Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Pháp luật thừa kế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.76 KB, 19 trang )

Lời mở đầu
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong
thời kì sơ khai của xã hội loài người. Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật, xuất
hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Thừa
kế ra đời với tư cách là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh mối quan hệ thừa kế gồm việc chuyển dịch tài sản của người chết cho
người khác theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và
phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Pháp luật thừa kế Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế của các nước khác trên thế
giới quy định hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế
theo di chúc là chia di sản cho người thừa kế theo sự định đoạt trong di chúc của người
có di sản lập di chúc và người thừa kế là bất kì ai. Tuy nhiên trong thực tế, không phải
bất cứ ai có di sản cũng lập di chúc và nhiều khi di chúc để lại cũng không hợp pháp
dẫn đến sự tranh chấp của những người thừa kế. Chính vì thế cần hình thức phân chia
di sản thứ hai là thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo pháp luật không phụ thuộc vào ý
chí của người để lại di sản mà là hình thức thừa kế do pháp luật quy định. Việc phân
chia di sản theo ý chí của nhà nước nhằm đảm bảo sự công bằng và minh bạch. Những
người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ
năng lực hành vi. Mọi người bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết,
thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận. Để phân
chia tài sản thừa kế theo pháp luật thì phải thuộc một trong những trường hợp sau :
– Người chết không để lại di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp
pháp. Di chúc không hợp pháp là di chúc vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực
của di chúc như: di chúc được lập ra khi người để lại di sản không còn minh mẫn hoặc
không có sự tự nguyện, người thừa kế theo di chúc là không có thực hoặc không xác
định được, di chúc có nội dung chống lại lợi ích của người khác hoặc xâm phạm đến
chủ quyền quốc gia…
– Người thừa kế di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc, cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Phần
di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu sẽ được chia theo pháp luật.
1


– Những người được chỉ định làm người thừa kế mà không có quyền hưởng di
sản hoặc từ chối quyền nhận di sản. Di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu được
chia theo pháp luật.
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc cũng được chia thừa kế theo
pháp luật.
Phần nội dung
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Diện thừa kế
Xác định diện thừa kế là xác định phạm vi những cá nhân được hưởng di sản thừa
kế theo pháp luật. Về diện thừa kế, qua các chế độ xã hội đều có một đặc điểm chung là
: chủ yếu do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối, mặt khác nó cũng tùy thuộc vào
quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội và dựa trên những quy định của
pháp luật của mỗi chế độ, xã hội. Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp
luật theo quy đinh của pháp luật hiện hành cũng dựa trên những quan điểm mang tính
chất truyền thống về gia đình Việt Nam. Những người có quan hệ huyết thống với
người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người đó.
Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo các quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với người để lại di sản khi còn
sống. Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật là người có một hoặc đồng thời có hai
mối quan hệ với người để lại di sản trong phạm vi ba mối quan hệ và được thể hiện :
- Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ nuôi dưỡng với người
để lại di sản.
- Hoặc người đó có mối quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại
di sản.
- Hoặc người đó có mối quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng với người để
lại di sản.
Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và
người thừa kế chỉ là những căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp
luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết thống gần, có quan hệ huyết thống xa (tính
theo đời và theo thứ bậc bề trên, bề dưới) với người để lại di sản có thuộc diện thừa kế

2
hay không còn tùy thuộc và những quy định của pháp luật trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định.
Nếu Điều 10, 11 sắc lệnh số 97 SL của Chủ tịch chính phủ nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ban hành ngày 22/5/1950 được xem như cơ sở ban đầu xác định diện thừa kế
thì sự định hướng đó tiếp tục được củng cố, bổ sung và hoàn thiện theo thời gian. Từ
chỗ diện thừa kế chỉ được xác định dựa trên quan hệ huyết thống xuôi : con thuộc diện
thừa kế theo pháp luật của cha mẹ, sau đó đã được mở rộng đến bố mẹ cũng thuộc diện
thừa kế theo pháp luật của con. Dựa theo quan hệ huyết thống, diện thừa kế theo pháp
luatạ được mở rộng phạm vi đến ông bà nôi, ngoại, anh chị em ruột của người để lại di
sản. Theo quan hệ huyết thống, những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được
mở rộng tới các cháu ruột của người để lại di sản, cụ nội, cụ ngoại… Đồng thời với sự
mở rộng diện thừa kế theo pháp luật là những quy định loại trừ những người thuộc diện
thừa kế theo pháp luật nhưng không có quyền hưởng di sản do bi kết án về một trong
những hành vi trái pháp luật tại khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005.
a, Phạm vi diện những người được thừa kế theo pháp luật được BLDS quy định đã
đánh dấu sự phát triển của pháp thừa kế ở nước ta và được thể hiện ở những quan hệ
sau đây :
– Thứ nhất, quan hệ thừa kế là loại quan hệ pháp luật về tài sản. Quan hệ đó là
quan hệ nhân quả của quan hệ sở hữu và đồng thời cũng là căn cứ để xác lập
quyền sở hữu của công dân (do được hưởng và nhận di sản thừa kế). Tính chất
hai chiều của quan hệ thừa kế đã tạo điều kiện cho sự hình thành các quan hệ tài
sản khác của các chủ thể tham gia vào quan hệ để lại di sản và nhận di sản thừa
kế. Nếu giải quyết được triệt để quan hệ thừa kế thì sẽ củng cố được mắt xích
quan trọng trong chuỗi các quan hệ tài sản khác mà diện và hang thừa kế theo
pháp luật đóng vai trò không thể thiếu trong quan hệ tài sản đó.
– Thứ hai, diện thừa kế được mở rộng đã đảm bảo cho việc chia tài sản của dông
dân được thực hiện triệt để nhất. Đảm bảo việc chia di sản cho những người
trong dòng tộc được hưởng và chỉ trong những trường hợp đặc biệt di sản thừa
kế mới thuộc quyền sở hữu của nhà nước, khi không còn người thừa kế theo

pháp luật. Hơn nữa việc áp dụng pháp luật có tính hiệu qủa hơn, hợp lý hơn và
có có tính thuyết phục hơn. Đồng thời cũn là căn cứ bảo vệ quyền sở hữu và
3
quyền thừa kế của công dân một cách triệt để nhất, phù hợp với đạo lý trong
quan hệ dòng tộc bên nội và bên ngoại của người chết. Qua đó thắt chặt mối
đoàn kết trong dòng họ của người để lại di sản và người thừa kế theo pháp luật.
– Thứ ba, tạo sự chủ động cho cơ quan xét xử trong quá trình sử dụng các quy
phạm pháp luật về thừa kế để giải quyết những tranh chấp từ quan hệ đó. Tính
nhất quán, ổn định ở bình diện rộng vừa khái quát, vừa khoa học phù hợp với
thực tế và có tính khả thi, thuyết phục khi cần giải quyết những tranh chấp về
quyền thừa kế.
b, Phạm vi những người được hưởng thừa kế theo pháp luật được xác định dựa trên
ba mối quan hệ. Những quan hệ giữa người để lại di sản và những người thuộc phạm vi
thừa kế theo pháp luật là : quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng.
– Căn cứ xác định diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ vợ chồng cho đến thời điểm mở thừa kế phải được
xác định là hôn nhân hợp pháp. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ vợ chồng
tuân thủ những quy định của pháp luật hôn nhân về độ tuổi kết hôn, ý chí tự do,
tự nguyện trong kết hôn, tự do thỏa thuận , không có sự áp đặt ý chí của một bên
đối với bên kia trong kết hôn, không vi phạm quan hệ huyết thống, không vi
phạm chế độ một vợ một chồng và không vi phạm các điều cấm khác của pháp
luật trong kết hôn. Sự thừa nhận của pháp luật đối với cuộc hôn nhân là cơ sở để
bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của vợ chồng trong mối quan hệ tài sản
chung, trong nghĩa vụ đối với con cái, trong sự thể hiện nghĩa vụ của vợ chồng
đối với nhauvà trách nhiệm của vợ hoặc chồng trong quan hệ với người thứ ba.
Tuy nhiên lịch sử nước ta đã trải qua những giai đoạn chống ngoại xâm, chế độ
phong kiến đã tồn tại hang ngàn năm trước khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa được thành lập. Thời kì phong kiến các quy định về hôn nhân bình đẳng
không được coi trọng, chế độ đa thê tồn tại hàng ngàn năm. Cách mạng tháng 8

thành công, nhà nước dân chủ nhân dân ra đời nhưng cũng không thể xóa bỏ
ngay lập tức các quan hệ vợ chồng bất bình đẳng có trong xã hội. Thực trạng đa
thê, tảo hôn vẫn diễn ra. Trong thời kì chiến tranh kéo dài , đất nước bị chia cắt,
tình trạng cán bộ chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc có hai vợ khá phổ biến. Pháp
luật được áp dụng tai miền Nam khi đó cũng là pháp luật của nhà nước Việt
4
Nam cộng hòa. Cho nên Nhà nước ta đã quy định quan hệ hôn nhân của vợ
chồng xác lập đối với miền Bắc trước ngày 13/1/1960, đối với miền Nam trước
ngày 25/3/1977 tuy có vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng coi là không
trái pháp luật. Khi chồng chết những người vợ đề là người thừa kế hàng thứ nhất
của người chồng và ngược lại, khi các vợ chết chồng được thừa kế của các vợ.
– Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ huyết thống : Quan
hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng một gốc “ông tổ” ( như giữa
cụ và ông, bà; giữa ông bà và cha mẹ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ
khác cha, cùng cha khác mẹ). Pháp luật về hôn nhân và gia đình bảo vệ lợi ích
chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha mẹ và
nghĩa vụ của người làm cha làm mẹ của con. Quyền thừa kế của con không phụ
thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. Việc xác định quan hệ huyết
thống giữa cha mẹ và các con là một việc quan trọng. Mục đích xác định quan
hệ huyết thống nhằm bảo vệ những quyền lợi tài sản và nhân thân cho cá nhân
và là đạo lý của đời sống xã hội, với quan đỉểm mỗi người sinh ra đều phải có
cha, mẹ là cội nguồn của mối quan hệ ruột thịt, là căn cứ để xác định nghĩa vụ
và quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ gia đình và xã hội. Và trong trường
hợp cần thiết xác định trách nhiệm của họ đối với nhau và nghĩa vụ giám hộ cho
nhau, đại diện cho nhau trong các quan hệ dân sự và các quan hệ xã hội khác.
Thông qua quan hệ huyết thống với cha mẹ ta mới có thể xác định được các
mối quan hệ huyết thống khác như ông bà, anh chị em ruột…
– Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng : Quan hệ
nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau, nuôi dưỡng nhau giữa những
người thân thuộc theo quan hệ của pháp luật

+ Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái không tách rời nghĩa vụ nuôi dưỡng
nhau mà còn là đại diện đương nhiên của nhau trước pháp luật khi một bên
không có năng lực hành vi dân sự.
+ Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa anh chị em ruột đối với nhau
trong hòan cảnh mồ côi cha mẹ hoặc cha mẹ còn những không có khả năng
lao động hoặc đều không có năng lực hành vi dân sự.
+ Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại. Ngoài
nghĩa vụ nuôi dưỡng, cháu và ông bà còn là người giám hộ đương nhiên của
nhau và đồng thời cũng có nghĩa vụ đại diện theo pháp luật cho nhau.
5
+ Quan hệ giữa cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng : Cha kế, mẹ
kế với con riêng của vợ, chồng luật không quy định có nghĩa vụ nuôi dưỡng,
chăm sóc nhau và giám hộ, đại diện đương nhiên của nhau. Nhưng trong
thực tế cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng đã thể hiện được nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì theo Điều 679 BLDS
quy định “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 Bộ luật Dân sự
2005” họ được thừa kế của nhau. Nếu con riêng của vợ, chồng mà chết trước
cha kế, mẹ kế thì con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế
khi qua đời. Con riêng và cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau và còn
được thừa kế theo quy định tại Điều 676, 677 BLDS năm 2005.
+ Quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ nuôi theo pháp luật quy định : “con nuôi
có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ” – Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình
năm 1959. Nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa các thành viên trong gia đình là
cơ sở bền vững nhất trong việc giữ gìn an ninh và sự bình ổn trong gia đình
và toàn xã hội.
+ Con dâu, con rể chỉ có quan hệ thừa kế với gia đình cha mẹ đẻ cảu mình
mà không có quan hện thừa kế với gia đình chồng hoặc vợ. Tương tự như

vậy bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng cũng không được thừa kế di sản của con rể
hoặc con dâu. Tuy nhiên trong thực tế có những trường hợp nếu người con
dâu hoặc con rể có công lao đóng góp trong việc duy trì và phát triển khối tài
sản chung của gia đình vợ chồng kể cả công lao chăm sóc, nuôi dưỡng thì
phải coi người con dâu, con rể có một phần trong khối tài sản chung của gia
đình và được hưởng một phần di sản để lại.
Xác định diện những người thừa kế theo pháp luật, trước hết để xác định những
người có
quyền hưởng di sản. Sau nữa loại trừ những người không thuộc diện thừa kế theo pháp
luật hoặc thuộc diện thừa kế theo pháp luật nhưng không có quyền thừa kế theo pháp
luật.
6
Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng có tính độc lập tương đối vì
quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy
định của pháp luật giữa người để lại di sản và người thừa kế. Chỉ có sự xác định diện
những người thừa kế theo pháp luật mới ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong dòng
tộc và có tác dụng giáo dục ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thuộc diện
thừa kế.
2. Hàng thừa kế
Ở nước ta những quy định về hàng thừa kế theo pháp luật dựa trên bản chất thừa kế
được hiểu là : “Nhóm người có quan hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản”.
Trước năm 1945 về hàng thừa kế, pháp luật của chế độ thực dân phong kiến quy định
người thừa kế theo trật tự hàng trước hết là bảo vệ quyền hưởng di sản của những
người trong quan hệ huyết thống nội tộc với người để lại di sản. Bản chất pháp luật
thừa kế thực dân phong kiến luôn bảo vệ tài sản nội tộc nhằm củng cố gia đình theo ý
thức hệ phong kiến không có sự bình đẳng giữa người vợ góa với anh, chị, em ruột thịt
bên nhà chồng; chú, bá, cô, dì,cậu ruột và bố mẹ chồng. Hàng thừa kế theo pháp luật và
người thừa kế theo hàng cũng bị những tư tưởng phong kiến chi phối mạnh mẽ và được
thể chế hóa bằng pháp luật. Từ năm 1945 đến nay, qua nhiều lần thay đổi các pháp lệnh
thông tư được nhà nước ban hành đã dần dần khắc phục các nhược điểm, hạn chế,

những điểm lạc hậu, chưa thỏa đáng thiếu bình đẳng của các quy định về hàng thừa kế
trong pháp luật để hoàn thành BLDS năm 2005 với những quy định về pháp luật thừa
kế tiến bộ và công bằng.
Theo quy định tại Điều 674 BLDS năm 2005 thì : “ Thừa kế theo pháp luật là thừa
kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Hàng thừa
kế theo pháp luật quy định tại điều 676 BLDS gồm có ba hàng :
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm : vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người đã chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm : Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột, của người đã chết; cháu ruột của người đã chết mà người đã chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm : Cụ nội, cụ ngoại của người đã chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người đã chết; cháu ruột của người đã chết
7

×