Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Tiếp nhận văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Nguyền Bình Phương Luận văn ThS. Văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 118 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ NHIỆM



TIẾP NHẬN VĂN HÓA DÂN GIAN
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam







Hà Nội – 2014




1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ NHIỆM



TIẾP NHẬN VĂN HÓA DÂN GIAN
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21


LUẬN VĂN THẠC SĨ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Xuân Thạch





Hà Nội – 2014


2
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thiện luận văn này, ngoài
sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ,
động viên từ các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Tiến sĩ Phạm Xuân
Thạch, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành
luận văn này với tinh thần khoa học nghiêm túc và tấm lòng độ lượng. Tôi cũng
muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Hùng Vĩ cùng toàn thể thầy cô
trong và ngoài khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
những người đã giảng dạy, giúp đỡ, cung cấp những kiến thức quý báu cho chúng
tôi suốt sáu năm học qua.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến nhà văn Nguyễn Bình
Phương, người đã có những sáng tác độc đáo, những chia sẻ, giải đáp nhiệt tình
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn yêu thương nhất đến ba mẹ, những
người thân trong gia đình, cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã luôn bên cạnh ủng hộ,
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
7 2 
Học viên


Nguyễn Thị Nhiệm



3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Phạm Xuân Thạch. Luận văn được trình bày
theo yêu cầu, quy định của khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đề ra. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
Những tài liệu tham khảo đều có trích dẫn và ghi chú xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của mình.
Tôi xin cam đoan.
Hà Nội, ngày 17 tháng 11 năm 2014
Học viên



Nguyễn Thị Nhiệm


4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
NỘI DUNG 18
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 18
1.1. Mối quan hệ VHDG và văn học 18
1.1.1. Một số định nghĩa đến xác lập mối quan hệ VHDG và văn học 18
1.1.2. Tiếp nhận VHDG trong văn học viết 26
1.2. Hành trình sáng tác và tiền đề tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phƣơng 33
1.2.1. Hành trình sáng tác Nguyễn Bình Phương 33
1.2.2. Tiền đề cho sự tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương 38

Chƣơng 2: THẾ GIỚI – CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN
BÌNH PHƢƠNG VÀ SỰ TÁI TẠO HỆ GIÁ TRỊ VHDG 45
2.1. Thế giới trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng và việc tiếp nhận VHDG 45
2.1.1. Không gian văn hóa 45
2.1.2. Thời gian văn hóa 51
2.2. Con ngƣời với tƣ cách chủ thể, cũng là sản phẩm của văn hóa 56
2.2.1. Con người theo mô hình hai thế giới 56
2.2.2. Quan niệm, tín ngưỡng, phong tục tập quán 63
Chƣơng 3: PHƢƠNG THỨC TIẾP NHẬN VHDG TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG 77
3.1. Vận dụng các motif truyện cổ 77
3.1.1. Motif sinh nở thần kỳ - hóa thân kỳ lạ 77
3.1.2. Motif giấc mơ – điềm báo – tiên tri 80
3.1.3. Motif đứa bé mồ côi 82
3.2. “Huyền thoại hóa” bằng các cổ mẫu, biểu tƣợng 83
3.2.1. Đất– Nước – Cú – Rắn 83
3.2.2. Trăng – Máu – Chó – Đá – Lửa 87
3.2.3. Cái Bóng - Địa Ngục 89


5
3.2.4. Long – Lân – Quy – Phụng (Rồng – Nghê – Rùa – Chim) 90
3.3. Vận dụng – tái tạo –tạo mới các tích truyện dân gian 93
3.3.1. Vận dụng tích truyện dân gian 96
3.3.2. Sáng tạo mới tích truyện dân gian 98
3.4. Sử dụng ngôn ngữ mang tính chất dân gian 98
3.4.1. Sử dụng nhuần nhị ngôn ngữ đời thường, thành ngữ, tục ngữ 98
3.4.2. Ngôn ngữ đan xen văn vần với văn xuôi 101
3.5. Những đặc sắc và ý nghĩa việc tiếp nhận VHDG của Nguyễn Bình Phƣơng 105
3.5.1. Vận dụng đa dạng và ở tầng sâu các chất liệu VHDG: 105

3.5.2. Ý nghĩa của việc tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương 107
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112



6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt
Đầy đủ

Nxb
ĐHQG
KHXH
NCVH
VHDG
ĐH
ĐHSP
KHXH&NV
HN
TP HCM









Nhà xuất bản
Đại học Quốc Gia
Khoa học Xã hội
Nghiên cứu văn học
VHDG
Đại học
Đại học Sư phạm
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh





7
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết không phải là một vấn
đề mới. Nó xuất hiện ngay từ những ngày đầu hình thành văn học viết. Là hai loại
hình nghệ thuật khu biệt tương đối trong tất cả các tiêu chí và cách thức phân loại,
văn học dân gian và văn học viết có sự tương tác đa chiều mà có thể nhận ra dễ
dàng chiều ảnh hưởng từ văn học dân gian đến văn học viết là trội hơn. “Kinh
nghim ngh thui  
 yu ca nh tt c m
 mt thit ci sp th c
” [36; tr.13]. Tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết là một tất yếu và
tiếp nhận văn học dân gian vào văn học viết cũng là một quy luật dĩ nhiên của tiến
trình lịch sử. Văn học dân gian với đặc tính nguyên hợp nên được nhìn nhận trong
tổng thể VHDG (VHDG) khi xét đến tác động của nó tới văn học thành văn.

Từ việc đơn thuần chỉ ra các yếu tố dân gian thuộc phạm vi hình thức (như
motif, hình ảnh, cốt truyện, ngôn ngữ, thể loại,…) thì gần đây, bổ sung nội hàm
khái niệm VHDG, người ta đã nhìn sâu hơn đến chiều kích tư tưởng, tinh thần (như
tín ngưỡng, các nghi lễ, tập quán dân gian) thể hiện trong các sáng tác văn học. Tuy
nhiên dù ở góc độ nào, có thể thấy hầu hết các công trình mới chỉ dừng lại ở mục
đích nhấn mạnh vai trò chất nền của VHDG đối với văn học viết, tức mới chỉ ra
chiều tác động của VHDG mà chưa đánh giá đúng mức vai trò chủ thể tiếp nhận ở
đây là những người sáng tác văn học viết. Trước kho tàng VHDG vô cùng phong
phú, mỗi nhà văn tiếp nhận đến đâu, tiếp nhận như thế nào và thể hiện “tri thức dân
gian” ra sao lại tùy thuộc vào tài năng và cá tính của tác giả, đấy chính là một vấn
đề cần được đào sâu hơn nữa.
1.2. Trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, ảnh hưởng VHDG đến tác
phẩm văn học ở nhiều cấp độ khác nhau đã không còn quá mới mẻ. Ngay từ trước
Cách mạng Tháng Tám, truyện “cổ tích văn học” đã xuất hiện khá ấn tượng với
những tên tuổi như Tô Hoài (ng Chui); Vũ Tú Nam (Cuc


8
i tri), Phạm Hổ (Ti
con r),… Tuy nhiên, đáng nói là phần nhiều
những áng truyện c c ấy lại chú trọng bảo tồn cốt lõi folklore truyền
thống, thường chuyên chở những bài học đạo đức khuyên răn như mục tiêu, do vậy
nó mang hơi hướng văn học “chức năng” và dường như ưu tiên cho thiếu nhi hơn.
Nhóm sáng tác này đặt cạnh sáng tác dân gian thực sự không có quá nhiều khác
biệt, nên có thể coi đây là một mức tiếp nhận đơn giản nhất, sơ khai nhất VHDG
của văn học viết.
Quá trình tiếp biến văn hóa này diễn ra xuyên suốt và liên tục trong lịch sử văn
học, nhưng phải đến “Làn sóng Đổi mới” cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, tiếp
nhận VHDG trong văn học viết mới được đẩy lên cao thành một trào lưu, một xu
hướng, một phương pháp thực sự đem lại giá trị nhiều mặt trong văn chương. Tiểu

thuyết Việt Nam đương đại sau hàng loạt cách tân, tìm tòi, đổi mới theo kỹ thuật
hiện đại phương Tây thì có một xu hướng đổi mới theo hướng kết hợp tìm về với
VHDG. Tất nhiên đây không phải là hướng đi lạc hậu với những sản phẩm là “bình
cũ rượu mới”. Nó không giống với việc phục hưng lại một nền văn hóa đã qua, càng
không phải nhằm một mục tiêu chính trị “”, “phc v ”
như đồng chí Trường Chinh từng phát biểu, mà đơn thuần nó chỉ là một phương
thức mới trong sáng tạo văn học.
Rất nhiều nhà văn đương đại đã thành công và khẳng định tên tuổi với thử
nghiệm đó như Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Lê Minh Hà,
Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương… Không phải ngẫu nhiên mà hầu hết
những tác phẩm văn học đang được đánh giá cao như Hn trinh n
xao (Võ Thị Hảo),   y th  , Nhng ng   
(Nguyễn Huy Thiệp), t (Tạ Duy Anh), M (Nguyễn
Xuân Khánh), S p tri (Hòa Vang),  (Lê
Minh Hà), ng, Nha tr chi (Nguyễn Bình Phương)…
đều là những tác phẩm chịu ảnh hưởng VHDG khá sâu sắc.


9
1.3. Nguyễn Bình Phương không còn là một cái tên xa lạ trong giới nghiên
cứu, phê bình nhưng số lượng độc giả biết đến anh lại phần nào khiêm tốn. Có thể
do văn anh “kén”, khiến những độc giả bình thường có cảm giác bị “làm khó”, bị
“thách thức”. Tuy nhiên, chính sự “kén” đó cho thấy văn của anh “chất” và quả thực
là một thành quả lao động nghệ thuật không mấy dễ dàng.
Nguyễn Bình Phương đến với thơ trước văn xuôi và rồi anh nhanh chóng
khẳng định ngòi bút đa tài với thành công trên tất cả các thể loại. Trong đó tiểu
thuyết vẫn là các trang viết được “săn đón” nhiều hơn. Văn của Nguyễn Bình
Phương dày đặc những tri thức dân gian, đôi khi trừu tượng, kín đáo, đôi lúc rành
rọt kể chuyện Xa xm du hi; khi đưa người đọc đến những dãy
điệp vàng thơ mộng ở thành phố, lúc lại chu du trên đỉnh Rùng, núi Hột hoang sơ

trong “ ”. Những trang viết đầy biến cố, đẫm máu và
nước mắt của Nguyễn Bình Phương phần nào được cân bằng chính nhờ những “giấc
mơ cổ tích” ấy. Thú vị hơn nữa nếu người đọc nhận ra Nguyễn Bình Phương đã
khéo léo đưa vào tác phẩm của anh những nét VHDG đặc trưng nhất của vùng bán
sơn địa Thái Nguyên, vùng đất linh thiêng, “ n hoc” này.
Đặc biệt, tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương mới mẻ so
với các hình thức tiếp nhận thường thấy, không chỉ là “giả huyền thoại – giả cổ
tích”, không hoàn toàn là “truyện cũ viết lại”, cũng không hẳn là kiểu “truyện lồng
truyện” nếu xét trên tiêu chí và cách thức phân loại thông thường. Dường như vượt
khỏi những khuôn thức đó, tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
cần một định danh mới. Nó thể hiện một cấp độ tiếp nhận mới, tưởng như mờ nhạt
nhưng lại vô cùng sâu sắc và ấn tượng. Đặc biệt, không chỉ tiếp nhận đơn thuần,
Nguyễn Bình Phương còn sáng tạo lại VHDG khiến người đọc như được lạc vào thế
giới cổ tích phiêu lưu, kỳ ảo với nhân vật cổ tích nhiều khi lại chính là những con
người của thế kỷ XXI.
Với tất cả lí do đó, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tiếp nhận VHDG trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phƣơng” làm đề tài cho luận văn của mình, với kì vọng mang
đến những phát hiện mới, hướng nghiên cứu mới đối với tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương cũng như vấn đề tiếp nhận VHDG trong văn học Việt Nam đương đại.


10
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu tiếp nhận VHDG trong văn học viết
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ lược lại một cách khái quát lịch sử
nghiên cứu vấn đề tiếp nhận VHDG trong văn học viết ở Việt Nam. Ngay từ những
công trình đồ sộ đầu tiên về văn học dân gian Việt Nam: t
Nam (giáo trình) – Đinh Gia Khánh (chủ biên), NXB c; u ti
n ht Nam  Cao Huy Đỉnh, NXB KHXH – năm 1974…các nhà
nghiên cứu kỳ cựu ít nhiều đã có đề cập đến mối quan hệ và quy luật tương tác giữa

văn học dân gian và văn học viết.
Chu Xuân Diên với bài nghiên cứu  đăng trên
T, số 1, năm 1966 đã nhấn mạnh vai trò to lớn của các sáng tác dân
gian trong sự phát triển của văn học viết, gián tiếp thông qua bồi đắp tâm hồn, tư
tưởng của nhà văn. Bài viết của Lê Kinh Khiên cũng đã đặt ra được những vấn đề
mới cho đến nay vẫn còn giá trị là Mt s v t chung v mi quan h
 c vit. Trên cơ sở lịch sử văn học dân tộc, bài viết đã nhìn
ra những quy luật tác động và chỉ ra những bước cụ thể khi muốn khảo sát ảnh
hưởng của văn học dân gian trong tác phẩm văn học viết.
Gần đây hơn, Võ Quang Trọng với công trình nghiên cứu khá công phu Vai
t Nam hii (Nxb KHXH) năm 1997
đã có những nghiên cứu mới trong vấn đề này. Tác giả đã chỉ ra vai trò văn học dân
gian cụ thể về các mặt cấu trúc, thể loại và phong cách dân gian trong văn xuôi hiện
đại. Công trình đã có cái nhìn khá toàn diện về tiếp nhận văn học dân gian trong văn
xuôi hiện đại.
Tiếp đến, loạt bài nghiên cứu của Bùi Thanh Truyền cũng đã có những đóng
góp mới mẻ cho vấn đề này, đó là các bài viết  ng thn tho 
 (Tạp chí VHDG, số 5 năm 2001);
S hi sinh ca yu t k o i Vit Nam (Tạp chí NCVH số
11 năm 2006); Mt s  thi gian ngh thut ca truyu t k o
i (Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường ĐHSP Huế - 2007); 


11
truyn thng  hi thut ca truyn gi c n
t li thi mi (Tạp chí NCVH, số 2 năm 2008); Du 
ng truyn ngn H (viết chung), (Tạp chí VHDG Thừa Thiên Huế
- 2011). Đáng chú ý nhất trong những bài viết đó là tác giả đã đưa ra sự khu biệt
rạch ròi giữa các nhóm truyện, kiểu truyện trong tiếp nhận VHDG, đồng thời nhấn
mạnh những yếu tố cách tân trong kiểu truyện giả cổ tích, truyện cổ viết lại đó.

Với tính chất là những nghiên cứu khái quát mang tính lý luận nhiều hơn, các
nghiên cứu này mới chỉ ra ảnh hưởng VHDG đến văn học là một quy luật tất yếu,
khách quan mà chưa nói đến tiếp nhận theo nghĩa là một phương thức sáng tạo.
Theo nghĩa đó, nhà văn, chủ thể tiếp nhận cần được nhìn nhận và xác lập những
phong cách tiếp nhận cụ thể. Thiết nghĩ vấn đề này đáng bàn hơn là chỉ nói tiếp về
quy luật tất yếu được thừa nhận đã từ rất lâu.
Nói đến vấn đề tiếp nhận VHDG trong văn học viết, không thể không kể đến
những nghiên cứu về nhóm tiểu thuyết tân huyền thoại trên thế giới của Tiến sĩ
Nguyễn Thị Như Trang, đặc biệt với bài viết Huyn thoi t n
tiu thuyn thoi th k XX  nhng bii trong c s (Tạp chí
VHDG – số 4 năm 2010). Bài viết mang tính khoa học cao, thể hiện cái nhìn có tính
lịch sử, vừa lí giải được sự hình thành, vừa có sự đối chiếu để thấy được từng bước
thay đổi của tiểu thuyết huyền thoại. Bài viết của Tiến sĩ Hoàng Cẩm Giang S x
nha mt s c t s ut Nam t
n nay (Tạp chí VHDG, số 1 năm 2011) cũng là một nghiên cứu sắc sảo, một
trong số ít những bài viết hệ thống hóa được các cấp độ tiếp nhận VHDG (giới hạn
ở các tự sự dân gian) trong văn học viết đương đại.
Vấn đề ảnh hưởng văn hóa, văn học dân gian đến văn học viết được nghiên
cứu trải dài và liên tục từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Tản Đà, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Bính, Nguyễn Thi… đến các nhà văn, nhà
thơ sau đổi mới như Hòa Vang, Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân
Khánh, Tạ Duy Anh,…


12
Gần đây hơn, có thể kể đến các công trình nghiên cứu tương đối chuyên sâu
như: Luận án tiến sỹ c dt s 
hii của Phạm Thị Trâm (2002); Luận văn thạc sĩ  s 
c Vii (2011) của Lê Chung Thủy; Luận văn Truyn k
i v  u nhi (kht s truy

cng) (2012) của Nguyễn Thị Hồng Thắm; Luận văn Cm hng nhi
c n ng(2012) của Bùi Thị Ánh; Khóa luận tốt nghiệp
 , tc ng trong truyn ngn Nguyn Huy Thip (2007) của Đỗ Thị
Liên,… Các công trình nghiên cứu đã góp phần chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ
của VHDG trong văn học viết, đồng thời bước đầu lí giải những đặc sắc trong tiếp
nhận VHDG của các tác giả đương đại.
2.2. Lịch sử nghiên cứu tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Dễ thấy Nguy trở thành một “key word” khá nổi bật trên các
chuyên trang văn hóa – văn học điện tử. Nhiều bài viết đã thể hiện những phát hiện
thú vị về văn chương, con người nhà văn như Nguy s
ng, vi  ng trên báo Tin Phong; Nguy  
hc sng trên báo  tr của của tác giả Nông Hồng
Diệu, hay Nguy của tác giả trẻ
Thu Hà trên Nhìn chung tất cả các bài dù thiên về vấn
đề này hay khác đều chung mạch làm nổi bật chân dung Nguyễn Bình Phương giản
dị nhưng văn anh lại vô cùng mới lạ.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến loạt bài nghiên cứu như những phản hồi
sớm và tương đối sâu sắc về sáng tác Nguyễn Bình Phương. Đó là Nguyễn Chí
Hoan với bài viết C hin th n ct k
thy” (báo i, số 33, ngày 13 tháng 8 năm 2004); là Đoàn Cầm Thi với
bài viết g tc gi trên Đây đều
là những bài viết hay, tiêu biểu, có nhiều phát hiện, nhận định mới mẻ và thuyết
phục về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến bài viết của
Tiến sĩ Phạm Xuân Thạch, Tiu thuyi


13
sng  c Ngi ca Nguytrên báo  - số 45 năm 2006.
Ngay khi Ngi ra đời, nhà nghiên cứu đã gần như lập tức cảm được giá trị, vị thế
đặc biệt của tác phẩm với tác giả đó trên văn đàn. t cuc mi gt vn

 ph i si st tiu thuyt bi ta
suy ngh u t tiu thuyt tiu thuyt xut sc
[58]. Những lời khen nhiệt thành, sôi nổi được đưa ra sau những phân tích, đánh giá
sâu sắc, tinh tế nên nó không còn là cảm nhận đơn thuần mà là một sự tri nhận khoa
học quả quyết và thuyết phục.
Sau đó 2 năm, Đoàn Ánh Dương trên tạp chí chuyên ngành Nghi
hc, số 4 năm 2008 lại có những đánh giá mới về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
trong một bài viết công phu Nguy Lu gian tiu thuyt. Ví
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương như một dòng sông, mà mỗi cuốn như một chi lưu
trước khi hợp lưu đổ ra biển lớn. Với hướng tiếp cận cấu trúc và phương thức huyền
thoại, tác giả đã chỉ ra những đặc trưng riêng của mỗi chi lưu cũng như mạch chung
của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, bài viết có khen, có chê, có những đối thoại
với các nhà nghiên cứu khác khá khách quan và chính xác. Chẳng hạn với Ngi, tác
giả Đoàn Ánh Dương lại có nhận định hoàn toàn khác nhà nghiên cứu Phạm Xuân
Thạch: coi đây là một thể nghiệm tht bi thc s v mt c, t bn nhc
o, b c ng  nhiu kt
cu [40, tr.71]. Chính việc tồn tại những ý kiến trái chiều đó lại chứng tỏ sức sống
bền bỉ, mãnh liệt và sự hấp dẫn đặc biệt của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Khiến anh cùng các tác phẩm của anh trở thành một hiện tượng mới trên văn đàn
Việt đang có phần ảm đạm.
Không chỉ hấp dẫn các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, sáng tác của Nguyễn
Bình Phương gần đây trở thành hệ vấn đề thu hút được nhiều sinh viên, học viên,
lựa chọn làm đề tài khóa luận, luận văn, công trình nghiên cứu của mình. Có thể kể
đến một số luận văn như: Yu t k o trong tiu thuyt Nguy, Luận
văn thạc sĩ năm 2008 của Nguyễn Thị Ngọc Anh đã chỉ ra không – thời gian kỳ ảo,
nhân vật kỳ ảo và phương thức tạo dựng các yếu tố kỳ ảo của trong tiểu thuyết


14
Nguyễn Bình Phương. Tiếp đến, trong khi Luận văn: Nguyi vic

 lo hiu thuyt của Hồ Bích Ngọc (2008)
phát hiện ra những cách tân đặc biệt về mặt ngôn ngữ thì luận văn Ngh thut tiu
thuyt Nguy (2010) của Nguyễn Thị Phương Diệp, lại có cái nhìn
tổng quát, đưa ra những đặc sắc nghệ thuật xuyên suốt hành trình sáng tác của
Nguyễn Bình Phương. Luận văn m tiu thuyt Nguy
tii mi tiu thuyt Vii (2011) của Nguyễn Diệu Hạnh
cũng đã làm nổi bật được những đóng góp của tác giả trong quá trình cách tân tiểu
thuyết Việt Nam đương đại,… Gần đây nhất là Luận văn ng hin thc
huyn o trong tiu thuyt Nguy  g của Nguyễn Thị Thu Huyền
(2012). Tác giả trẻ này quan tâm sâu đến những yếu tố tổ chức tác phẩm như không
– thời gian, kết cấu, và nhân vật, tất cả đặt trong thế đối sánh, hòa quyện giữa hiện
thực và huyền ảo làm nổi bật khuynh hướng chủ đạo trong bút pháp tự sự Nguyễn
Bình Phương.
Nói về tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, ở một số ít
bài viết cũng có gợi nhắc đến nhưng còn tương đối mờ nhạt. Có khi nó chỉ là một ví
dụ cho vấn đề “liên thế giới” – “liên văn bản” như trong bài viết của Tiến sĩ Hoàng
Cẩm Giang chúng tôi có điểm qua trên đây. Vấn đề này cũng đã từng được Đoàn
Ánh Dương gợi mở trong bài Nguy lu giang tiu thuyt: 
huyn tho ng
mi.  u nhi vt t 
cm kc cng v ct y
m      m [40, tr.73]. Như vậy, dù đã nhìn ra và nhấn
mạnh kết cấu huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, nhưng Đoàn Ánh
Dương chưa gọi thành tên vấn đề và hơn nữa cái “kết cấu huyền thoại” đó lại chỉ là
hệ quả, là phương thức của nhà văn sau khi anh ta tiếp nhận VHDG một cách có ý
thức, có chủ ý.
Vậy có thể thấy dù sáng tác của Nguyễn Bình Phương đã được nghiên cứu ở
khá nhiều khía cạnh, nhưng tiếp nhận VHDG trong sáng tác của anh lại là một vấn



15
đề tương đối mới mẻ. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài luận
văn của mình, với hy vọng đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương theo
một hướng mới, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa thành quả nghiên cứu của những người
đi trước, từ đó có những kết luận khoa học đóng góp cho quá trình nghiên cứu
Nguyễn Bình Phương cũng như văn học Việt Nam đương đại hôm nay và sau này.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Chứng minh tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có tiếp nhận và tiếp nhận
rất độc đáo VHDG thông qua ba bước cụ thể:
 Phát hiện các dấu vết VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương,
 Phân tích cách thức đưa các yếu tố VHDG và ý nghĩa của nó trong
cấu trúc, tư tưởng tác phẩm,
 Xác định cái riêng nét độc đáo của Nguyễn Bình Phương trong cách
thức chọn lọc, cải biên các yếu tố VHDG so với các tác giả khác.
Qua đó thấy được tài năng độc đáo và nét phong cách mới trong sáng tác
Nguyễn Bình Phương,
3.2. Luận văn một lần nữa chứng minh vai trò quan trọng của VHDG cũng
như cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ nói chung trong nỗ lực kiến tạo nền
văn hóa, văn học mới, hiện đại mà giàu truyền thống.
3.3. Đóng góp hướng tiếp cận mới đối với tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam đương đại nói chung,
4. Đối tƣợng - phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề tiếp nhận VHDG trong văn học
đương đại, cụ thể ở đây là trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Phạm vi nghiên cứu là sáu tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương mà theo chúng
tôi có tiếp nhận VHDG đặc sắc hơn hơn cả: B gii, , Nha tr cht
, Thot k thy, ng, Ngi. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, phân
tích, chúng tôi có khảo sát thêm mảng thơ và một số truyện ngắn của Nguyễn Bình
Phương, cùng một số truyện cổ dân gian, yếu tố VHDG khác được cho là có liên hệ.
Đồng thời, chúng tôi cũng mở rộng tham khảo, đối chiếu với sáng tác của các nhà



16
văn khác có ảnh hưởng các yếu tố VHDG để qua đó thấy được nét độc đáo riêng
của Nguyễn Bình Phương trong lối đi chung này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi vận dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp tiếp cận văn hóa học
Đây được coi là phương pháp nghiên cứu trọng tâm của luận văn. Với giả
thiết đưa ra là có tiếp nhận VHDG, chúng tôi áp dụng phương pháp tiếp cận văn
hóa học trong giải mã các biểu tượng, tìm kiếm các cổ mẫu, dấu vết lịch sử, tôn
giáo, tín ngưỡng… những hiểu hiện tính dân gian ẩn tàng trong sáng tác Nguyễn
Bình Phương.
5.2. Phương pháp liên ngành
Luôn ý thức đặc tính nguyên hợp thường trực sâu sắc ở đối tượng nghiên
cứu, chúng tôi cũng áp dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu, phối hợp
tri thức văn hóa, lịch sử, triết học, tôn giáo, tâm lý học, với mong muốn hình
dung vấn đề trong chuỗi chi phối toàn diện nhất có thể. Đó chính là giải mã vấn
đề theo đường hướng mà nó được tạo thành.
5.3. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu nhóm tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi cần đặt nó
trong một hệ thống, hệ thống các tiểu thuyết có tiếp nhận VHDG của Nguyễn
Bình Phương và để tìm ra quy luật chung - riêng, sau đó khái quát thành những
đặc trưng để tìm hiểu, nghiên cứu. Ngoài ra, bản thân Nguyễn Bình Phương với
nhóm tiểu thuyết của anh, hay vấn đề tiếp nhận VHDG cũng sẽ được ý thức đặt
trong cùng một trường, một hệ thống như là nguyên tắc của nghiên cứu so sánh.
5.4. Thao tác phân tích - tổng hợp – so sánh – thống kê
Ngoài các phương pháp nghiên cứu nêu trên, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi còn kết hợp áp dụng thường xuyên một số thao tác như phân tích, tổng
hợp khi tìm hiểu các biểu hiện VHDG; thao tác so sánh trong quá trình tìm kiếm



17
những dấu hiệu hữu quan giữa văn hóa – văn học dân gian với tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương; thao tác thống kê trong xử lý những dẫn chứng cụ thể.
Đây là những thao tác quan trọng để đưa đến lý giải các luận điểm của luận văn.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn có cấu trúc ba phần: mở đầu, nội dung chính và kết luận. Trong đó,
chúng tôi tập trung vào phần nội dung chính với kết cấu ba chương như sau:
Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thế giới – con ngƣời trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng và sự
tái tạo hệ giá trị VHDG
Chương 3: Phƣơng thức tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng
















18

NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Với tính chất là cơ sở lý luận – thực tiễn, trong chương đầu tiên này, chúng
tôi muốn khái lược lại định nghĩa các khái niệm cơ bản cũng như đối tượng nghiên
cứu để thống nhất quan điểm trong suốt luận văn. Để đến gần hơn với đối tượng
nghiên cứu, chúng tôi cũng tìm hiểu hành trình sáng tác và những tiền đề cho việc
tiếp nhận VHDG trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương từ các khía cạnh sinh
quán, cảm quan nghệ thuật của nhà văn.
1.1. Mối quan hệ VHDG và văn học
1.1.1. Một số định nghĩa đến xác lập mối quan hệ VHDG và văn học

Văn hóa là thứ tồn tại gần gũi nhất nhưng có lẽ cũng là khái niệm trừu tượng
nhất, tồn tại nhiều định nghĩa nhất của con người. Đứng trước khái niệm đặc biệt
này, người ta thường qui về hai cách hiểu chính là theo nghĩa rộng và theo nghĩa
hẹp. Theo nghĩa hẹp lại có thể chia thành các giới hạn: theo chiều sâu và chiều rộng,
theo không gian và thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là
những giá trị tinh hoa như nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ thuật… Giới hạn theo
chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực văn hóa
giao tiếp, văn hóa công sở, văn hóa kinh doanh… Giới hạn theo không gian, văn
hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng như văn hóa Tây Nguyên,
văn hóa Nam Bộ… Giới hạn theo thời gian, văn hóa chỉ những giá trị đặc thù từng
giai đoạn như văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn.
Còn theo nghĩa rộng, văn hóa được xem là tất cả những gì do con người sáng
tạo ra. Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ
thuật, thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh… Ngoài ra, người ta hay gắn khái niệm
văn hóa với các lĩnh vực khác như ẩm thực, trang phục, cư xử, trình độ học vấn,
giáo dục… để nói văn hóa ẩm thực, văn hóa công sở,… Tóm lại, tùy từng mục tiêu,



19
mục đích nghiên cứu khác nhau, văn hóa được tiếp cận từ những góc độ khác nhau,
từ đó nó trở thành một khái niệm mang nội hàm rộng nhất.
Khái niệm văn hóa xuất hiện sớm. Ở phương Đông, văn hóa được hiểu là
cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị, dùng văn hóa, dùng cái hay, cái
đẹp để giáo dục, cảm hóa con người. Chính vì vậy, văn thường được hiểu trong thế
đối lập với võ, là dùng sức mạnh gươm đao để cai trị. Ở nước ta, Nguyễn Trãi cũng
đã từng kỳ vọng một xã hội văn trị như thế. Ở phương Tây, văn hóa bắt nguồn từ
tiếng Latinh, nghĩa là vun trồng, tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của
con người.
Trong vai trò một tổ chức quốc tế, UNESCO tại Hội nghị Quốc tế năm 1982
(ở Mêhico) nhấn mạnh văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc kia: ng th nht tinh tht ch
tu m, quya mi hay ca mi trong
m ngh thung li sng, nhng quy
bn ci, nhng h th, nhng tp tng.
i kh  b[31, tr. 5].
Tại Việt Nam, chúng ta có thể điểm lại một số định nghĩa văn hóa tiêu biểu
của các nhà văn hóa hàng đầu như: Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm, Đào Duy
Anh, Phan Ngọc… Nhấn mạnh vai trò chủ thể của văn hóa là con người, Trần Quốc
Vượng định nghĩa:  c bii b
t t li sng, mt th ng x, mt  ti
i v 
vi h thng nhng chun mc, nh  , nhng bi ng, nhng quan
nin t tri th thut ca con i [31, tr.35-
36]; Trần Ngọc Thêm lưu ý cả tính hệ thống, lịch sử, tính giá trị, nhân sinh của văn
hóa nên theo ông: t h thng h vt chn
ng thc tin, trong s 
  i v  ng t    i c [27, tr.25]. Tuy



20
nhiên sau đó, tác giả tự bổ sung vào định nghĩa ấy tính biểu tượng như một đặc
trưng quan trọng của văn hóa: 



 thng  


















 




, 


ng t 





 [80].

H1.1.1a. 
Trần Nho Thìn trong công trình nổi tiếng Văn học Trung đại Việt Nam dưới
góc nhìn văn hóa có nêu định nghĩa: t h th
i quan h nh ci, nh c
i sinh, hoi sinh [28, tr.13]. Theo nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên, từ
nhiều khải niệm khác nhau có thể tổng hợp và chỉ ra các nét nghĩa chủ yếu, cơ bản
về khái niệm văn hóa như sau:
- t hog to ch i m
- Hoc hong ci sng
i sng vt chi sng xa hi sng tinh thn.
- u ca nhng hoo  c
truyn t th h  h c.
- i c
lch st ci c[20, tr.252].


21
Vậy dù theo khuynh hướng nào, rộng hay hẹp thì mọi định nghĩa văn hóa
đều chứa đựng một nét chung là “con người”, đều khẳng định mối quan hệ mật thiết

con người và văn hóa. Thứ hai, các định nghĩa đều thống nhất khẳng định tính hệ
thống giá trị và tính khu biệt của văn hóa. Đó là sự khu biệt với tự nhiên và khu biệt
bản sắc khi nói đến văn hóa ở các cấp độ cụ thể. Chẳng hạn cấp độ dân tộc, vùng,
địa phương, mỗi dân tộc, vùng, địa phương có những đặc trưng văn hóa riêng trên
cơ sở văn hóa khu vực thống nhất.
Văn hóa được biểu hiện chan hòa trong đời sống, từ phong tục, tập quán, nếp
sống, tín ngưỡng, tôn giáo cho đến kinh tế, chính trị, các thành quả xây dựng,
nghiên cứu khoa học,… nhưng văn hóa được biểu hiện tập trung nhất ở các lĩnh vực
sáng tạo nghệ thuật, ở đâu có nghệ thuật, ở đó có văn hóa. Văn học trong vai trò là
mảnh ghép quan trọng, đa sắc màu của nghệ thuật chính là một biểu hiện đậm nét
của văn hóa.
Vậy, có thể thấy văn hóa là tất cả những giá trị vật chất, tinh thần có tính lịch
sử do con người sáng tạo ra trên nền môi trường tự nhiên, xã hội cụ thể. Văn hóa
thể hiện diện mạo của cộng đồng. Với đề tài này, chúng tôi chỉ giới hạn tìm hiểu
văn hóa ở các phạm trù tinh thần, và cụ thể hơn là VHDG truyền thống.
Từ khái niệm văn hóa, người ta đưa đến tìm hiểu mã văn hóa. Văn hóa được
biểu hiện thành các mã, đó là hình thức, vẻ bề ngoài theo hình dung thông thường
về khái niệm mã (code). Theo Trần Lê Bảo 
 t


 [17, tr. 26]. Nghiên cứu văn hóa chính là với mục tiêu tìm ra
các mã văn hóa đó. Nó khi đủ phong phú sẽ trở thành một bảng quy ước đặc trưng
đủ để gọi tên một nền văn hóa.
Vc
Theo  (bộ mới), văn học là 



22


[22, tr.1942]. Văn học là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, kết
quả của tiến trình lao động nghệ thuật của cá nhân nhà văn hay của một tập thể. Các
sáng tác văn học chủ yếu thuộc 3 loại hình cơ bản: tự sự, trữ tình và kịch. Ở một
khía cạnh khác, văn học được chia thành hai bộ phận là văn học dân gian và văn
học thành văn (văn học viết).
Cũng như tất cả các loại hình nghệ thuật khác, văn học chịu một sự tác động
chung, mạnh mẽ từ văn hóa. Văn học tham gia cấu thành thành nên nghệ thuật,
chính là phương diện biểu hiện tập trung nhất của văn hóa. Thực vậy, một phương
diện của nội dung tác phẩm văn 

              
(G.N.Poxpelov). Mối quan hệ văn học và văn hóa là mối quan hệ giữa một chỉnh thể
với thành tố của nó, nhưng là một mối quan hệ khăng khít, thường xuyên trên cả
phương diện lý luận lẫn thực tiễn.

Như trên có nói đến tính chất khu biệt của văn hóa với mỗi cộng đồng người
và trong quá trình lịch sử, do vậy, văn hóa có tính chất lịch sử. Khi nói đến VHDG,
một mặt người ta nghĩ đến việc bổ văn hóa theo chiều dọc, tức chia thành các giai
đoạn lịch sử của nó, và chúng ta có tương ứng với VHDG là văn hóa trung đại, văn
hóa hiện đại, văn hóa đương đại với những dấu mốc cụ thể theo quy ước của từng
nền văn hóa cụ thể. Với nghĩa đó, VHDG là văn hóa cộng đồng ở giai đoạn đầu của
nền văn hóa mỗi dân tộc. i ngun c
n vi lch
s i cn sp tc
[80]. Nói như vậy không chỉ để khu biệt VHDG với văn hóa trung đại, hiện đại,
đương đại đơn thuần theo lát cắt lịch sử, mà còn hàm chứa trong đó tính chất đặc
trưng của mỗi khu vực văn hóa.



23
Gắn với dân gian, văn hóa có thể hiểu nôm na là văn hóa của cộng đồng.
Thuật ngữ  hiểu theo chiết tự Hán Việt:  là cộng đồng người nói chung;
gian: nghĩa là khoảng, vùng, khu vực rộng lớn; là trong khu vực, vùng của
dân. Vậy VHDG là những sáng tạo của dân, từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống
của dân. Từ đây, VHDG còn được phân biệt với văn hóa bác học, văn hóa cung
đình… VHDG được thể hiện ở mọi lĩnh vực, mọi không gian, mọi thời điểm. Chính
vì thế người ta có khái niệm VHDG đương đại, để chỉ những sáng tạo văn hóa của
cộng đồng ở thời điểm hiện tại.
Thuật ngữ quốc tế Folklore – VHDG được WJ.Thom sử dụng đầu tiên vào
năm 1846 để chỉ “phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ… của
người thời trước”. Từ đó đến nay, bộ môn VHDG học đã ra đời và phát triển với ba
trường phái lớn: trường phái Folklore Anh – Mỹ chịu ảnh hưởng nhân học; trường
phái Folklore Tây Âu (Pháp - Italia) chịu ảnh hưởng xã hội học và trường phái
Folklore Nga chịu ảnh hưởng văn học. Ở Việt Nam, thuật ngữ Folklore được sử
dụng từ lâu, từng thời kỳ khác nhau được dịch ra khác nhau là “văn học dân gian”,
“văn nghệ dân gian”, nay là “VHDG”. Trần Ngọc Thêm có khái quát: hin nay 
Viu tri
vc: (t, t, t
;  n,
n t
; [80].
Một đặc trưng tiêu biểu của VHDG là tính nguyên hợp. Theo Hoài Thanh thì
Từ thuở sơ sinh, nhạc, thơ, múa và kịch đều chung một mâm. Đến khi lớn lên thì
các loại hình tác bạch ra, nhưng vẫn phải nương tựa vào nhau. Thơ dân gian tồn tại,
phát triển và lưu truyền bằng hát đối đáp. Nếu bỏ nhạc thì múa khó thành. Mất sự
tích văn học, mất làn điệu, mất múa thì chèo cũng mất. Tranh Đông Hồ cũng phải đi
liền với hội tết”. Chính vì vậy trong quá trình nghiên cứu không được tách rời mà
phải đặt từng thành tố đó trong toàn bộ chỉnh thể và nhìn nhận trong mối tương
quan với các thành tố khác.



24
VHDG Việt Nam hình thành từ rất lâu đời: 



[80]. VHDG có vai trò vô cùng quan trong trong việc hình thành bản sắc
văn hóa dân tộc. Nó cũng được coi là hệ giá trị và biểu tượng của văn hóa dân tộc.
Tính giá trị để khu biệt những yếu tố phi giá trị và những giá trị được kết tinh, thăng
hoa mới trở thành biểu tượng, biểu tượng đến lượt nó là cái biểu hiện giá trị một
cách ngầm ẩn: H  c hc biu hin trong VHDG,
 ng c yu gn vi VHDG. H bin
ch s nh nhng x ca cng
ng [82]. VHDG với hệ giá trị và biểu tượng của nó đã làm nên cái gọi là tâm thức
dân gian, tâm hồn dân tộc, những cái làm nên bản sắc dân tộc độc đáo đáng tự hào
của dân tộc.

Như trên đã nói, văn học dân gian cùng với văn học viết là hai bộ phận hợp
thành văn học. T n thut ng c (bộ mới) có định nghĩa: 
          n mi  m ch
nh  thu  c    thi k
n mnh m n c
thi hii [20, tr.1947]. Văn học dân gian và văn học viết là hai khái niệm chỉ
hai hệ thống nghệ thuật khác nhau. Chúng tồn tại độc lập và có những đặc trưng
riêng nên khả năng nghệ thuật của việc nhận thức và tái tạo hiện thực trong văn học
dân gian và văn học viết là không giống nhau. Một số yếu tố đặc trưng của văn học
dân gian cũng là những điểm khu biệt văn học dân gian với văn học viết có thể kể
đến như tính truyền miệng, nguồn gốc và sự tồn tại, tính biến đổi của văn bản (dị
bản), tính bền vững, ổn định và lặp lại của một số khái niệm, motif, tính rập khuôn

của hình ảnh, ngôn ngữ…

×