Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hành nghiên cứu cơ sở để xác định thiệt hại do sức khoẻ tính mạng bị xâm phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.83 KB, 21 trang )

A/ Đặt vấn đề.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bao gồm nhiều ngành luật, mỗi ngành luật có vai trò khác nhau trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi một chủ thể có hành vi trái pháp
luật, gây thiệt hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp
luật bảo vệ, thì chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi
do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân sự, hậu quả pháp lý đó là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt
hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập từ rất sớm trong hệ thống
pháp luật của nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến BLDS 1995 thì các quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết, và được quy
định hoàn thiện hơn trong chương “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” ở BLDS 2005.
Thiệt hại là điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại còn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
ấn định mức bồi thường cho người gây thiệt hại đối với người bị thiệt hại. Việc
xác định thiệt hại không hề đơn giản bởi các quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại nói chung, thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng là những quy định
mang tính “định tính” chứ không “định lượng” cụ thể. Ở đây, thiệt hại có thể là
thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm, thiệt hại do
tính mạng bị xâm phạm, hoặc thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm. Nhưng trong giới hạn bài viết này, chúng ta chỉ tiến hành nghiên cứu cơ
sở để xác định thiệt hại do sức khoẻ tính mạng bị xâm phạm.
B/ Giải quyết vấn đề.
I. Khái quát chung.
1
Trước khi tiến hành phân tích về cơ sở xác định thiệt hại do sức khoẻ,
tính mạng bị xâm phạm, chúng ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất là về yếu tố thiệt hại:
Thiệt hại là điều kiện quan trọng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại


nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng bởi mục
đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp, khắc phục những tổn
thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại.
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức.
Thiệt hại được xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh
thần. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể khác nhau mà việc xác định thiệt hại được
tính toán khác nhau.
Thứ hai là về cơ sở để xác định thiệt hại:
Cơ sở xác định thiệt hại là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế và cách
xác định những thiệt hại đó. Quy tắc xác định hay còn gọi là cách xác định thiệt
hại là một phạm trù chủ quan được quy định thành luật dựa trên cơ sở lý luận và
thực tiễn nhất định, còn thiệt hại là cái tồn tại khách quan. Chính vì vậy, để bảo
đảm tốt nhất quyền lợi của người bị thiệt hại thì các quy tắc xác định cần phải
tiến gần đến việc tính toán được một cách toàn bộ những thiệt hại xảy ra. Do đó,
trong quá trình xác định thiệt hại, cần phải xem xét những thiệt hại xảy ra một
cách khách quan tránh tình trạng xác định cao hơn so với thực tế thiệt hại xảy ra,
gây thiệt thòi cho người phải bồi thường hoặc ngược lại, không bảo vệ được
quyền lợi chính đáng cho người bị thiệt hại.
Thứ ba về yếu tố sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm:
Sức khoẻ và tính mạng đều là những vốn quý giá nhất của mỗi con
người. Khi cái vốn quý giá này bị xâm phạm, sẽ để lại những mất mát rất lớn đối
với chính bản thân người bị xâm phạm và những người thân của họ. Về nguyên
2
tắc, không thể trị giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá trị như trong trao
đổi và không thể phục hồi được. Nhưng vớ
Để hiểu rõ về vấn đề này, chúng ta đi vào phân tích cụ thể về cơ sở xác
định thiệt hại do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm.
II. Cơ sở xác định thiệt hại do sức khoẻ, tính mạng bị xâm phạm.
1. Cơ sở xác định thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm.

Thiệt hại về sức khoẻ là những giảm sút, tổn thất về mặt thể chất của nạn
nhân. Không có một đơn vị đo lường nào có thể được xác định làm căn cứ xác
định thiệt hại về sức khoẻ. Tuy nhiên, khi có hành vi trái pháp luật xâm hại tới
sức khoẻ, cần thiết phải tính toán những thiệt hại thực tế mà người bị thiệt hại
phải gánh chịu để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
Điều 609 BLDS có quy định về thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm như
sau:
“1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu
nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì
áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp
lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại
theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về
tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không
quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”.
3
Cụ thể như sau:
1.1 Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
• Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa : là những khoản chi phí phù hợp và cần
thiết để cứu chữa và phục hồi sức khoẻ cho nạn nhân. Các khoản chi phí đó bao
gồm: chi phí cấp cứu; phẫu thuật; xét nghiệm; tiền viện phí; tiền thuốc men trong
quá trình điều trị theo chỉ định của bác sĩ; tiền khám bệnh, chăm sóc sức khoẻ
sau khi ra viện; Chi phí cho việc đi lại, cứu chữa và khám bệnh của nạn nhân

như việc thuê xe đưa người bị hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế,…
Những khoản chi phí trên được xác định trên cơ sở hoá đơn, chứng từ
hợp lệ theo chỉ dẫn của bác sĩ hoặc yêu cầu của bệnh viện, co quan trực tiếp cứu
chữa cho nạn nhân. Trong các trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan,
việc cứu chữa cho nạn nhân cần nhanh chóng mà phải điều trị tại chỗ thì mọi chi
phí cũng phải được xác định từ người trực tiếp cứu chữa.
Bên cạnh việc xác định dựa trên cơ sở hoá đơn. chứng từ, để đảm bảo
tính hợp lý của các chi phí này, quá trình xác định còn phải dựa trên sự cần thiết
của các chi phí. Nội dung này được đưa ra nhằm tránh trường hợp người bị hại
kê khai hoặc yêu cầu vượt quá số thực tế, lợi dụng việc cứu chữa mà gây khó
khăn cho người phải bồi thường như: trường hợp gia đình của nạn nhân hoặc nạn
nhân có thu nhập kinh tế cao nên họ yêu cầu phải chữa trị cho nạn nhân với chế
độ phục vụ đặc biệt, biện pháp điều trị đặc biệt, sử dụng các loại thuốc cao cấp,
đắt tiền trong khi chỉ với một chế độ, biện pháp điều trị thông thường vẫn đảm
bảo được khả năng cứu chữa và phục hồi bình thường cho nạn nhân. Những chi
phí này được coi là không hợp lý. Do đó, việc xác định thiệt hại phải được thực
hiện một cách khách quan và hợp lý.
4
• Chi phí cho việc bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ cho nạn nhân : Khoản chi
phí này để giúp cho người bị thiệt hại nhanh chóng bình phục sức khoẻ, được gọi
là khoản tiền bồi dưỡng cho nạn nhân.
Thứ nhất, về mức bồi dưỡng: Mặc dù luật không quy định cụ thể về mức
bồi dưỡng nhưng qua thực tiễn xét xử nhiều vụ án thì việc xác định mức bồi
dưỡng thường căn cứ vào mức độ và tính chất của thương tích cũng như dựa trên
cơ sở mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân đang điều trị thương
tích. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà Toà án xác định khoản tiền bồi dưỡng
phù hợp với tính chất của thiệt hại nhằm đảm bảo được quyền và lợi ích của các
bên trong quan hệ.
Thứ hai, về thời gian hưởng khoản tiền bồi dưỡng: Trên thực tế thì
khoảng thời gian này luật cũng không có quy định cụ thể, nó được xác định phù

hợp với thời gian nạn nhân điều trị thương tích.
Ví dụ cụ thể trong trường hợp trên như sau:
Tại một bản án dân sự của Toà án nhân dân TP. Hồ Chí Minh tiến hành
xét sử vụ việc đòi bồi thường thiệt hại do hành vi gây thương tích giữa anh
Thành và anh Nam.
Ngày 14/2/2000, anh Thành và anh Nam có xảy ra xô xát, sau đó anh
Nam bị thương nhẹ, phải vào khám và điều trị tại bệnh viện thành phố. Anh Nam
phải nằm viện điều trị mất một tuần. Anh Nam yêu cầu anh Thành phải bồi
thường thiệt hại cho mình với số tiền tổng cộng 2.000.000đ trong đó gồm:
1.200.000đ tiền thuốc theo hoá đơn + 500.000đ tiền ăn, tiền bồi dưỡng thêm +
300.000đ tiền chi phí đi lại.
Tại bản án dân sự sơ thẩm, quyết định: Buộc anh Thành phải bồi thường
cho anh Nam những khoản sau:
- 40.000đ tiền viện phí.
- 30.000đ tiền lệ phí chứng thương.
5
- 70.000đ tiền bồi dưỡng cho anh Nam (anh Nam nằm viện 1 tuần -
mỗi ngày 10.000đ).
- 70.000đ tiền giám định thương tích.
- 70.000đ tiền thu nhập bị mất của anh Nam trong 1 tuần nằm viện.
- 50.000đ tiền chi phí đi lại trong quá trình khám và điều trị tại bệnh
viện.
Tổng cộng: 330.000đ.
Khoản tiền mà anh Nam yêu cầu không được Toà án chấp nhận hết vì nó
vượt quá mức cần thiết như 1.200.000đ tiền thuốc có hoá đơn nhưng lại không
theo chỉ dẫn của bác sĩ;… nên không được chấp nhận. Do đó, tổng số tiền mà
anh Thành phải bồi thường cho anh Nam chỉ là 330.000đ. Quyết định trên của
Toà án là phù hợp với mức thiệt hại trên thực tế được xác định, theo quy định
của pháp luật về chi phí hợp lý cho việc cứu chữa cũng như khoản tiền bồi
dưỡng cho người bị thiệt hại.

• Khoản chi phí hợp lý cho việc phục hồi chức năng bị mất, bị giảm sút của
người bị thiệt hại:
Trong trường hợp người bị thiệt hại do bị xâm phạm sức khoẻ mà dẫn
đến thương tật thì người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản chi phí cho việc
phục hồi, trợ giúp chức năng cho người thiệt hại như làm chân, tay giả; mua xe
lăn, xe đẩy, nạng chống; khắc phục thẩm mĩ;…
Tuy nhiên, những chi phí bồi thường này cũng chỉ được xác định ở mức
hợp lý, tức là dựa trên cơ sở giá thị trường của công cụ đó có chất lượng trung
bình, đủ để đảm bảo cho việc sử dụng khôi phục lại chức năng của nạn nhân.
Như vậy, việc xác định các thiệt hại kể trên cần phải đảm bảo được tính
khách quan, hợp lý. Mọi thiệt hại đưa ra đều phải có cơ sở thực tế, chứng từ, hoá
đơn hợp lệ thì mới được chấp nhận bồi thường.
1.2 Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại.
6
Thu nhập thực tế được hiểu là khoản thu nhập chính đáng có thể biết
chắc chắn thu được.
Đây được coi là một phần thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Bởi chính
việc gây thiệt hại cho sức khoẻ của nạn nhân đã dẫn đến hậu quả làm cho người
đó mất đi khoản thu nhập mà đáng lẽ họ được hưởng nếu không có sự kiện gây
thiệt hại. Chính vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường những
tổn thất đó.
• Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn
định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào
mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người bị xâm phạm sức khỏe
nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt
hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và
hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì
lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất

cả các tháng) trước khi sức khỏe bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác
định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập
thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu
nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định
khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc
và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 609 BLDS.
• Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại
được thực hiện như sau:
7
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời
gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng hợp số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được
trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định
theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực
tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của
người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực
tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị
thiệt hại không bị mất.
Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi
sức khỏe bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do
sức khỏe bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong
trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.
Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập
thực tế của B trước khi sức khỏe bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng
là 600 ngàn đồng. Do sức khỏe bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian
điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp
này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng.
Do sức khỏe bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn
trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C
không bị mất.
1.3 Xác định chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
Đây được coi là thiệt hại phát sinh gián tiếp từ sự kiện gây thiệt hại. Vì
vậy, cần phải xác định để tính vào thiệt hại được bồi thường nhằm bảo đảm
quyền lợi cho gia đình người bị hại.
8

×