 05 trường (Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dương, Nam Định, Bắc Ninh), miền Trung và Nam có 26 trường (Tp. Hồ Chí

22
Minh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Bà Rịa – Vũng Tàu,
Đồng Nai, Long An, Tiền Giàn, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu,
Sóc Trăng, An Giang, Bình Dương, Kiên Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Gia Lai).
Nhìn chung, đối với các cơ sở giáo dục tại địa phương, đều được Ban Trị sự,
Ban Giám hiệu trường đặc biệt quan tâm. Qua đó, hầu hết các trường Phật
học đều được xây dựng khang trang, đầy đủ tiện nghi. Một số trường tổ chức
cho tăng, ni ở nội trú. Về công tác giảng dạy và nội dung học tập tại các
trường có sự kết hợp hài hòa giữa nội điển và ngoại điển. Thái độ học tập của
tăng, ni sinh nghiêm túc, chuyên cần. Nề nếp sinh hoạt của nhà trường cũng
như đời sống tu học của tăng, ni sinh luôn được Ban Giám hiệu và Ban Trị sự
quan tâm giúp đỡ và nâng cao.
Về văn hóa nghệ thuật cũng phát triển mạnh, đã có nhiều nhà phát hành
kinh sách và ấn phẩm Phật giáo ra đời rất phong phú và đa dạng, trong lĩnh

vực báo chí ngày càng phát triển mạnh, góp phần trong việc truyền đạt kiến
thức cho Tăng Ni, Phật tử và cho tất cả những ai muốn tìm hiểu, nghiên cứu
giáo lý của Phật giáo, đồng thời còn truyền đạt những thông tin của Giáo hội
muốn phổ biến và đến nay đã có một chỗ đứng vững chắc trong lòng độc giả.
Bên cạnh đó, Giáo hội còn tổ chức nhiều chương trình tu học cho Phật
tử, nhiều khóa tu thu hút đến hàng ngàn người tham dự, như hiện nay Khóa tu
Phật thất tại chùa Hoằng Pháp - Hóc Môn, có đến hàng ngàn người tham dự,
với những khóa tu như vậy tạo điều kiện cho con người ngày một gần nhau
hơn, hiểu và thương nhau hơn theo tinh thần từ bi của đức Phật. Hệ thống Gia
đình Phật tử ngày một cũng cố với gần 800 đơn vị tham gia dưới sự điều hành
quản lý của Giáo hội, thu hút nhiều thanh thiếu niên tham dự. Đây là một tổ
chức đặt biệt của Phật giáo nhằm đem ánh sáng Phật Pháp vào thế hệ trẻ bây
giờ. Nhiều chương trình tu học, văn hóa, văn nghệ, vui chơi dành cho thanh
thiếu niên được mở rộng, tạo cho các em có tính năng động trong việc ứng

×