MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................2
I.KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM..............................................3
1.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.................................3
2.Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tính mạng sức khỏe,
tính mạng bị xâm phạm.................................................................................4
II.CƠ SỞ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG BỊ
XÂM PHẠM.................................................................................................5
1.Cơ sở pháp lý..............................................................................................5
1.1.Xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại..........................................5
1.2.Xác định Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.................................10
2.Cơ sở thực tiễn..........................................................................................13
3.Nhận xét mối quan hệ giữa cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn xác định thiệt
hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm....................................................16
III.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆT QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CƠ SỞ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE, TÍNH
MẠNG BỊ XÂM PHẠM.................................................................................17
KẾT LUẬN.....................................................................................................20
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................21
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế
định ra đời từ rất sớm. Ở mỗi quốc gia trong từng thời kì khác nhau, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định cụ thể với từng
trường hợp khác nhau. ở nước ta, chế định bồi thường thiệt hại và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại được quy định rất cụ thể. Bộ luật dân sự 2005 quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ Điều 604 đến Điều 630 trong đó quy định
các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự
nhân phẩm bị xâm hại ; xâm phạm mồ mả, thi thể....
Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị
xâm phạm nói riêng được quy định một cách chung nhất gây khó khăn rất lớn
cho áp dụng luật để giải quyết các tranh chấp. Một trong những vấn đề còn
nhiều tranh cãi nhất là việc xác định thiệt hại. bởi lẽ xác định thiệt hại là căn
cứ để bồi thường thiệt hại và bản thân các bên rất quan tâm đến thiệt hại là
bao nhiêu. Do vậy, việc xác định thiệt hại với trường hợp xức khỏe tính mạng
bị xâm phạm phải dựa trên cơ sở pháp luật cũng như cơ sở thực tiễn. Dựa trên
cơ sở xác định thiệt hại, người có thẩm quyền xác định chính xác mức độ bồi
thường và trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai.
Hiểu rõ tầm quan trọng của cơ sở xác định thiệt hại khi sức khỏe, tính
mạng bị xâm phạm, em quyết định nghiên cứu đề tài “ cơ sở xác định thiệt hại
khi sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm”. Do kiến thức còn hạn chế, tài liệu
tham khảo chưa phong phú nên bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Mong
thầy cô nhận xét, bổ sung giúp em hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
I. KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được BLDS 2005 quy
định hoàn thiệt và đầy đủ hơn tại Điều 604 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ
thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải
bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Như vậy TNBTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái
pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vê. Ngoài ra,
trong những trường hợp đặc biệt nếu pháp luật quy định người gây thiệt hại
phải bồi thường kể cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi:
- Có thiệt hại xảy ra.
- Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật.
- Người gây thiệt hại có lỗi.
- Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Từ sự phân tích trên, Có thể hiểu khái niệm “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại quan hệ dân sự trong đó người xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi
3
thường cho người bị thiệt hại”. Thiệt hại bao gồm những thiệt hại về vật chất
và trong nhiều trường hợp là cả các thiệt hại về tinh thần. Khi thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, biện pháp chủ yếu là bồi thường
bằng tài sản.
2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tính mạng
sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm
Trước khi tìm hiểu cơ sở xác định thiệt hại khi sức khỏe, tính mạng bị
xâm hại cần xác định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm
bồi thường thiệt do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm phát sinh trên bốn căn
cứ sau:
Thứ nhất có thiệt hại xảy ra: thiệt hại là những tổn thất thực tế được
tính thành tiền do việc xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng. Thiệt hại xảy ra
trên thực tế vừa là những tổn thất về sức khỏe, tính mạng trên thực tế, cũng
như những tổn thất về tinh thần đối với người bị hại và người thân của họ.
Thứ hai, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: sức khỏe, tính
mạng của con người bị thiệt hại do hành vi gây thiệt hại của người khác.
Hành vi ấy là những hành vi xâm phạm đến quyền được pháp luật bảo vệ
tuyệt đối về sức khỏe, cũng như tính mạng của cá nhân. Đó là trường hợp có
hành vi gây thương tích, gây cố tật cho người khác hay làm thiệt hại tính
mạng con người có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, và chịu trách nhiệm
dân sự là bồi thường thiệt hại.
Thứ ba có lỗi của người gây thiệt hại. thực vậy thiệt hại khi sức khỏe,
tính mạng bị xâm hại thường phải có lỗi của người gây thiệt hại. đó có thể là
lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp không có lỗi người gây thiệt hại nhưng
vẫn phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Thứ tư là phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra với hành
vi trái pháp luật. Thiệt hại thực tế xảy ra khi sức khỏe, tính mạng bị xâm hại
4
phải là hậu quả trực tiếp từ hành vi gây thiệt hại. tuy nhiên mối quan hệ này
trên thực tế cần phải được xác định rõ ràng cụ thể để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
II. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE, TÍNH
MẠNG BỊ XÂM PHẠM
1. Cơ sở pháp lý
1.1. Xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại
Sức khỏe không thể định giá bằng một khoản tiền. Nhưng khi người
nào gây thiệt hại phải bồi thường mang tính chất bù đắp thiệt hại. thực chất
bồi thường thiệt hại về sức khỏe có ý nghĩa đền bù một phần thiệt hại về vật
chất, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai
nạn gây nên và trong một số trường hợp có ý nghĩa là một trợ cấp cho nạn
nhân và gia đình nạn nhân. Xác định thiệt hại về sức khỏe bị xâm hại được
quy định tại Điều 609 BLDS 2005 bao gồm thiệt hại cả về vật chất và thiệt
hại về tinh thần. Cách xác định thiệt hại khi sức khỏe bị xâm hại được hướng
dẫn cụ thể theo nghị quyết 03 của HĐTP- TANDTC ngày 08/07/2006.
a. Đối với thiệt hại về vật chất
Xác định thiệt hại về vật chất được quy định tại khoản 1 điều 609 gồm
những thiệt hại về tài sản sau:
Thứ nhất, Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi
sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại. “ Chi phí
hợp lý” là những chi phí phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp
với giá cả ở từng địa phương. Đó là những chi phí cho việc cứu chữa, bồi
dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt
hại có thể bao gồm: chi phí hợp lí cho việc cứ chữa bồi dưỡng phục hồi sức
khỏe như tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y
5
tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp
cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định
của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục
hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực
tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại.
Đồng thời người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn phải bồi
thường khoản tiền chi phí cho việc phục hồi chức năng bị mất, bị giảm sút của
người bị thiệt hại như: các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua
xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế
một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
Trên thực tế, có trường hợp người bị thiệt hại được đưa ra nước ngoài
điều trị hoặc giữa các bên có tranh chấp phát sinh liên quan đến việc cứu
chữa, điều trị người bị thiệt hại... Bởi thực sự người bị thiệt hại đã mất đi một
số chi phí cứu chữa thực tế rất lớn để phục hồi sức khỏe của mình. Tuy nhiên
chi phí hợp lí không đồng nhất với chi phí thực tế mà người bị thiệt hại phải
chịu. Chi phí hợp lí để cứu chữa, phục hồi sức khỏe chỉ là chi phí phù hợp với
tính chất và mức độ của thương tích, phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương và của đất nước.Trong trường hợp này nếu xét thấy cần thiết và theo
yêu cầu của một trong các bên, tòa án có thể trưng cầu giám định để xác định
thiệt hại (chi phí điều trị) cho hợp lí. Chẳng hạn như anh X đâm xe vào chị K
bị tai nạn trấn thương, bị liệt nửa người. xác định thiệt hại gồm tiền đưa bệnh
nhân đi bệnh viện, Chụp X- quang, chụp cắt lớp, tất cả chi phí về thuốc men
phục vụ chữa chạy cho K; tiền chăm sóc K và cả tiền đi mua xe lăn cho K.
Nếu bác sĩ cố tình kê cho K những loại thuốc rất đắt tiền, kéo dài thời gian
điều trị thì khi xác định thiệt hại phải dựa theo một ca điều trị trung bình trong
nước. Do vậy khoản tiền không hợp lý ấy sẽ không được tính khi xác định
thiệt hại.
6
Thứ hai là thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị
thiệt hại (điểm b, khoản 1 Điều 609). thu nhập được tính để làm căn cứ bồi
thường phải là những thu nhập thực tế. Điều này có nghĩa là trước khi sức
khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại có được thu nhập này, tuy nhiên sau khi
sức khỏe bị xâm phạm thì thu nhập đó họ không thu được nữa (bị mất) hoặc
chỉ thu được một phần ( bị giảm sút). Sau khi xác định được thu nhập thực tế,
người bị thiệt hại sẽ được bồi thường thiệt hại này nếu họ thuộc trường hợp bị
mất thu nhập hoặc được hưởng phần chênh lệch thu nhập từ việc thu nhập thu
được sau khi bị thiệt hại về sức khỏe thấp hơn thu nhập trước đó. Thu nhập
thực tế để làm căn cứ xác định mức bồi thường được tính như sau:
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập
ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn
cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm
sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của
người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và
hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau,
thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì
của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều
trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập
thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu
nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định
khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc
và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 609 BLDS.
7
Như vậy theo hướng dẫn của Nghị quyết 03, thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại phải được tính vào thiệt hại thực tế khi
đó là những thu nhập bị mất, giảm sút thực sự. Tức là trước khi bị thiệt hại về
sức khỏe thì người đó có thu nhập là bao nhiêu, và khi bị thiệt hại, người đó
không còn được hưởng hoặc hưởng không đủ khoản thu nhập đó. Vậy là điều
kiện tiên quyết để tính thu nhập bị mất hoặc giảm sút khi xác đinh thiệt hại là
phải có thu nhập thật sự trong thực tế. Nếu thực tế không có khoản thu nhập
ấy thì không buộc bên có nghĩa vụ phải bồi thường.
Thời gian hưởng bồi thường thu nhập thực tế cũng là một vấn đề rất
quan trọng. Bởi khi xác định được thu nhập bị mất hoặc giảm sút ấy còn phải
tính được khoảng thời gian thu nhập ấy bị mật, bị giảm sút. Trường hợp thứ
nhất, nếu người bị thiệt hại không bị mất hoàn toàn khả năng lao động thì thời
điểm xác định thu nhập nói trên từ khi sức khỏe bị xâm hại đến khi sức khỏe
được phục hồi. Trường họp thứ hai, căn cứ vào khoản 1 Điều 612 “Trong
trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị
thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết”, thời gian tính thu nhập bị
mất, bị giảm là từ khi sức khỏe bị thiệt hại cho đến khi người đó chết. Trong
trường hợp thực tế giá trị khoản thu nhập thường là rất lớn. Do vậy thực tế
thiệt hại do người có năng lực chịu TNBTTH gây ra chỉ làm thiệt hại đến sức
khỏe như mất khả năng lao động nhưng lại cố ý làm chết người bị thiệt hại để
không phải chịu mức bồi thường thu nhập cũng như các chi phí khác cho cứu
chữa, phục hồi sực khỏe, thu nhập bị mất, bị giảm sút của người đó đến khi họ
chết lại thường lớn hơn chi phí khi gây thiệt hại làm chết một người.
Thứ ba là chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế của người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị (điểm c, Khoản 1 Điều 609).
Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động
như bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường
hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng
8