Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Sự ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 135 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ HẢI YẾN




SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA THƠ CA DÂN GIAN
TRONG THƠ TỐ HỮU



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam







Hà Nội-2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ HẢI YẾN




SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA THƠ CA DÂN GIAN
TRONG THƠ TỐ HỮU





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lƣu Khánh Thơ




Hà Nội-2014


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc




XÁC NHẬN SỬA CHỮA LUẬN VĂN THẠC SỸ SAU BẢO VỆ


Tôi là: PGS.TS Lý Hoài Thu, chủ tịch Hội đồng chấm luận văn Thạc
sỹ cho học viên Nguyễn Thị Hải Yến
Đề tài luận văn: Sự ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu
Mã số: 60 22 01 21
Học viên đã sửa chữa luận văn theo đúng quy định của nhà trƣờng và
quyết định của hội đồng ra ngày 08/12/2014.

Hà Nội, ngày 13 tháng 12 năm 2014
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG




PGS.TS Lý Hoài Thu


LỜI CẢM ƠN!
Luận văn thạc sĩ của em đƣợc hoàn thành, bản thân em đã nhận đƣợc rất
nhiều những sự động viên và giúp đỡ của Thầy Cô và những ngƣời thân!
Trƣớc hết là sự quan tâm, chỉ bảo và giúp đỡ của Cô giáo PGS.TS Lƣu
Khánh Thơ.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới Cô giáo PGS.TS Lƣu
Khánh Thơ. Ngƣời thầy đã dày công tận tâm giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài và hoàn thành luận văn.

Nhân dịp này em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thầy giáo chủ nhiệm lớp
Đại học Bùi Việt Thắng – giảng viên khoa Văn học Đại học KHXH&NV – ĐHQG
Hà Nội cùng bác Nguyễn Ngọc Thành (PGS.TS) Khoa triết học – Đại học
KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành tới BGH trƣờng Đại học KHXH&NV,
Thầy Cô phòng Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Văn học, tập thể Thầy Cô khoa
Văn học (đặc biệt là các Thầy Cô tổ Văn học Việt Nam hiện đại) đã giảng dạy và
giúp đỡ tạo điều kiện cho em trong khóa học và trong thời gian làm luận văn tại
trƣờng.
Cuối cùng, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và em Bùi Văn
Ngân – ĐHQG Hà Nội thời gian qua đã đồng hành bên em, động viên, khích lệ em
trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

Hà Nội, năm 2014
Học viên cao học



Nguyễn Thị Hải Yến
1

MỤC LỤC


Trang
MỤC LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
3
Chƣơng 1: Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện

đại và con đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu.
14
1.1. Ảnh hưởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại qua các
thời kỳ
14
1.1.1. Thơ Mới
15
1.1.2. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp
24
1.1.3. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước
29
1.2. Con đường sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu
33
1.2.1. Vài nét về tiểu sử của nhà thơ Tố Hữu
33
1.2.2. Con đường sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu
36
1.2.2.1. Thời kỳ trước cách mạng 1945: Từ ấy
36
1.2.2.2. Thời kỳ 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 – 1975)
37
1.2.2.3. Thời kỳ sau 1975:“Một tiếng đờn” (1979 – 1992) – “Ta với
ta” (1993 – 1999)
39
1.2.3. Quan niệm của Tố Hữu về thơ
39
1.2.3.1. “Thơ là chuyện đồng điệu – Tiếng nói đồng ý, đồng tình
đồng chí”
40
1.2.3.2. Sự thể hiện quan niệm về thơ trong sáng tác của nhà thơ Tố

41
2

Hữu
Chƣơng 2: Thơ ca dân gian và những mạch nguồn cảm xúc trong thơ
Tố Hữu.
46
2.1. Cảm xúc thơ bắt nguồn từ tình yêu thiên nhiên đất nước
46
2.2. Cảm xúc thơ bắt nguồn từ vẻ đẹp của nghĩa tình thủy chung
51
2.3. Mạch nguồn cảm xúc thơ về vẻ đẹp của người lao động
59
Chương 3: Sự ảnh hưởng thơ ca dân gian trong nghệ thuật thơ Tố
Hữu
66
3.1. Hình ảnh – biểu tượng thơ
66
3.1.1. Hình ảnh thơ
66
3.1.2. Biểu tượng thơ
72
3.2. Thể thơ
87
3.2.1. Thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ
88
3.2.2. Thể thơ lục bát
89
3.2.3. Thể thơ thất ngôn
94

3.2.4. Thể thơ song thất lục bát
96
3.3. Ngôn ngữ thơ
98
3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ
98
3.3.2. Ngôn ngữ thơ Tố Hữu
100
3.4. Giọng điệu
112
PHẦN KẾT LUẬN
124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
126

3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Tố Hữu là một trong những ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng
Việt Nam. Ông xuất thân từ một thanh niên trí thức tiểu tƣ sản, và đƣợc giác ngộ lý
tƣởng cộng sản từ sớm.
Thơ Tố Hữu chan chứa chất trữ tình, đƣờng cách mạng đƣờng thơ gắn bó
chặt chẽ và xuyên suốt trong sự nghiệp của ông. Trọn cuộc đời với lý tƣởng cách
mạng, thi sĩ Tố Hữu chƣa bao giờ tách biệt khỏi nhà chính trị Tố Hữu. Bởi, con
đƣờng sáng tác thơ ca của Tố Hữu luôn luôn song hành với con đƣờng cách mạng
mà ông đã lựa chọn.
1.2. Sự trƣởng thành của tài năng thơ Tố Hữu luôn gắn liền với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Tập thơ đầu tay Từ ấy ra đời năm 1937, đã khẳng định vị trí
quan trọng của ông trên văn đàn. Kể từ đó, con đƣờng sáng tạo của Tố Hữu là một

quá trình phát triển phong phú, đa dạng, với các tập thơ: Việt Bắc, Gió lộng, Ra
trận, Máu và hoa. Tiếp sau đó, từ sau năm 1978 – nhà thơ vẫn tiếp tục sự nghiệp
sáng tác của mình. Với các bài thơ ở thời kỳ này đã đƣợc tập hợp trong Một tiếng
đờn – (1992, Giải thƣởng Asean) và Ta với ta (1999). Hòa lẫn cùng hào khí thiêng
liêng của đất nƣớc, những vần thơ Tố Hữu chất chứa sự trầm lắng và suy tƣ, nhƣng
vẫn toát lên yếu tố kiên định lập trƣờng với những niềm tin sắt son trong công cuộc
đổi mới của Đảng, của đất nƣớc và dân tộc. Tố Hữu đƣợc tặng giải thƣởng Hồ Chí
Minh về Văn học nghệ thuật (1996).
1.3. Nói đến thơ Tố Hữu, bạn đọc đƣơng thời của chúng ta đều có chung
sự cảm nhận: “Thơ là tấm gƣơng của tâm hồn” – Đó là những trải nghiệm của tâm
hồn ngƣời chiến sĩ cộng sản, suốt một đời hy sinh và đấu tranh cho lẽ sống, tình đời
– tình ngƣời, nhƣng mang tính thời sự và đậm chất hiện đại.
Tố Hữu là một trong số những nhà thơ Việt Nam hiện đại thành công nhất
với việc vận dụng hình thức nghệ thuật dân tộc vào sáng tác của mình. Thơ Tố Hữu
đã tiếp thu ảnh hƣởng của yếu tố thơ ca dân gian – âm hƣởng cũng nhƣ nhịp điệu
4

của thể thơ dân gian luôn nhẹ nhàng, êm ái, phù hợp với tâm hồn con ngƣời Việt
Nam.
1.4. Đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập tới Tố Hữu. Song
còn thiếu những đề tài nghiên cứu thơ Tố Hữu một cách hệ thống và chuyên sâu về
ảnh hƣởng của yếu tố thơ ca dân gian. Ta có thể thấy đƣợc sự ảnh hƣởng yếu tố thơ
ca dân gian, đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của Tố
Hữu. Điều đó, đã trở thành một phần của đời sống tinh thần trong nhiều thế hệ bạn
đọc và cũng có ảnh hƣởng đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Thơ Tố Hữu đã đƣợc chọn giảng ở cấp bậc Đại học và bậc THPT. Là một
giáo viên dạy văn ở bậc THPT – tôi rất yêu thích, tìm hiểu và nghiên cứu về thơ Tố
Hữu.
Tất cả những lý do trên đây, đã khiến cho bản thân tôi quyết định chọn đề
tài: Sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu.

2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Với việc nghiên cứu đề tài luận văn này, chúng tôi sẽ tìm hiểu và nghiên cứu
một cách hệ thống, toàn diện, khái quát về sự ảnh hƣởng của yếu tố dân gian trong
thơ Tố Hữu – từ nội dung lẫn hình thức thể hiện và đi đến sự đánh giá tài năng nghệ
thuật của Tố Hữu qua các sáng tác trong từng giai đoạn.
Qua đó, luận văn của chúng tôi sẽ góp phần khẳng định sự đóng góp của thơ
Tố Hữu đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Bản thân tôi cũng hy vọng qua luận văn này, sẽ giúp cho chính mình trong
việc dạy và học về Tố Hữu ở bậc THPT.
3. Nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu:
Luận văn khảo sát yếu tố thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu.
Đối tƣợng chính là nghiên cứu toàn bộ thơ Tố Hữu trong các chặng đƣờng
sáng tác. Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ khảo sát và tìm hiểu một số tập thơ của các
tác giả khác, để từ đó có sự so sánh, đối chiếu, nhằm làm nổi bật vấn đề trong từng
khía cạnh của đề tài luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
5

Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Giúp cho chúng tôi tiến hành việc phân tích các tác phẩm tiêu biểu của Tố
Hữu – và chỉ ra đƣợc sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian qua các sáng tác – từ đó chúng
tôi sẽ tổng hợp một cách khái quát với từng khía cạnh biểu hiện, sắp xếp theo luận
điểm của từng chƣơng trong luận văn.
Phương pháp so sánh:
Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để nêu bật đƣợc những khía cạnh đặc
trƣng riêng trong phong cách thể hiện về “sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian” của Tố
Hữu với một số nhà thơ khác.
Phương pháp thi pháp học:
Nghiên cứu hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học – đặt nó trong các

mối quan hệ với nội dung; chỉ ra các đặc trƣng của nhà thơ Tố Hữu.
5. Lịch sử vấn đề:
Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu luôn đƣợc coi là một trong
số tác gia lớn tiêu biểu. Số lƣợng các công trình khoa học, cũng nhƣ các bài viết về
tác giả, sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu rất lớn. Cùng với sự sƣu tầm và lĩnh hội về
các tƣ liệu trong các bài nghiên cứu, chuyên luận của các nhà nghiên cứu văn học
về Tố Hữu, chúng tôi tổng hợp lại thành những mục sau đây:
5.1. Các công trình nghiên cứu khái quát về Thơ Tố Hữu:
Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đƣa ra những nhận xét và đánh giá về
nhà thơ Tố Hữu một cách sâu sắc, rõ nét. Qua đó, khẳng định Tố Hữu luôn đƣợc
độc giả quan tâm và đề cập tới nhiều.
Chế Lan Viên trong Suy nghĩ và bình luận (NXB Văn học – Hà Nội 1971) đã
khẳng định: “Nói đến Tố Hữu – về thơ, phải nói vai trò mở đầu và hiện vẫn là dẫn
đầu của anh trong nền thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Sự thành
công của anh trƣớc cách mạng đã xúc tiến sự hình thành của thơ hiện thực xã hội
chủ nghĩa sau cách mạng. Khi chúng ta đang tìm đƣờng, nhận đƣờng thì đã thấy
một ví dụ sống trên đƣờng là tác phẩm của Tố Hữu đây rồi”. Trong cuộc đời sáng
6

tác Tố Hữu luôn đƣợc đề cao là một tác gia hàng đầu của nền thơ Việt Nam hiện
đại.
Thành tựu của thơ ông luôn là một tấm gƣơng sáng ngời, luôn tỏa sáng trong
lòng độc giả - đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Thơ ông nhƣ một trang đời, trƣờng tồn
với thời gian lịch sử.
Chính trang thơ của Tố Hữu, phần nào đã để lại niềm tôn kính, cảm phục với
thi sĩ Bla-ga Đi mi trô va trong Ngày phán xử cuối cùng (NXB Thanh niên – Hà Nội
1973). Bà đã đƣa ra những lời nhận xét xác thực để khẳng định giá trị trƣờng tồn,
bất hủ về thơ của Tố Hữu: “Giống nhƣ căng đƣợc một sợi dây đàn từ mặt đất lên
bầu trời và gẩy lên bài ca mà cả mặt đất lẫn bầu trời đều hiểu đƣợc, vì nhà thơ ấy
muốn là tiếng nói của dân tộc mình”.

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam
(NXB KHXH Hà Nội) cũng đã tổng kết lại một cách cô đọng và súc tích khi nói về
Tố Hữu: “Tố Hữu, nhà thơ lớn của ta, đã vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và
nghệ thuật ƣu tú của văn học dân gian vào sáng tác của mình”.
GS Hà Minh Đức với công trình nghiên cứu của mình trong Tố Hữu – Cách
mạng và thơ (NXB ĐHQG Hà Nội, 2004) đã có những lời đánh giá một cách triệt
để, sâu sắc về Tố Hữu “một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc” [10, 173].
Công trình nghiên cứu Tố Hữu – thơ và cách mạng (NXB Hội nhà văn 1996) đã tập
trung rất nhiều các bài viết về Tố Hữu trong các khía cạnh biểu hiện cụ thể.
Với rất nhiều công trình nghiên cứu về Thơ Tố Hữu, GS Hà Minh Đức ở bài
viết Từ ấy đến Một tiếng đờn (Nhà văn nói về tác phẩm – NXB Văn học, Hà Nội
1994) cũng đã khái lƣợc một cách tổng quan về sự trƣờng tồn của các tập thơ trong
hình thức và phƣơng diện biểu hiện cụ thể: “Từ ấy là một tập thơ mang rõ nét tình
cảm ban đầu chân thực, trong sáng của tuổi trẻ đến với cách mạng, cái tôi tìm đến
cuộc đời chung, đến lẽ sống đẹp để hòa nhập. Một tiếng đờn cũng là một khúc riêng
chung, là những chiêm nghiệm nghĩ suy của một đời trên nửa thế kỷ đấu tranh, qua
bao buồn, vui, đƣợc mất hồn thơ đang lắng lại với thời gian và tuổi tác và gợi mở
nhiều tâm sự của tác giả”.
7

Chuyên luận Thơ Tố Hữu (NXB ĐH và THCN, 1979) – Lê Đình Kỵ cũng
khái quát một cách trọn vẹn về hình thức và nội dung thể hiện; qua các tập thơ trong
từng thời kỳ lịch sử. Đó là một sự nhìn nhận, đánh giá – khẳng định giá trị trƣờng
tồn tập thơ Tố Hữu.
Đặc biệt trong chuyên luận “Thi pháp Thơ Tố Hữu” – Trần Đình Sử cũng đã
chỉ ra đƣợc những đặc sắc trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về thơ của Tố Hữu. Trần
Đình Sử cũng khẳng định trong công trình nghiên cứu của mình về thơ Tố Hữu đề
cập tới khía cạnh biểu tƣợng; hình ảnh qua tác phẩm.
Biểu tƣợng mà Trần Đình Sử đề cập trong thi pháp thơ Tố Hữu là “con
đƣờng”, đó là: con đƣờng là biểu tƣợng của sự thống nhất của không gian và thời

gian, là không gian vận động, không gian của con ngƣời đi tới”. [41, 171]
Tác giả Trần Đình Sử đã chỉ rõ những biểu tƣợng con đƣờng trong các tập
thơ của Tố Hữu qua các thời kì sáng tác. Trần Đình Sử đã viết: “Sự tổng hợp thơ Tố
Hữu nằm trong loại thơ trữ tình chính trị cũng là một điều hợp quy luật của sự phát
triển của thơ ca cách mạng Việt Nam và của thơ nói chung”. [41, 29]
Đỗ Quang Lƣu (tuyển chọn), nghiên cứu – bình luận thơ Tố Hữu: Đến với
thơ Tố Hữu: Đó là những sự suy nghĩ, những cảm xúc – hồi tƣởng khi đọc thơ Tố
Hữu: “Thơ Tố Hữu giữa những ngày tháng đầy sôi động của cách mạng tháng Tám,
lớp trẻ chúng tôi chợt thấy nhƣ lóe sáng lên trong tâm tƣ mình một điều gì đó bấy
lâu mình cũng hằng ấp ủ trong tiềm thức mà chƣa kịp nhận thức, chƣa hình dung ra
đƣợc thật cụ thể. Đến lúc này chợt thấy nó nhƣ rất gần gũi, rất hiển nhiên và dĩ
nhiên cũng giàu sức lôi cuốn biết mấy đối với chúng tôi - lớp đầu xanh tuổi trẻ vốn
luôn luôn khao khát cái mới, nay bỗng cảm thấy tràn đầy ƣớc vọng về cuộc sống; về
tự do; nhƣng không chỉ là cuộc sống và tự do của cá nhân mình, mà còn là của cả
một cộng đồng, một xã hội ngột ngạt quanh mình đang kết thành một khối nhất tề
đứng lên trong ánh sáng chói chang của cách mạng! ” [28, 243]
Lƣu Khánh Thơ trong Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại – đã
khái quát về sự ảnh hƣởng của tập thơ Từ ấy với phong trào Thơ mới: “Tƣ tƣởng,
tình cảm cách mạng ở một tâm hồn thi sĩ, đòi hỏi phải đƣợc thể hiện bằng một hình
8

thức nghệ thuật mới. Trong thời điểm đó thì “Thơ mới là hình thức thích hợp và có
hiệu quả nhất”. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét rất chính xác rằng: “Tố Hữu đã
dùng những yếu tố của phong trào Thơ mới lãng mạn đang thịnh hành đƣơng thời,
đem vào thơ của mình và diễn đạt cái tinh thần cách mạng lối mới, cách mạng vô
sản… cái phong cách lãng mạn kia, tức là cảm xúc đầy rẫy, đồng thời với việc cá
thể hóa”. Cảm xúc đầy rẫy và cá thể hóa, có lẽ đó là những đặc điểm lớn nhất tạo
nên sức hấp dẫn đặc biệt của Từ ấy. Điểm khác biệt lớn nhất của Thơ mới và Từ ấy
là thế giới quan và nhân sinh quan của chủ thể sáng tạo”. [54, 18-19]
Về sự vận động từ cái tôi đến cái ta trong thơ Tố Hữu, Nguyễn Bá Thành đã

nhận xét: “Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu vẫn giữ vị trí “tiền đạo” trong những
bài thơ viết trực tiếp về kỷ niệm quê hƣơng hay những vùng gắn bó. Nhƣng ngay ở
vị trí quan trọng đó thì cái tôi cũng đã bắt đầu hòa lẫn vào trong các nhân vật trữ
tình khác”. [50, 250]
“Ta có thể nói rằng trong thơ Tố Hữu, đã có một tiến trình vận động của cái
tôi, từ cái tôi trực tiếp đến cái tôi gián tiếp, đến cái tôi phƣơng tiện. Đó là quá trình
thơ từ bộc lộ cái tôi, đến phản ánh cái ta hay là từ cái tôi tự biểu hiện đến cái tôi
nhân danh, cái tôi thành viên. Sau này lại có thời gian trở về với cái tôi tự biểu
hiện”. [50, 251]
Có rất nhiều các ý kiến bàn luận đề cập đến các vấn đề cơ bản: Con đường
thơ, phong cách thơ và quan niệm về thơ của Tố Hữu. Điểm then chốt của các ý
kiến bàn luận này chủ yếu là những bài viết:
Bài viết của PIÈRREEMMANUEL Máu và hoa – Con đƣờng của nhà thơ Tố
Hữu trong lời tựa tập thơ Máu và hoa – Con đƣờng của nhà thơ Tố Hữu, bản tiếng
Pháp, Xuân Diệu dịch 8/7/1975, cũng có những lời nhận xét: “Một nhà thơ hiện đại
Việt Nam kể lại đời mình vừa đọc lên và bình luận những bài thơ của mình. Cuộc
đời ấy là một cuộc chiến đấu, nhƣng những bài thơ của anh là bấy nhiêu khúc hát ân
tình”. [15, 355]
Trong định hƣớng tƣ duy và quan hệ chủ thể trong thơ cách mạng 1945 –
1985. Ở vấn đề tƣ duy thơ hƣớng ngoại, Nguyễn Bá Thành đã đƣa ra sự tổng kết về
9

con đƣờng thơ Tố Hữu qua các sáng tác: “Từ tập Việt Bắc trở đi, thơ Tố Hữu chủ
yếu là hƣớng ngoại”. [50, 217]
Sự khẳng định rõ nét của Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Con đường thơ
của Tố Hữu (in trong Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo
dục, tháng 4/1994) đã chỉ ra đƣợc những mặt mạnh cũng nhƣ mặt hạn chế của thơ
Tố Hữu với những nhận xét khái quát về các tập thơ trong sáng tác:
“Thành công của thơ Tố Hữu, xét đến cùng là do sự gặp gỡ may mắn giữa
dòng thơ tuyên truyền chính trị của những ngƣời cộng sản với một tài năng thực sự,

một thi sĩ thực sự, khiến cho, nói nhƣ Sóng Hồng, “Thơ chính trị” cũng có thể là
“Thơ trăm phần trăm, như các thơ khác”. Thơ Tố Hữu nhiều khi không tránh khỏi
phải trả giá cho những sự thiếu thống nhất nào đó giữa chính trị và chân lý đời sống,
giữa ý chí, ƣớc mơ và hiện thực.
Nhƣợc điểm này thực ra chẳng phải là riêng của Tố Hữu. Chẳng qua là vì Tố
Hữu chủ yếu chỉ làm thơ chính trị nên nhƣợc điểm ấy đã lộ ra rõ hơn mà thôi. Nhìn
chung, thơ Tố Hữu, từ bài đầu tiên đến tập thơ cuối cùng (Máu và hoa) đều đƣợc
sáng tác trong cảm hứng lãng mạn chủ nghĩa. Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ tiêu
biểu nhất của “Cái thời lãng mạn” (Nguyễn Khải) trên đất nƣớc ta”. [23, 268]
Về Phong cách thơ Tố Hữu, cũng có khá nhiều bài viết đề cập tới. Song có
thể thấy bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hạnh Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu
– một bài viết thể hiện khá đầy đủ, trình bày rõ nét về hình thức nghệ thuật của các
tập thơ trên nhiều phƣơng diện và chỉ ra đƣợc những đặc điểm lớn trong phong cách
nghệ thuật của Tố Hữu. “Phong cách của Tố Hữu rất đa dạng, bút pháp của anh linh
hoạt và luôn luôn phát triển. Tố Hữu vừa hùng tráng vừa tha thiết, vừa sảng khoái
vừa xót xa, vừa yêu thƣơng vừa căm giận. Hiện tƣợng bao giờ cũng phong phú hơn
quy luật. Đây chỉ mới là những nét tƣơng đối ổn định và dễ nhận thấy trong phong
cách nghệ thuật của anh.” (1967 – 1969, Nội san nghiên cứu văn học, Trƣờng
ĐHSP I, Hà Nội, số 3/1970) [32, 57]
Bài viết Quan niệm của Tố Hữu về thơ của Mai Hƣơng; đƣợc trích lọc qua
một số bài viết, bài nói, và sáng tác thơ, in trong Tạp chí Văn học, số 4/1975. Bài
10

viết này là một sự tổng kết những ý kiến trong quan niệm của Tố Hữu về thơ với
những nội dung và hình thức nghệ thuật. Từ đó tác giả Mai Hƣơng khẳng định “trên
những chặng đƣờng thơ, những chặng đƣờng hoạt động của anh, về thơ ngày càng
sáng rõ, sâu sắc và phát triển lên. Nói chung, những ý kiến của anh về đƣờng hƣớng
và nhiệm vụ của thơ ca nhƣ quan hệ giữa chính trị và thơ, quan hệ giữa đời sống và
thơ, vấn đề kế thừa và tiếp thu, về phong cách, đặc trƣng của thơ… Có thể coi là
những ý kiến cơ bản, có ý nghĩa quan trọng”… [33, 457]

5.2. Các công trình nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu:
Đặng Thai Mai (Mấy ý nghĩ) in trong sách Từ ấy, NXB Văn học, H_1959
(trang 9) – có nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục cách mạng từ trƣớc đến
sau”.
Khi giới thiệu về tập thơ của Tố Hữu, tác giả Trần Huy Liệu trong bài viết tại
thành Hoàng Diệu 23/06/1946 – sau 9 tháng kháng chiến ở Nam Bộ cũng đã chỉ rõ
trong việc nhìn nhận về đời và thơ của Tố Hữu:
“Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển
về tƣ tƣởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động cách mạng của Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh,
một công tác vận động của ngƣời cách mạng. Ngƣời Tố Hữu là một thi sĩ, một
chiến sĩ, nhƣng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là một thi sĩ”.
K và T trong Tố Hữu – nhà thơ của tương lai [70] - tại Báo Mới số 1, tháng
5/1939. Đó là những điều khẳng định những đóng góp về giá trị của thơ Tố Hữu ở
phƣơng diện nội dung và hình thức biểu hiện.
Bài nhận xét về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Hà Xuân Trƣờng in trong
Báo Nhân Dân, số 329 – 24/01/1955: “Đây chính là phần mà nhà thơ Tố Hữu hấp
dẫn bạn đọc nhiều nhất, nâng cao tình cảm của chúng ta nhiều nhất. Và đây cũng
chính là phần sáng tƣơi nhất trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”.
Tác giả Lê Đình Kỵ, Từ ấy với phong trào Thơ mới (in trong Tạp chí Văn
nghệ, số 32 tháng 1/1960). Lê Đình Kỵ đã đánh giá cao về giá trị của tập thơ Từ ấy
trong nền cách mạng Việt Nam và qua đó tác giả cũng đi đến khẳng định “sự ảnh
11

hƣởng” của nền thơ Tố Hữu đối với phong trào Thơ mới – chỉ ra đƣợc mối tƣơng
quan của tập thơ với Thơ mới không chỉ hàm chứa ở hình thức mà còn biểu đạt ở
mặt phong cách sáng tác thơ Từ ấy. Vấn đề này Xuân Diệu cũng nhận định: “Tố
Hữu đã dùng những yếu tố của phong trào thơ lãng mạn đang thịnh hành đƣơng
thời, đem vào thơ của mình và diễn đạt cái tinh thần cách mạng lối mới, cách mạng
vô sản… Cái phong cách lãng mạn kia, tức là cảm xúc đầy rẫy, đồng thời với việc

cá thể hóa” (Bài của Xuân Diệu, trang 28 đến 30 – Tạp chí Văn học – số 28).
Hoài Thanh trong Tạp chí Nghiên cứu Văn học tháng 05/1960 cũng có bài
nghiên cứu đề cập tới tập thơ Từ ấy, thể hiện tiếng hát của một ngƣời thanh niên,
một ngƣời cộng sản. Hoài Thanh đã khái quát đầy đủ giá trị nội dung của tập Từ ấy
và khẳng định Từ ấy là một tập thơ đầu tay của Tố Hữu khi đón nhận lý tƣởng của
Đảng.
Trong một bài viết về Gió lộng – Hoài Thanh có nhận xét: “Gió lộng, một
bƣớc tiến mới của Thơ Tố Hữu, một tập thơ mang khí thế mới của cách mạng Việt
Nam (Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 8/1962) “Gió lộng trƣớc hết là một tiếng ca
vui của nhân dân ta trên miền Bắc sau khi hòa bình lập lại”.
“Có thể nói Gió lộng vẫn tiếp tục cái gan dạ của Từ ấy trong một hoàn cảnh
mới”.
Rất Tố Hữu mà không đơn điệu. Từ bài này sang bài khác, phong cách
thƣờng vẫn khác nhau. Có thể nói riêng một tập Gió lộng có khá nhiều loại thơ. Đặc
biệt có hai loại rất khác nhau: loại Bài ca mùa xuân 1961 và loại Ba mươi năm đời
ta có Đảng… Những lời nhận xét tƣởng chừng đơn giản, song nó hàm chứa đƣợc
những vấn đề trọng tâm của Hoài Thanh khi nhắc tới tập Gió lộng trong thời điểm
trƣớc bối cảnh đổi thay của đời sống đất nƣớc sau chiến tranh.
Bảo Định Giang trong Mấy ý nghĩ về tập thơ Gió lộng in trong Tạp chí Văn
nghệ số 66, tháng 11/1962, đã khái quát một cách sắc nét: “Gió lộng là một tập thơ
trữ tình mang tính chất hiện thực và tính chất thời đại rất lớn. Đó là một thành công
mới của Tố Hữu. Gió lộng có những đặc biệt riêng chỉ có trong thời kỳ xây dựng
12

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu trang thống nhất nƣớc nhà, trong khung cảnh
chung của cách mạng thế giới ngày càng thắng lợi”.
Tác giả Nguyễn Phú Trọng trong Tạp chí Văn học số 11 – 1968 cũng đã tổng
kết sâu sắc một cách cô đọng về sự ảnh hƣởng của ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu.
Bài viết với nội dung sâu sắc, dẫn dắt ngƣời đọc hiểu đƣợc sự ảnh hƣởng của thơ Tố
Hữu với cội nguồn văn hóa dân gian, đậm chất dân tộc.

Sự gặp gỡ của tác giả Hoàng Xuân Nhị trong bài viết Mấy suy nghĩ về thơ
sau cuộc gặp mặt đầu xuân với nhà thơ Tố Hữu (Tạp chí Văn học số 6, 1977).
Tác giả Hoàng Xuân Nhị đã đúc kết lại những nhận thức, ý tƣởng và nhận
xét khái quát về thơ Tố Hữu một cách khách quan:
“Bƣớc vào thế giới thơ Tố Hữu không dễ! Tâm trạng tôi lúc này, đầu xuân
Đinh Tỵ, nghiền ngẫm về thơ của đồng chí, là vừa hăm hở vừa băn khoăn…”
Hoàng Xuân Nhị cũng đã đề cập tới chủ đề bao trùm thơ Tố Hữu là cách
mạng Việt Nam. Ông đã định nghĩa về cách mạng và chỉ ra đặc điểm ở Tố Hữu qua
sáng tác.
Trịnh Bá Đĩnh (Tạp chí Văn học, số 10/1997), ghi lại một cách cụ thể và sắc
nét về sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong tâm hồn nhà thơ Tố Hữu với sự chắt lọc
của nhiều phƣơng diện nghệ thuật và nội dung các tập thơ một cách khác nhau.
Những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trƣớc là những gợi ý hết sức quý
báu trong việc nhìn nhận, đánh giá về sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian trong Tố
Hữu. Mặt khác cũng đã xác định cho chúng tôi có một hƣớng nghiên cứu khi xử lý
đề tài luận văn của mình.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
đƣợc cấu tạo thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại và con
đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu.
Chƣơng 2: Thơ ca dân gian và những mạch nguồn cảm xúc trong thơ Tố
Hữu.
13

Chƣơng 3: Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong nghệ thuật thơ Tố Hữu.
14

CHƢƠNG 1
Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại và con

đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu.
1.1. Ảnh hưởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại qua các
thời kỳ:
Từ thuở xa xƣa, thơ ca dân gian luôn là một nguồn cội tinh thần trong đời
sống mỗi con ngƣời Việt Nam. Chính điều đó, đã hình thành nên những nhà thơ có
những tiếng nói riêng trong nền văn học dân tộc, đƣợc rèn giũa và tôi luyện trong
nhiều giai đoạn văn học. Có thể thấy đƣợc mối quan hệ của sự ảnh hƣởng thơ ca
dân gian đối với thơ ca hiện đại. Đây là mối quan hệ tƣơng tác hai chiều, nó phát
triển song song tồn tại, gắn bó mật thiết với nhau. Đặc biệt ở mối quan hệ này nó
vừa mang tính quy luật cũng vừa mang tính phổ quát của thơ ca dân gian đối với
thơ ca Việt Nam hiện đại. Một trong những nét tinh túy nhất ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định, cũng là bƣớc mở đƣờng tinh anh cho lịch sử văn học phát triển và đạt
đƣợc nhiều thành tựu đáng kể của nền thơ hiện đại Việt Nam qua các thời kỳ.
Điều đó, đã dần dần khẳng định vị trí của nền văn học Việt Nam mang đậm
đà bản sắc dân tộc, luôn là điểm tựa cho sự kế thừa và phát huy “bầu sữa mẹ nuôi
dƣỡng” từ xƣa và nay.
Chúng ta có thể nói đến những nét kế thừa và phát huy đó đƣợc tiếp tục phát
triển trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, ở phƣơng diện sự ảnh hƣởng thơ ca dân
gian với thơ hiện đại Việt Nam.
Theo Hegel: “Thơ dân gian xem nhƣ một trong những dạng thức chính của
thơ ca trữ tình” [17, 1002]. Đó là vấn đề cơ bản phong phú, đa dạng, nhiều chiều
trên nhiều phƣơng thức thể hiện. Suy rộng ra thì thơ ca dân gian chính là nghệ thuật
ngôn từ dân gian Việt Nam và cũng là nơi lƣu giữ những giá trị truyền thống của
văn học dân tộc.
Tuy nhiên cũng có thể khẳng định lịch sử văn học là lịch sử tâm hồn dân tộc.
Nghiên cứu và tìm hiểu thơ ca dân gian cũng là tiếp nhận “những tinh hoa quá trình
sáng tạo nghệ thuật đầy cam go của mình” [5, 107]. Bởi vậy, cho nên việc tìm hiểu
15

nghiên cứu về lĩnh vực thơ ca dân gian có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đối với dòng thơ

hiện đại Việt Nam, là một việc cần thiết.
1.1.1. Thơ mới:
Điểm khởi sắc của phong trào Thơ mới là đã nói lên đƣợc “Một nhu cầu lớn
về tự do và về phát huy bản ngã” (Tố Hữu). Phong trào Thơ mới đã thực sự góp
phần rất quan trọng trong việc đƣa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện
đại. Và đó cũng là một cuộc đánh giá lại về các thể thơ cũ, tiếp thu những tinh hoa
của truyền thống, đồng thời học tập một cách sáng tạo thơ ca nƣớc ngoài, nhất là
thơ Pháp. Thơ mới có nhiều khả năng diễn đạt hơn hẳn lối “thơ cũ”, là nhờ ở thể
cách linh hoạt của Thơ mới trong cách hiệp vần phong phú, nhạc điệu dồi dào, lối
ngắt nhịp sinh động, ngôn ngữ gợi cảm, đầy hình tƣợng…
Đúng nhƣ nhận xét của Hoài Thanh trong thi nhân Việt Nam: “Ngày ngƣời
lái buôn phƣơng Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, ngƣời ấy đã mang theo cùng với
hàng hóa phƣơng Tây, cái mầm để sau này nảy nở thành Thơ mới”. Ý tƣởng chủ
đạo của Hoài Thanh đó là sự thể hiện một cách biện chứng trong cách nhìn nhận về
phong trào Thơ mới khi nó xuất hiện và ra đời.
Chính sự đổi mới của phong trào Thơ mới (1932 – 1945), thực sự đem lại
“một cuộc cách mạng” trong lĩnh vực thơ ca – nhiều tên tuổi rạng ngời, mang phong
cách dấu ấn riêng của nền thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX: Thế Lữ, Lƣu Trọng
Lƣ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… Đó là sự
khởi nguồn chất dân gian ở lĩnh vực thơ ca của mình trong sáng tác. Bằng tài năng
và sự sáng tạo nghệ thuật của mình, các nhà Thơ mới đã tạo nên sự tiếp nối giữa thơ
ca dân gian với thơ ca hiện đại trong nền văn học dân tộc.
Theo thời gian của sự trƣờng tồn và sự xuất hiện trên thi đàn văn học, phong
trào Thơ mới đã thực sự gắn liền hƣơng vị dân gian trong sáng tác của các nhà thơ.
Phần lớn các nhà thơ vẫn tiếp tục sáng tác với số lƣợng khá dồi dào và có những
thành tựu đạt tới đỉnh cao trên những chặng đƣờng mới – con đƣờng thơ ca của
riêng mình. Trƣớc hết có thể thấy: Thế Lữ - ngƣời “khởi điểm của những khởi
điểm”. Tên tuổi của Thế Lữ luôn gắn kết với tiến trình hiện đại nền văn học Việt
16


Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ
mới (1932 – 1945). Bản thân Thế Lữ có ít nhiều chịu ảnh hƣởng của thơ ca dân
gian, tuy không đậm đặc nhƣ Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… nhƣng trong
thể tài sáng tác, đặc biệt thể thơ truyền thống dân tộc cũng ít nhiều mang dƣ vị dân
gian.
Thế Lữ với Mấy vần thơ – 1935, trong đó có những bài thơ nổi tiếng: Nhớ
rừng – Tiếng sáo Thiên Thai – Cây đàn muôn điệu. Trong khí thế của phong trào
Thơ mới, các thi nhân đã sáng tạo ra một nhịp điệu mới trên sự kế thừa và phát huy;
thi điệu dân gian. Thi điệu dân gian luôn lấy lục bát làm thƣớc đo trong dung lƣợng
câu chữ. Thế Lữ đã vận dụng thơ lục bát để tạo ra những trang Thơ mới của thời đại
một cách tinh tế và sống động.
Thơ lục bát vốn là thể thơ đƣợc hình thành và tồn tại từ xa xƣa và khi đến
Thế Lữ, nhƣ một phép màu nhiệm đƣợc khắc, tạc theo một phong cách riêng đầy
mới lạ:
Trời cao xanh ngắt – ô kìa!
Hai con hạc trắng bay về bồng lai.
Thế Lữ là ngƣời đầu tiên trong phong trào Thơ mới đã đem đến cho thể thơ
lục bát – một lối thơ vắt dòng theo kiểu phƣơng Tây. Số tiếng trong dòng thơ lục
bát, gần nhƣ không có thay đổi, nhƣng mối quan hệ dòng thơ đã dẫn đến sự phá bỏ
khuôn mẫu cũ. Đó là sự thay đổi quá mới của thơ Thế Lữ - dẫn đến sự cảm nhận
quá mới về tƣ duy cùng cảm nhận ngƣời đọc đối với lối diễn đạt quen thuộc gần gũi
đời thƣờng.
Thế giới Nàng thơ của Thế Lữ còn bộc lộ những cảm xúc về tự nhiên; không
gian vũ trụ. Thơ ông luôn hàm chứa một thế giới đơn sơ, hoang dã, cỏ sắc… tất cả
đều chứa đựng rung cảm hồn thơ luôn hòa trộn trong sự cảm nhận tinh tế. Không
chỉ đắm say trong những cảm xúc lãng mạn, “Cây đàn muôn điệu” – nhƣ một tuyên
ngôn nghệ thuật, một khẩu khí của thời thế bấy giờ.
Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng
Đƣờng trần gian xuôi ngƣợc để vui chơi
17


Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cƣời
… Anh dù bảo: tính tình tôi hay thay đổi
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhƣng cần chi ?
Tôi chỉ là khách tình si.
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
Mƣợn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mƣợn cây đàn ngàn phím, tôi ca…
Nhà thơ đã có sự hòa đồng giữa tâm hồn và cây đàn ngàn phím – trong vẻ
đẹp toàn mỹ ngoại giới, thanh sắc của dƣơng gian, thái độ thoát ly thực tại vô trách
nhiệm. Song đều có sự gắn kết giữa cõi tiên trong hƣ ảo, thực tại mang đậm sắc thái
của thi nhân.
Có thể thấy trong cách kết cấu bài thơ, câu thơ, Thế Lữ đã xuất phát từ
những làn điệu thơ dân tộc trong văn học dân gian, có sự ảnh hƣởng kết hợp thơ
Pháp ở lối thơ vắt dòng; điều đó đã tạo nên thể thơ uyển chuyển và biến hóa không
cùng với tâm trạng trƣớc thời thế bấy giờ.
Nếu nhƣ Thế Lữ là ngƣời “khởi điểm của những khởi điểm”, thì Lƣu Trọng
Lƣ cũng thuộc lớp thi sĩ “Thơ mới” đầu tiên. Ông là ngƣời có công đầu trong việc
thiết lập và để Thơ mới đƣợc hình thành và phát triển. Thơ ông không thật mới và
lạ, song giọng thơ luôn gần gũi và quen thuộc hồn thơ dân tộc. Bắt mạch cảm xúc
đó trong mọi hình ảnh, tứ thơ, âm thanh cuộc sống đƣợc chuyển vào thế giới mơ
mộng, trong tiềm ẩn “vang bóng một thời” của văn hóa cổ truyền dân tộc. Đó cũng
là một cách tân trong sáng tác để tránh sự nhàm chán theo cái cũ lỗi thời rập khuôn.
Nhiều sáng tác của Lƣu Trọng Lƣ đều có ảnh hƣởng giọng điệu thơ ca dân
gian:
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rung
Ba gian: trống
Xuân đi

18

Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Ngƣời xƣa không thấy tới
(Vắng khách thơ)
Hồn thơ của Lƣu Trọng Lƣ, luôn chứa đựng những thở dài tuyệt vọng. Trong
cuộc đời bao lần mơ, bao lần ƣớc và những xốn xang trong tình yêu đều rơi vào sự
trớ trêu, bi đát. Năm tháng tuổi thanh xuân qua đi, Lƣu Trọng Lƣ vẫn chƣa thể thoát
ra khỏi những mộng mị của cuộc đời và thơ ca, để trở về đời sống thực thụ.
Hoài Thanh đã đƣa ra nhận định để khẳng định vị trí của Xuân Diệu: “nhà
Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”. Thơ Xuân Diệu luôn thu hút và tiếp nhận
những tinh hoa đặc sắc của thơ ca dân gian. Bằng chính ngòi bút của mình, ông đã
chắt lọc những tinh túy nhất để tạo ra những vần thơ hay, tiêu biểu mang dáng dấp
thơ ca dân gian. Điều đó, có thể bắt gặp trong những vần Thơ mới hình ảnh con
ngƣời và hàm chứa hình ảnh về những làng quê nơi đồng bằng Bắc Bộ. Đây cũng là
một điều dễ hiểu, cảm xúc đƣợc thăng hoa và đƣợc sáng tác với những gì chân chất,
mộc mạc nhất nơi thôn dã.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
(Thơ duyên – Xuân Diệu)
Nhà thơ đã vận dụng nhiều yếu tố truyền thống, tái tạo lên những vần thơ
chan chứa của lòng mình. “Mây biếc” là một hình ảnh phi lý, tìm đâu ra đƣợc mây
biếc. Điều này trên thực tế là Xuân Diệu đã kế thừa từ thơ ca dân gian.
Bản thân Xuân Diệu tạo ra những thủ pháp “đánh tráo ngôn từ”. Vì vậy, từ
thơ ca dân gian bay vào Thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu lẫn áng mây đã tô vẽ lại với
gam màu tƣơi mới.
Con cò đƣợc ca dao dân ca nhắc đến rất nhiều trong làn điệu hát ru con của
Đồng bằng Bắc Bộ:
Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…
19

Đến hình ảnh “con cò trên ruộng” trong thơ Xuân Diệu có sự tiếp nối và
khác biệt giữa truyền thống và hiện đại, giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây. Sự bình
yên trƣớc đây, đang dần từng bƣớc thay cho sự suy tƣ, trăn trở, băn khoăn tìm kiếm
lẽ đời… Từ thơ ca dân gian đến Thơ mới luôn luôn tạo ra khoảng cách – sự gạch
nối của nhiều thế kỷ. Khoảng cách này, theo thời gian dần đƣợc thu hẹp lại – cốt
cách nội lực dân tộc chính là nguồn cội dân gian luôn hằn in trong sáng tác của nhà
thơ.
Nhà thơ Huy Cận trong sáng tác của mình cũng đã viết những câu Thơ mới
mang đậm bản sắc thôn quê với sự thanh tao trong trẻo của hƣơng đồng gió nội: hoa
dại, rơm khô, nắng vàng, gió thoảng… Để rồi hòa điệu ngân vang trong một sự xao
xuyến khôn cùng trƣớc những hoang sơ thôn dã:
Một buổi trƣa không biết ở thời nào
Nhƣ buổi trƣa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bƣớm vàng nữa chứ
(Đi giữa đường thơm)
Thơ mới đã kế thừa và phát triển những đặc sắc của thơ ca dân gian. Vì vậy,
nhiều nhà Thơ mới trong sáng tác của mình, hình ảnh thôn quê đƣợc gợi lên với
cảnh đẹp, tâm tình nơi thôn dã, thật gợi cảm, thiết tha…
Hàn Mặc Tử cũng là một trong số gƣơng mặt của Thơ mới 1932 – 1945.
Những vần thơ chan chứa niềm đau đều gợi lên xúc cảm thi nhân trƣớc cuộc đời bể
khổ. Cũng giống nhƣ các nhà thơ khác của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử có sự
ảnh hƣởng của lối thơ dân gian trong cách sử dụng cách tân lối hiệp vần liền để
sáng tác những vần thơ đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.
Trong Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử viết:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang.
Cách hiệp vần với hai tiếng nắng – trắng đã gợi cho ngƣời đọc chúng ta thấy

đƣợc một tín hiệu cao trong hiệu quả nghệ thuật – và cũng từ đó có thể mƣờng
tƣợng đƣợc cái nắng, chói lòa đang dần xuất hiện trực tiếp trƣớc mắt.
20

Tác giả Lê Đình Kỵ đã nhận xét về bài thơ Mùa xuân chín, không xa lạ với
những trình tự quê hƣơng vào loại trong sáng nhất của Thơ mới.
Anh Thơ là tác giả những bức tranh quê thuộc vùng Kinh Bắc trƣớc năm
1945. Có thể thấy, đó là những bức tranh thiếu vắng ngƣời qua lại, hàm chứa những
nỗi buồn vô vọng trong không gian cuộc sống thƣờng nhật:
Sông mênh mông buồn mênh mông
Đêm dài thăm thẳm buồn trông hƣớng nào
Bức tranh quê đƣợc hiện lên sinh động trong khung cảnh quá gần gũi nhƣ
chính cuộc sống thƣờng ngày của thôn quê. Nữ thi sĩ Anh Thơ đã khái quát đƣợc
hiện thực đời sống xung quanh trong những khung cảnh ngày xuân. Cảnh sắc thôn
quê trong lễ tết, hội hè gợi niềm vui tƣơi mới hẹn ƣớc:
Có ngƣời qua xóm nhìn ngon mắt
Xuân chín trên cành, cam lẳng lơ.
Đời sống sinh hoạt văn hóa dân gian cũng đƣợc các nhà Thơ mới đƣa vào
trong sáng tác của mình. Trƣờng hợp “cái cổng làng” – một sự thể hiện của văn hóa
làng đã trở thành xúc cảm nghệ thuật thơ ca trong Thơ mới:
Sáng hồng lơ lửng mây son
Mặt trời thức giấc, véo von chim chào
Cổng làng rộng mở, ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai
… Ngày mùa lúa chín thơm đƣa…
Rồi đông gầy chết. Xuân chƣa vội vàng
Mừng xuân ngày hội cổng làng
Là nơi chen chúc bao nàng thơ ngây.
(Cổng làng – Bàng Bá Lân)
Trong làn điệu của Thơ mới, khí thế của thời đại mới đƣa chúng ta tới Đoàn

Văn Cừ. Thơ của Đoàn Văn Cừ mang hơi thở mới – niềm vui đƣợc nhân lên gấp bội
về lễ hội dân gian:
… Để đi theo đám rƣớc lƣợn quanh làng
21

Các bà đồng khăn đỏ chạy lăng quăng
Đón các khách thập phƣơng về dự hội
Một chiếc kiệu đƣơng đi dừng bƣớc lại.
Rồi thình lình quay tít mãi nhƣ bay
Một bà già kính cẩn chắp hai tay
Đứng vái mãi theo đám ngƣời bí mật,
Trên bãi cỏ dƣới trời xuân bát ngát
Một chị đƣơng đu ngửa tít trên không
Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh…
(Đêm hội – Đoàn Văn Cừ)
Ở phần trích trên, nhà thơ đã dẫn dắt ngƣời đọc chúng ta trong lễ hội dân
gian sinh động. Đó là cảnh lễ hội dân gian, đặc biệt trong cách dùng từ ngữ dân
gian: khách thập phƣơng, du ngửa, mục kỉnh… đều đã để Thơ mới có sự tụ hội, du
nhập cuộc sống thƣờng nhật ở nơi làng quê thanh tịnh này. Trang thơ Đoàn Văn Cừ
cũng để ngƣời đọc chúng ta đi vào đời sống ngày mùa – thôn quê trong một hình
ảnh thực, tinh tế chứa đựng nhiều vẻ đẹp tính chất lãng mạn của quê hƣơng đất
nƣớc:
Lúa trải vàng nhƣ bể kén tơ,
Từng đôi chim sẻ tới nô đùa,
Mổ từng bông một trong khi gió
Bốc nhẹ mùi thơm phảng phất đƣa.
(Ngày mùa – Đoàn Văn Cừ)
Từ Thế Lữ, Lƣu Trọng Lƣ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Anh Thơ,
Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ - đã có ít nhiều sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian – có lẽ

Nguyễn Bính là nhà thơ chịu ảnh hƣởng sâu đậm của văn hóa dân gian – một nhà
thơ dân gian hiện đại. Nguyễn Bính đã có sự tài ba trong vận dụng văn hóa dân
gian, nhất là ca dao dân ca, trong lối suy nghĩ quen thuộc của ngƣời thôn quê.

×