Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Hệ quả xã hội của việc thu hồi đất xây dựng công trình cấp nước (Nghiên cứu trường hợp thị trấn Chờ, huyện Yên Phong và xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 76 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ HƢƠNG




HỆ QUẢ XÃ HỘI CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT
XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH CẤP NƢỚC

(Nghiên cứu trƣờng hợp thị trấn Chờ, huyện Yên Phong
và xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)





LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC














HÀ NỘI - 2014







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ HƢƠNG




HỆ QUẢ XÃ HỘI CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT
XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH CẤP NƢỚC

(Nghiên cứu trƣờng hợp thị trấn Chờ, huyện Yên Phong
và xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số : 60 31 03 01








LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHAN TÂN



HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi, các số liệu, trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng.
Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực,
đảm bảo tính khách quan, sự nghiêm túc khoa học
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác!



Tác giả luận văn

Phạm Thị Hƣơng



MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU 01
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU HỆ QUẢ
XÃ HỘI CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH
CÔNG CỘNG 16
1.1. Cơ sở lý luận liên quan đến phân tích hệ quả xã hội 16
1.2. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đất, thu hồi đất 23
1.3. Các công trình cấp nước trong hệ thống các công trình hạ tầng công cộng 25
1.4. Tổng quan điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu từ thực tiễn của địa bàn
nghiên cứu 36
1.5. Quá trình thực hiện dự án 41
CHƢƠNG 2: HỆ QUẢ XÃ HỘI CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH CẤP NƢỚC TRÊN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 49
2.1. Những tác động tích cực 49
2.1.1. Điều kiện sống của người dân được nâng cao vì được sử dụng
nguồn nước sạch từ dự án 49
2.1.2. Người dân tìm ra sinh kế mới mang lại giá trị kinh tế cao hơn so
với sản xuất nông nghiệp 56
2.1.3. Người dân có một khoản tiền đền bù, vừa để chi tiêu, mua sắm,
vừa đầu tư trang thiết bị sản xuất 64
2.1.4. Giá đất nông nghiệp trong khu vực tăng lên 68
2.2. Những tác động tiêu cực 70
2.2.1. Người dân không còn ruộng để sản xuất nông nghiệp, dẫn tới sinh
kế bền vững bị ảnh hưởng 70
2.2.2. Sự bất bình đẳng trong hưởng lợi từ công trình cấp nước 76

2.3. Một số khuyến nghị và giải pháp 79
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
PHỤ LỤC 91

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Trang
Bảng 1: Cơ cấu theo độ tuổi của những người được hỏi 10
Bảng 2: Cơ cấu theo trình độ học vấn của những người được hỏi 10
Bảng 3: Cơ cấu nghề nghiệp hiện nay của những người được hỏi 11
Bảng 2.1: Kết quả công trình thiết kế và thi công hệ thống cấp nước
thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh 52
Bảng 2.2: Diện tích đất bị thu hồi tại hai địa bàn nghiên cứu 60
Bảng 2.3: Thu nhập chính của người dân trước và sau khi đất bị thu hồi 62
Bảng 2.4: Tương quan giữa nghề nghiệp và thu nhập chính của các gia
đình trên địa bàn nghiên cứu hiện nay 64
Bảng 2.5: Tổng kinh phí bồi thường thiệt hại người dân đã nhận tại tiểu
dự án Bắc Ninh trong giai đoạn 2 66
Bảng 2.6: Mục đích sử dụng số tiền được đền bù của người dân địa phương 67
Bảng 2.7: Giá đất nông nghiệp năm 2010 tại tỉnh Bắc Ninh 69
Bảng 2.8: Giá đất nông nghiệp năm 2012 tại tỉnh Bắc Ninh 70
Bảng 2.9: Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến mức sống của người dân 73
Bảng 2.10: Số tiền hỗ trợ người dân được nhận sau dự án 75

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Sự thay đổi thu nhập chính của các hộ gia đình trước
và sau khi bị thu hồi đất xây dựng công trình cấp nước 62
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi tại địa phương 71




BẢNG CHỮ VIẾT TẮT


Ban QLDA
Ban Quản lý dự án
BTHT - TĐC
Bồi thường hỗ trợ tái định cư
BAH
Bị ảnh hưởng
GPMB
Giải phóng mặt bằng
ODA
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
RAP
Kế hoạch tái định cư và tái định cư
TDA
Tiểu dự án
TĐC
TNHH
Tái định cư
Trách nhiệm hữu hạn
UBND
Ủy ban nhân dân
VUWSDP
Dự án “Phát triển cấp nước đô thị Việt Nam”









PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề nước sạch được coi là một phần trong chiến lược chống đói nghèo và dịch bệnh ở
các quốc gia, là một trong những mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ. Mặc dù là một quốc gia
giàu về tài nguyên nước nhưng nguồn tài nguyên nước ngọt của chúng ta đang chịu sức ép ngày
càng lớn từ nhiều phía: Gia tăng dân số, đô thị hóa, phát triển kinh tế và biến đổi môi trường.
Điều này dẫn tới hệ quả là chúng ta không chỉ thiếu nguồn nước ngọt trong tương lai mà chất
lượng nguồn nước ngọt cũng sẽ không được đảm bảo. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ phải: “Cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm nguồn nước
sạch cho vùng nông thôn” [7, tr.8].
Khu vực nông thôn Việt Nam chiếm 75% dân số cả nước và nông nghiệp là bộ phận quan
trọng của nền kinh tế quốc dân. Ở những khu vực này, phần lớn người dân chưa có nước sạch để
sử dụng, đồng thời họ còn thiếu nhiều kiến thức về sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường, sử
dụng nước không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh. Hầu hết nguồn nước sinh hoạt mà người
dân sử dụng được lấy từ nguồn nước tự nhiên, như nước mưa, giếng hay nước ao, sông hồ…chưa
được xử lý bằng các biện pháp kỹ thuật. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của
người dân, nhất là trong tình trạng môi trường sống của con người ngày càng ô nhiễm như hiện
nay.
Trong thời gian gần đây, nhiều dự án cấp nước sạch cho các vùng nông thôn đã được triển
khai thực hiện. Để thực hiện các dự án này, Nhà nước đã tiến hành thu hồi đất của người dân để
xây dựng hệ thống các công trình hạ tầng. Tuy có đền bù, hỗ trợ, nhưng việc thu hồi đất và tái
định cư nói trên có thể có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với cuộc sống của người dân mà
không thể ước tính được về mặt kinh tế. Các mối quan hệ, sự gắn kết trong cộng đồng bị phá vỡ,
những khó khăn trong việc tái đoàn kết ở những khu vực sau tái định cư là những rào cản đối với

việc ổn định và phát triển cuộc sống của người dân. Chính vì vậy, cần có một chính sách hỗ trợ
phù hợp trong kế hoạch tái định cư và phải xem đó là một hợp phần trong tổng thể của các dự án
phát triển chứ không nên coi đó là một hoạt động riêng biệt. Một chính sách tái định cư phù hợp
không chỉ giúp cộng đồng nơi thực hiện dự án ổn định cuộc sống, đảm bảo mức sống ít nhất là
bằng hoặc hơn so với trước khi thực hiện dự án, mà còn thúc đẩy việc đảm bảo tính bền vững của
các dự án phát triển.
Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều hướng dẫn trong việc thực hiện
chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng đối với các dự án có thu hồi đất, như: Luật đất đai sửa
đổi năm 2003, Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất…,
cùng với đó là các quyết định của từng tỉnh thành nhằm hướng dẫn và cụ thể hóa việc triển khai
thực hiện các chính sách nêu trên. Tuy nhiên, do tính chất của mỗi dự án khác nhau, hoặc là thu
hồi đất trong khu vực đô thị (tái định cư đô thị) hoặc là thu hồi đất theo tuyến (tái định cư
tuyến)… Sự khác nhau này còn phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện kinh tế xã hội riêng biệt của
từng khu vực, từng địa phương nơi triển khai dự án. Vì vậy, ngoài những chính sách, đường lối
chung thì đối với mỗi dự án, mỗi khu vực cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm
kinh tế xã hội, tác động của thu hồi đất đối với cộng đồng và nhu cầu của người dân trong việc hỗ
trợ phục hồi sau tái định cư.
Bên cạnh đó, trong các dự án phát triển hiện nay, công tác tái định cư nói chung đang gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc, mà một trong những nguyên nhân chính là các dự án này chưa có
được sự đồng thuận từ phía người dân. Việc thiếu các cuộc điều tra xã hội học để khảo sát điều
kiện kinh tế xã hội tại các địa phương, khảo sát nhu cầu phương án bồi thường và tái định cư, nhu
cầu hỗ trợ sau tái định cư đã tạo ra một khoảng cách lớn giữa các chính sách với mong muốn
của người dân. Nói một cách khác, việc thiếu các cuộc điều tra xã hội học trong quá trình chuẩn
bị và triển khai việc thu hồi đất, tái định cư đã khiến cho các dự án không đáp ứng được nhu cầu
thực tế của người dân và khả năng thành công không cao.
Với những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “Hệ quả xã hội của việc thu hồi đất xây
dựng công trình cấp nước” cho nghiên cứu của mình, nhằm làm rõ những hệ quả xã hội, những
tác động tích cực và tiêu cực của việc thu hồi đất xây dựng các công trình cấp nước đến cuộc
sống, sinh kế của người nông dân nơi diễn ra dự án. Câu hỏi nghiên cứu mà luận văn đặt ra là:
Việc xây dựng công trình cấp nước đã tạo ra những hệ quả xã hội nào đối với người dân thị trấn

Chờ, huyện Yên Phong, và xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh?
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi có rất nhiều thuận lợi trong việc tìm nguồn
tham khảo, bởi liên quan đến vấn đề nghiên cứu, các học giả đi trước đã có nhiều đề tài, công
trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu về sinh kế, cuộc sống của người dân trong một giai đoạn,
quá trình nhất định. Có thể kể đến một vài công trình tiêu biểu sau đây:
Cuốn sách chuyên khảo: “Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp ở Việt Nam” do
Nguyễn Bình Giang (Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện khoa học xã hội Việt Nam) làm chủ
biên là một trong những tác phẩm phản ánh rõ tác động xã hội của một hoạt động xã hội đến cuộc
sống của người dân trên địa bàn diễn ra dự án. Tác phẩm nêu rõ, phát triển khu công nghiệp là
một trong những hoạt động kinh tế làm nảy sinh những hệ quả xã hội cả tích cực lẫn tiêu cực. Tác
giả đã đi sâu phân tích những hệ quả ấy trên các khía cạnh: Việc làm, nghề nghiệp, thu nhập và
mức sống; mặt nhân khẩu học; cơ hội tiêu dùng các dịch vụ công cộng; đô thị hóa cơ sở hạ tầng;
trật tự an toàn xã hội và sức khỏe của người dân. Tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm hạn
chế tác động xã hội vùng tiêu cực của các khu công nghiệp ở Việt Nam.
Tác giả Lê Du Phong – chủ biên cuốn sách “Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của
người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dưng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia” đã đề cập đến vấn đề hết sức mới mẻ,
liên quan trực tiếp đến đời sống, thu nhập và việc làm của một bộ phận dân cư nước ta. Cuốn
sách đã đề cập đến những vấn đề trọng điểm như: Tình hình thu hồi đất và việc bồi thường cho
người dân khi có thu hồi đất; thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người có đất bị thu
hồi; thực trạng thu nhập và đời sống của người có đất bị thu hồi. Một số khó khăn, tồn tại cũng
được tác giả đề cập đến như: Một số người chưa nhận thức được những mặt đạt được của công
tác thu hồi trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội; chưa có chiến lược quy hoạch và kế hoạch
rõ ràng; kế hoạch thu hồi chưa gắn với kế hoạch tái định cư…
Công trình khoa học cấp nhà nước KX. 01 - 2005 của trường Đại học Kinh tế quốc dân về
“Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
đô thị hóa”, đã chỉ ra những bất cập khi nông dân không còn đất canh tác, do không được đào tạo
nên phần lớn không có việc làm và thu nhập. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cần giải quyết các vấn
đề đó bằng các chính sách như: Chính sách đền bù, tái định cư, hỗ trợ việc làm cũng như trách

nhiệm của doanh nghiệp trong thu hồi đất.
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010 của Học viện chính trị - hành chính khu vực I do Trần
Thị Ngọc Minh làm chủ nhiệm cũng nghiên cứu về “Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất ở ngoại thành Hà Nội”. Các tác giả đã tổng kết 20 năm phát triển khu công nghiệp với việc
giải quyết việc làm cho lao động, trong đó chỉ rõ tác động của nó tới việc phát triển thị trường lao
động. Tuy nhiên, thu hồi đất xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị đã làm cho 2,5 triệu nông dân
không có việc làm. Khu vực ngoại thành Hà Nội đến năm 2009 đã có 24.400 ha đất bị thu hồi, số
lao động mất việc từ đó khoảng 40.000 người. Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện để
nông dân bị thu hồi đất có việc làm lâu dài, tạo việc làm tại chỗ cho các lao động trên 35 tuổi.
Nhóm tác giả Lê Viết Thuận, Phan Thị Ngọc nghiên cứu về: “Những tác động của chính
sách thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai tới việc làm và các quan hệ
xã hội” qua trường hợp thôn Gia Trung, xã Quang Minh, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc (nay là địa
bàn Thành phố Hà Nội). Công trình đã phân tích những biến động xã hội của một địa phương ở
huyện Mê Linh vào thời kỳ đầu thu hồi đất năm 2001 – 2004. Năm 2001, tại thôn Gia Trung đã
thu hồi 90% diện tích đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp và khu đô thị, làm 50% tổng
số lao động không có việc làm, các quan hệ xã hội bị thay đổi không như mong muốn.
Tác giả Phạm Quang Tín, trường Đại học kinh tế - Đại học Đà Nẵng, có nghiên cứu về
“Thực trạng việc làm của người lao động trong các hộ dân diện thu hồi đất tỉnh Quảng Nam”.
Tác giả đã chỉ ra rằng, quá trình thu hồi đất của tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều vấn đề chưa thỏa
đáng như giá đền bù thấp, chưa giải quyết tốt vấn đề hỗ trợ việc làm cho người dân, nên dẫn đến
đời sống của người dân có rất nhiều thay đổi, nhiều hộ rơi vào tình trạng đời sống khó khăn
(56,8% trong tổng số hộ bị thu hồi đất). Công trình đã phản ánh khá rõ và chính xác tình hình
thực tế của các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Văn Sửu, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nghiên cứu về
“Tác động của Công nghiệp hóa, Đô thị hóa đến sinh kế của người nông dân Việt Nam” (trường
hợp một làng ven đô Hà Nội), năm 2007, đã chỉ ra rằng: Việc thu hồi quyền sử dụng đất nông
nghiệp phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa của Nhà nước đã tạo ra những tác động
quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội đối với những người nông dân có đất bị thu hồi. Để thích
ứng với những chính sách của Nhà nước, nhiều hộ nông dân đã dựa vào đất ở để chuyển dịch
sang nguồn sinh kế mới. Mặt khác, tác giả cũng chỉ ra rằng, ở thời điểm hiện tại mặc dù có mức

sống cao hơn, nhiều hộ nông dân vẫn thấy sinh kế của họ chưa bền vững bởi còn nhiều người
trong độ tuổi lao động thiếu việc làm. Đây là một nghiên cứu có giá trị cao cả về mặt ý nghĩa
khoa học và ứng dụng thực tiễn.
Tác giả Khúc Thị Thanh Vân trong luận văn nghiên cứu với đề tài: “Ảnh hưởng của chính
sách tái định cư đến đời sống người dân sau tái định cư” (nghiên cứu trường hợp Thủy Điện Bản
Vẽ) đã đi sâu phân tích các vấn đề ngành điện, khung chính sách về đền bù, tái định cư của dự án.
Luận văn đưa ra những ảnh hưởng của chính sách tái định cư đến cuộc sống sau tái định cư của
người dân phải di chuyển trong dự án phát triển, nhất là vấn đề khôi phục lại cuộc sống; những
tác động đến khả năng hòa nhập cộng đồng hoặc giữ gìn bản sắc văn hóa của nhóm cộng đồng
dân tộc thiểu số phải di chuyển với cộng đồng người tiếp nhận tái định cư. Luận văn còn đề xuất
những khuyến nghị cho việc lập chính sách và bổ khuyết các hoạt động trong quá trình thực hiện
xây dựng phương án tái định cư, chương trình khôi phục lại cuộc sống trong dự án phát triển,
nhất là xây dựng cộng đồng. Đây được đánh giá là một nghiên cứu có chất lượng và phản ánh
đúng thực tế vấn đề nghiên cứu.
Tác giả Phạm Quang Tú, Phan Đình Nhã, Nguyễn Văn Sự có bài viết “Ổn định cuộc sống
của người dân tái định cư và bảo vệ môi trường trong các dự án thủy điện” trên Tạp chí số
3/2011 của Viện nghiên cứu môi trường và phát triển bền vững. Các tác giả khẳng định, giảm
thiểu tác động bất lợi và ổn định cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất và tái định cư là hợp
phần quan trọng trong dự án xây dựng công trình thủy điện, theo đó phải đảm bảo cho người dân
một cuộc sống vùng tốt hơn hoặc ít nhất là bằng nơi ở cũ.
Trong luận văn thạc sĩ: “Tác động của việc tái định cư đến đời sống của người dân trong
vùng dự án ADB cải thiện môi trường đô thị miền Trung Việt Nam”, tác giả Trần Thị Lê Tâm đã
đánh giá tác động của tái định cư trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh ở các mặt thu nhập và năng lực
chi trả của người dân tái định cư, tác động duy trì các giá trị văn hóa và tiếp cận học đường của
người dân tái định cư, tác động đến đời sống xã hội, đến môi trường khi dự án hoạt động. Tác giả
đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thành công tái định cư và phát triển cộng đồng bền vững
trong hiện tại và tương lai.
Đó là những nghiên cứu có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Kế thừa kết quả của những nghiên cứu đi
trước, trong nghiên cứu này chúng tôi sẽ phân tích những hệ quả xã hội từ việc thu hồi đất để xây

dựng công trình công cộng, cụ thể là công trình cấp nước sạch cho người dân thị trấn Chờ, huyện
Yên Phong và xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Chúng tôi sẽ phân tích hệ quả này
dưới hai khía cạnh: tích cực và tiêu cực, thông qua sự tác động qua lại của các yếu tố chủ quan và
khách quan, thông qua các nguồn vốn, để thấy được tác động của việc thu hồi đất xây dựng công
trình cấp nước tới cuộc sống của người dân trên địa bàn diễn ra dự án. Đây cũng chính là điểm
mới của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu những hệ quả tác động đến cuộc sống của
người dân. Hệ quả đó xảy ra trên những phương diện gì khi người dân chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp của mình cho các công trình cấp nước? Qua đó, chúng tôi cũng đồng thời
làm rõ tác động của các chính sách, dự án tới cuộc sống của người dân hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi đã đề ra hai nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Mô tả những thay đổi trong cuộc sống, trong sinh kế của người nông dân qua hai giai đoạn
trước và sau khi có dự án cấp nước.
Đánh giá được tác động / ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của việc thu hồi đất phục vụ cho các
dự án cấp nước đến cuộc sống, sinh kế của người nông dân ở hai địa bàn nghiên cứu.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hệ quả xã hội của việc thu hồi đất xây dựng công trình cấp nước.
4.2.Khách thể nghiên cứu
- Các hộ dân có đất bị thu hồi phục vụ dự án cấp nước sạch.
- Các cán bộ, chính quyền địa phương tại các địa bàn nghiên cứu.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong vòng 8 tháng: từ tháng 11/2012 đến
tháng 8/2013.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn thị trấn Chờ, huyện Yên
Phong và xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh với những hộ dân bị thu hồi đất để xây
dựng công trình cấp nước theo dự án: “Phát triển cấp nước đô thị Việt Nam” của Chính phủ trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh năm 2013 mà chúng tôi là tư vấn viên của dự án đó.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
5.1. Ý nghĩa khoa học
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp xã hội học như phương
pháp luận Mac xit, lý thuyết vốn xã hội, lý thuyết lựa chọn hợp lý của Coleman. Thông qua
nghiên cứu, đề tài góp phần làm sáng tỏ hệ thống các khái niệm, lý thuyết, phương pháp nghiên
cứu xã hội học và vận dụng để làm sáng tỏ vấn đề biến đổi cuộc sống, sinh kế của người dân sau
khi bị thu hồi đất đồng thời chỉ ra những hệ quả xã hội của việc thu hồi đất xây dựng công trình
cấp nước trên hai địa bàn nghiên cứu.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài chú trọng nghiên cứu những thay đổi trong cuộc sống, sinh kế của người dân khu vực
bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho các công trình công cộng, từ đó tìm ra giải pháp khắc
phục những khó khăn, tìm kiếm các giải pháp hữu ích để giúp người dân nhanh chóng làm chủ
cuộc sống, thích nghi với môi trường mới và tạo dựng sinh kế bền vững lâu dài cho nhân dân
vùng bị ảnh hưởng.
Đề tài cũng tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của người dân sau khi bị thu hồi đất, đồng
thời làm rõ những tác động tích cực của chính sách đền bù đối với đời sống kinh tế, xã hội của
người dân.
Đề tài sẽ bổ sung và làm phong phú thêm hệ thống các báo cáo khoa học, làm nguồn tài liệu
tham khảo cho các tác giả với những công trình liên quan đến giải phóng mặt bằng, thu hồi đất
đai và tạo dựng sinh kế của người dân.
1 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích
6.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu chúng tôi đặt ra là:
- Việc xây dựng các công trình cấp nước đã tác động đến cuộc sống của người dân trên cả
hai phương diện tích cực và tiêu cực.
- Những hình thức đền bù, hỗ trợ sau giải phóng mặt bằng chưa mang lại hiệu quả cao đặc
biệt chưa tạo ra tính bền vững trong việc giúp người dân bị ảnh hưởng thay đổi và có một sinh kế
ổn định để đảm bảo cuộc sống mới.
6.2. Khung phân tích

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở giả thuyết nghiên cứu nêu ra,
khung phân tích của đề tài được xây dựng như hình sau:































Khung phân tích thể hiện sơ đồ tương quan tác động như sau:
Trung tâm khung phân tích là hệ quả xã hội của việc thu hồi đất xây dựng công trình cấp
nước được mô tả theo hai chiều hướng của vấn đề, đó là những tác động tích cực và những tác
động tiêu cực đến cuộc sống, sinh kế của người dân. Nhóm biến số độc lập giải thích nguyên
nhân đưa đến những hệ quả xã hội cho người dân, bao gồm các yếu tố như dự án xây dựng công
trình cấp nước của Chính phủ, chính sách thu hồi đất nông nghiệp, sự thích ứng của người dân
trước những biến động trong cuộc sống. Nhóm biến số can thiệp gồm điều kiện kinh tế chính trị
xã hội và chính sách phát triển các công trình công cộng của chính phủ.
Các nhóm biến số:
1) Nhóm biến số phụ thuộc, bao gồm: Quy mô, tần suất, tính chất, mức độ, ảnh hưởng của
tác động. Nó được cụ thể hóa trong các chỉ báo về tác động trực tiếp đến cuộc sống của người
dân như: được sử dụng nguồn nước sạch thay vì sử dụng nguồn nước ao, giếng… như trước khi
dự án diễn ra; tìm ra được nguồn sinh kế mới cho thu nhập cao hơn thu nhập cũ; có nguồn thu
nhập thêm từ tiền đền bù đất; và giá đất nông nghiệp của địa phương tăng lên. Bên cạnh những
chỉ báo theo hướng tích cực đó, chúng ta cũng cần quan tâm đến những chỉ báo theo hướng tiêu
Hệ quả xã hội
Người
dân sử
dụng
nước
sạch






















Tìm ra
nguồn
sinh kế
mới























Sinh kế
bền vững
bị ảnh
hưởng























Giá đất
nông
nghiệp
tăng























Có thêm
thu nhập
từ đền bù
đất






















Bất bình
đẳng

trong
hưởng lợi






















Tác động tích cực





























Tác động tiêu cực





























Sự thích ứng của người
dân trước biến đổi của
đời sống
Điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội
Chính sách thu hồi đất
nông nghiệp
Dự án xây dựng công

trình cấp nước đô thị
cực là: Nguồn sinh kế bền vững của người nông dân bị ảnh hưởng và có sự bất bình đẳng trong
việc hưởng lợi từ công trình cấp nước.
2) Nhóm biến số độc lập:
- Chính sách thu hồi đất nông nghiệp của người dân để xây dựng công trình cấp nước:
+ Chính sách, pháp luật về đất đai, về đền bù đất qua các năm 2008, 2009, 2010, 2011,
2012.
+ Các cấp, chính quyền thực thi chính sách về đền bù đất đai.
Nhóm biến số này thể hiện ưu, nhược điểm của chính sách, pháp luật về thu hồi và đền bù
đất đã ban hành và việc các cấp, chính quyền thực thi chúng.
- Sự thích ứng của người dân trước những biến động trong cuộc sống với các chỉ báo về
đặc điểm cá nhân bao gồm:
+ Giới tính, độ tuổi
+ Trình độ học vấn
+ Nghề nghiệp, việc làm
+ Dân tộc, tôn giáo
Nhóm biến số này quyết định trực tiếp đến hệ quả xã hội đối với cuộc sống của người dân,
bởi việc người dân có thích ứng được với cuộc sống mới hay không phụ thuộc nhiều vào các lợi
thế về giới tính, độ tuổi và trình độ học vấn thông qua sự nhận thức của họ về vai trò của dự án
đối với cộng đồng. Chính yếu tố này ảnh hưởng nhiều đến mức độ thành công của dự án.
3) Nhóm biến số can thiệp:
- Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương.
- Dự án xây dựng công trình cấp nước của chính phủ.
Nhóm biến số này điều chỉnh hành vi của các nhóm xã hội khi tham gia vào việc giải phóng
mặt bằng và đền bù đất nông nghiệp.

7. Phƣơng pháp thu thập thông tin
Trong quá trình thu thập thông tin cho đề tài, chúng tôi đã sử dụng 04 phương pháp chủ yếu
sau:
7.1. Phƣơng pháp phân tích tài liệu

Trước khi tiến hành nghiên cứu, việc nghiên cứu và tham khảo các tài liệu liên quan một
cách kỹ lưỡng là sự trợ giúp đắc lực cho chúng tôi xây dựng những ý tưởng và đề cương chính
cho đề tài. Những tài liệu được tham khảo bao gồm các văn bản luật, nghị định của chính phủ,
các quyết định của các tỉnh, thành phố, các hướng dẫn về việc thu hồi và đền bù đất, tái định cư
của các nhà tài trợ và các tài liệu, các nghiên cứu trước có liên quan.
Mục tiêu của phương pháp này nhằm xác định tổng quan vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó
giúp cho việc chọn mẫu được khách quan, khoa học, đồng thời khám phá, tìm kiếm những vấn đề
mà các nghiên cứu trước chưa đề cập.
7.2.Phƣơng pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm được áp dụng nhằm thu thập thêm các thông tin định tính với
mục đích tìm hiểu thêm nguyên nhân của vấn đề, cụ thể là xem xét đến nguyên nhân sâu xa của
quá trình xây dựng công trình cấp nước dẫn đến các hệ quả xã hội tại địa bàn nghiên cứu. Trong
quá trình thực hiện nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành thực hiện thảo luận với 06 nhóm. Mỗi
nhóm thảo luận bao gồm từ 08 đến 12 người. Đây là các đối tượng nằm trong số những người
chịu ảnh hưởng trực tiếp từ thu hồi đất, trong đó chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các trường hợp
ảnh hưởng nặng, các nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người tàn tật).
7.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
Số liệu định lượng từ phỏng vấn bằng bảng hỏi vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ. Vì
vậy, đối với đề tài này, chúng tôi sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn sâu trực tiếp, đảm bảo
tính khuyết danh. Thông qua phương pháp phỏng vấn sâu, chúng tôi thấy được vấn đề một cách
rõ ràng và sâu sắc hơn, tập trung vào những khía cạnh còn chưa có đầy đủ thông tin hoặc cần
khai thác kỹ hơn về mảng thông tin nào đó, bổ sung cho các vấn đề nghiên cứu đã vạch ra trong
đề tài. Qua phỏng vấn sâu, chúng tôi cũng có khả năng khẳng định hoặc đánh giá về thông tin,
thông qua việc quan sát thái độ và cách trả lời của đối tượng được hỏi.
Ở đề tài này, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu các đối tượng sau:
+ Cán bộ phụ trách chung dự án thu hồi đất: 06 người
+ Cán bộ xã/ phường phụ trách việc thu hồi đất ở hai địa bàn: 12 người
1.1.1 + Người dân chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc bị thu hồi đất phục vụ công trình
cấp nước trên hai địa bàn: 30 người
Như vậy, tổng số mẫu thực hiện phỏng vấn sâu là 48 mẫu (trong đó 18 mẫu là cán bộ dự án

và 30 mẫu là người dân có đất nông nghiệp bị ảnh hưởng).
1.2 7.4. Phƣơng pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi
Thông tin được tập hợp và thu thập theo mẫu phiếu điều tra được thiết kế sẵn. Mẫu được
chọn là tất cả các hộ gia đình có đất bị thu hồi để xây dựng công trình cấp nước trên hai địa bàn
nghiên cứu. Mẫu được thiết kế phù hợp với việc thu thập thông tin của từng địa phương. Phiếu
điều tra được áp dụng để thu thập một số thông tin cần thiết và cụ thể bao gồm:
+ Điều kiện kinh tế các hộ dân trong khu vực dự án, bao gồm các vấn đề về nhân khẩu,
nghề nghiệp.
+ Thực trạng bị thu hồi đất của từng hộ gia đình và phương thức triển khai ở từng điạ
phương, các chính sách, biện pháp bồi thường thiệt hại…
+ Sự thay đổi sinh kế của người dân sau khi bị thu hồi đất, những mong muốn, nguyện vọng
của họ đối với dự án.
+ Cuộc sống của người dân thay đổi như thế nào sau khi nhận đền bù và những góp ý của
người dân cho việc thực hiện dự án trong các giai đoạn tiếp theo.
- Mô tả cách chọn mẫu
Cơ cấu mẫu thực hiện với 222 mẫu định lượng. Mẫu nghiên cứu này được xác định là
những gia đình có đất bị thu hồi trên hai địa bàn thị trấn Chờ, huyện Yên Phong và xã Lãng
Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh theo dự án cấp nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh năm 2013.
Số lượng mẫu cụ thể của từng địa bàn như sau:
Thị trấn Chờ: 180 mẫu
Xã Lãng Ngâm: 42 mẫu.
Cơ cấu theo giới tính: Nam: 96 mẫu ( 43%)
Nữ: 126 mẫu ( 57%)
Cơ cấu theo độ tuổi, học vấn và nghề nghiệp (Bảng 1, bảng 2 và bảng 3):








Bảng 1: Cơ cấu theo độ tuổi của những ngƣời đƣợc hỏi

Tuổi
Số ngƣời
Tỷ lệ (%)
-Từ 18 đến 35
40
18,0
-Từ 36 đến 50
86
39,0
-Từ 51 đến 60
78
35,0
-Từ 60 trở lên
18
8,0
Tổng
222
100

Bảng 2: Cơ cấu theo trình độ học vấn của những ngƣời đƣợc hỏi

Trình độ học vấn

Số ngƣời


Tỷ lệ (%)

Cấp 1
96
43,4
Cấp 2
69
31,1
Cấp 3
30
13,5
Sơ cấp-Trung Cấp
22
9,9
Cao đẳng- Đại học
5
2,1
Tổng
222
100

Như vậy, nhìn vào bảng số liệu ta thấy, đa số những người dân nơi đây có trình độ học vấn
thấp: 43,4 % người có trình độ cấp 1, cấp 2 là 31,1 %. Vì vậy, khi điều kiện cuộc sống thay đổi,
nguồn sinh kế bị ảnh hưởng, thậm chí phải chuyển đổi sang một nguồn sinh kế mới, họ là những
người có ít cơ hội tìm được sinh kế bền vững. Hơn nữa, nhóm này thường là những người lớn
tuổi nên khả năng tìm kiếm các công việc mới bên ngoài cũng khó khăn hơn.

Bảng 3: Cơ cấu nghề nghiệp hiện nay của những ngƣời đƣợc hỏi
Nghề nghiệp
Số ngƣời
Tỷ lệ (%)
-Nông dân

104
46,8
-Buôn bán
22
10,0
-Công, viên chức
25
11,2
-Công nhân
63
28,4
-Không việc làm
8
3,6
Tổng
222
100

Nghề nghiệp hiện nay của người dân trên địa bàn nghiên cứu rất phong phú và đa dạng. Tuy
nhiên, nhiều nhất là nông dân gồm 104 người chiếm tỷ lệ 46,8 %, sau đó là công nhân với 63
người, chiếm tỷ lệ là 28,4 %, những người làm buôn bán cũng chiếm tỷ lệ khá cao là 10,0 %, còn
lại là những người làm các công việc khác nhau trong xã hội.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi trực tiếp khai thác số liệu thu thập được từ bảng hỏi, bao
gồm: Phần 1: Những thông tin chung về hộ bị ảnh hưởng, từ câu 1 đến câu 7; Phần 5: Khôi phục
và cải thiện cuộc sống: Câu 23, 24, 25.

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
luận văn bao gồm 02 chương, 08 tiết.






2 CHƢƠNG 1
3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU HỆ QUẢ XÃ HỘI
4 CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT XÂY DỰNG CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
1.1. Cơ sở lý luận liên quan đến phân tích hệ quả xã hội
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến hệ quả xã hội
* Tác động xã hội
Có nhiều khái niệm khác nhau để định nghĩa về tác động xã hội. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi sử dụng khái niệm của hai nhà xã hội học người Pháp Pierre Ansarb và Andre Akwoun:
“Tác động là một kết quả đo được của một hành động đối với môi trường xã hội” [1, tr.272].
Thuật ngữ “tác động” chỉ kết quả, hệ quả của một hành động, một quyết định, một thông
điệp, một chính sách, một đường lối, một chương trình… đối với cá nhân, môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội. Trong xã hội học, thuật ngữ này dùng để đo những hệ quả, phức hợp do con
người cảm nhận trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài của một hành động. Như vậy, việc
thu hồi đất xây dựng công trình cấp nước cũng là một hành động mang tính chất tác động đến các
đối tượng và chủ thể khác, mà ở đây chính là cuộc sống của người dân địa phương. Thuật ngữ
này được sử dụng để đo những những cảm nhận và biến đổi của người dân trước và sau khi thu
hồi đất có tổ chức. Ở đây, hệ quả của việc thu hồi đất xây dựng công trình cấp nước được đánh
giá và đo ở cả hai khía cạnh: tích cực và tiêu cực đến cuộc sống, môi trường sống của người dân
nông thôn.
* Biến đổi xã hội
Khái niệm biến đổi xã hội thường được dùng với nghĩa tương tự như các khái niệm gần
nghĩa và cũng dẫn đến những nhầm lẫn như: biến chuyển xã hội, thay đổi xã hội, tiến bộ xã hội,
tiến hóa xã hội, hiện đại hóa…
Trong Từ điển xã hội học, Nguyễn Khắc Viện dùng khái niệm “thay đổi xã hội”. Theo đó,
thay đổi xã hội “chỉ trạng thái vận động xã hội khác nhau: tiến bộ hoặc thoái bộ, tiến hóa hoặc
cách mạng, bộ phận hoặc toàn bộ, v.v ” (1994: 284). Với cách tiếp cận này, thay đổi xã hội ở tầm

xã hội vĩ mô khi xã hội có sự vận động trong tồn tại xã hội, ý thức xã hội hoặc kết hợp cả hai.
Như vậy, “thay đổi xã hội” là một khái niệm mang tính chất là một phạm trù triết học để chỉ sự
vận động từ một giai đoạn xã hội (hình thái kinh tế - xã hội) này sang một giai đoạn khác.
Một quan điểm khác cũng xem biến đổi xã hội ở khía cạnh tương tự: “Biến chuyển xã hội là
những sự thay đổi diễn ra trong khuôn mẫu tổ chức xã hội, cấu trúc, thiết chế và đời sống văn hóa
xã hội” (theo Nguyễn Minh Hòa, 1999: 192). Trong khái niệm này, biến chuyển xã hội được hiểu
theo bình diện rất rộng với nhiều cấp độ: biến chuyển các khuôn mẫu trong tổ chức, trong các
thiết chế và diễn ra trên quy mô xã hội tổng thể.
Trong Từ điển xã hội học Oxford xem biến đổi xã hội dưới góc nhìn xã hội học bao gồm rất
nhiều nhiều phương diện. Từ biến đổi ngắn hạn đến những biến đổi dài hạn, những biến đổi quy
mô lớn đến quy mô nhỏ, từ cấp độ toàn cầu tới cấp độ gia đình. Biến đổi xã hội không chỉ thể
hiện trên phương diện cấu trúc chính trị và cơ cấu xã hội rộng lớn mà còn thể hiện trong chuẩn
mực, giá trị, khuôn mẫu hành vi, các mối quan hệ.
“Biến chuyển xã hội là sự thay đổi có tính cơ cấu trong những tổ chức, trong những lối suy
nghĩ qua thời gian” (Nguyễn Xuân Nghĩa, 2003: 200). Quan điểm này nhìn nhận biến đổi xã hội
diễn ra không chỉ trong cấu trúc của xã hội tổng thể mà còn diễn ra trong những nhận thức và suy
nghĩ.
Một khái niệm về biến đổi xã hội thường được dùng trong các nghiên cứu xã hội học là khái
niệm của hai tác giả Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng: “Biến đổi xã hội là một quá trình qua đó
những khuôn mẫu của các hành vi, các quan hệ, các thiết xã hội và các hệ thống phân tầng được
thay đổi qua thời gian” [5, tr.280].
Qua đó, các tác giả đưa ra hai loại hình biến đổi xã hội như sau:
- Biến đổi vĩ mô, nó diễn ra trên một phạm vi rộng lớn, diễn ra trong một thời gian dài.
- Biến đổi vi mô, liên quan đến những biến đổi nhỏ, diễn ra nhanh hơn.
Trên cơ sở các định nghĩa đó, chúng tôi nhận thấy biến chuyển xã hội có một số đặc trưng
như:
1) Diễn ra trong những môi trường, các không gian xã hội khác nhau;
2) Tốc độ và tính chất khác nhau;
3) Biến đổi xã hội cũng diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau;
4) Vừa có tính tự giác, nhưng cũng mang tính phi kế hoạch, có những biến đổi người ta

lường trước, nhưng có những thay đổi con người không thể lường được;
5) Biến đổi xã hội vừa mang kết quả tốt, nhưng cũng mang lại nhiều hậu quả xấu;
6) Có những biến đổi diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng cũng có những biến đổi xã hội
diễn ra trong thời gian rất dài.
Như vậy, mỗi một khái niệm được đưa ra đều có một ý nghĩa nhất định và phù hợp với từng
nghiên cứu. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm “Biến đổi xã hội” theo quan điểm của
hai nhà xã hội học Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng.
* Hành vi lệch chuẩn
“Hành vi lệch chuẩn” hay còn gọi là “sai lệch xã hội” được đề cập đến nhiều trong các lý
thuyết xã hội học, cụ thể như trong trường phái Cấu trúc - chức năng mà nổi bật là Emily
Durkheim, hay lý thuyết xung đột của Robert Merton.
“Lệch” có nghĩa là sự không phù hợp với sự mong đợi của xã hội hoặc của một nhóm xã
hội.
Theo Merton: “Hành động sai lệch như một dấu hiệu của sự tách rời giữa những mục tiêu
văn hóa đã định trước với những biện pháp mang cấu trúc xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
này”[6, tr.279].
Khi nói về sai lệch xã hội hay sự lệch chuẩn là nói đến khía cạnh hành vi không chuẩn,
không phù hợp với quy tắc giá trị, chuẩn mực của xã hội, của nhóm hoặc của cộng đồng. Tùy
theo văn hóa, theo các đặc điểm nhóm hay những cộng đồng xã hội khác nhau và ở những thời
điểm lịch sử khác nhau mà hành vi lệch chuẩn có sự thay đổi. Nói như vậy có nghĩa là: Một hành
vi nào đó không phải luôn luôn lệch chuẩn, ở thời điểm này nó có thể lệch chuẩn nhưng ở một
thời điểm khác nó không còn là hành vi lệch chuẩn và ngược lại.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, hành động sử dụng sai mục đích các khoản hỗ trợ đền
bù bằng tiền mặt thay cho các hình thức hỗ trợ khác của người dân tại thị trấn Chờ và xã Lãng
Ngâm là một hành vi lệch chuẩn. Hành động ấy lệch chuẩn khi người dân nhận tiền đền bù nhưng
lại không đầu tư vào việc nâng cao tay nghề kỹ thuật, đầu tư vào sản xuất mà dùng số tiền đó
mua sắm các trang thiết bị trong gia đình, thậm chí có người còn sử dụng vào các mục đích
không chính đáng như đánh bạc, nghiện hút… dẫn tới các tệ nạn xã hội. Chính hành động đó đã
làm mất đi ý nghĩa của việc hỗ trợ, đền bù thiệt hại khi thu hồi đất và ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nguồn sinh kế bền vững của người dân.

1.1.2. Một số lý thuyết cơ bản
* Lý thuyết Biến đổi xã hội
Mọi xã hội đều có những biến đổi mỗi ngày theo những cách thức, mức độ, thời điểm và
nhịp độ khác nhau. Những biến đổi đều ít nhiều có sự kế thừa từ quá khứ của nó và theo một mẫu
hình hay một dự định mới được cụ thể rõ ràng. Vậy những trường hợp nào được coi là biến đổi
xã hội?
Thứ nhất, biến đổi xã hội tất yếu là một hiện tượng tập thể, tức là nó phải bao hàm một tập
thể hay một khu vực được đánh giá như một tập thể; nó phải tác động đến những điều kiện hay
những lối sống hay thậm chí đến thế giới tinh thần không chỉ của một vài cá nhân.
Thứ hai, một biến đổi xã hội phải là một biến đổi cấu trúc, tức là người ta phải quan sát
được sự thay đổi trong tổng thể hay trong một vài bộ phận của tổ chức xã hội. Thực tế, để nói về
sự biến đổi xã hội, chủ yếu là người ta có thể chỉ ra được sự thay đổi về những thành phần cấu
trúc hay văn hóa của tổ chức xã hội và có thể mô tả một cách đầy đủ và chính xác nhất về những
thay đổi đó.
Thứ ba, giả định rằng trước kia người ta có thể xác định được sự thay đổi cấu trúc. Nói cách
khác người ta có thể mô tả được tổng thể những chuyển đổi hay sự tiếp nối của những chuyển đổi
đó giữa hai hay nhiều thời điểm từ trước đó. Thực tế người ta chỉ có thể đánh giá và đo lường sự
biến đổi xã hội đối với một thời điểm tham khảo trong quá khứ. Từ thời điểm tham khảo này,
người ta có thể nói rằng có sự biến đổi, có cái đã biến đổi và trong phạm vi nào đó đã có sự biến
đổi.
Thứ tư, để thực sự là một biến đối cấu trúc thì mọi biến đổi phải có tính liên tục, tức là
những chuyển đổi quan sát được không phải là những chuyển đổi bề ngoài và trong chốc lát, tác
động đến cấu trúc và chức năng của tổ chức xã hội của một tập thể nào đó và thay đổi tiến trình
lịch sử của tập thể đó.
Các nhà xã hội học theo trường phái chức năng quan niệm rằng: “Biến đổi xã hội là biến
đổi các chức năng tương ứng với các thiết chế xã hội” [7,tr.68].
Trên cơ sở của lý thuyết biến đổi xã hội, phần nào chúng ta có thể hiểu được rằng: Quá
trình đô thị hóa và chỉnh trang đô thị là một xu thế khách quan, tất yếu trong tiến trình phát triển
của đất nước theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Bản chất của đô thị hóa là sự phát
triển của các khu dân cư và quá trình quy hoạch đô thị để bảo đảm sự phát triển bền vững, đồng

thời quá trình này cũng tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu lao động, cách thức lao động và tổ
chức dân cư.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, biến đổi xã hội được xác định như là sự biến đổi đời
sống của người nông dân trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực thông qua sự biến đổi điều
kiện tự nhiên, điều kiện sinh sống, lao động sản xuất và sự biến đổi về nguồn nhân lực của các hộ
dân trong địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu sẽ xác định và nêu ra những khuynh hướng cho sự
biến đổi đó thông qua các chỉ báo cụ thể như biến đổi cơ cấu lao động, việc làm, thu nhập của
người dân, đồng thời đánh giá những tác động cơ bản của việc thu hồi đất phục vụ cho công trình
cấp nước. Đây chính là một trong các yếu tố thể hiện rõ nhất sự biến đổi xã hội trong một địa
phương cụ thể.
4.1 *Lý thuyết Vốn xã hội
Khái niệm vốn xã hội được L. J. Hanifan đưa ra lần đầu tiên năm 1916 như những thứ
“được tính nhiều nhất trong cuộc sống thường nhật của con người: Cụ thể là thiện ý, tình bằng
hữu, sự đồng cảm, và giao thiệp xã hội giữa những cá nhân và gia đình tạo thành một đơn vị xã
hội… Nếu [một cá nhân] giao tiếp với các láng giềng của mình, và họ với láng giềng của họ, thì
sẽ có sự tích tụ vốn xã hội, cái có thể thoả mãn ngay các nhu cầu xã hội của anh ta và có thể có
một tiềm năng xã hội đủ để cải thiện đáng kể điều kiện sống của cả cộng đồng” [trích theo M.
Woolcock, D. Narayan]. Sau đó khái niệm này thực sự bị lãng quên, chỉ lác đác được một số học
giả đề cập đến trong các năm 1950, 1960 và 1970. Khái niệm này chỉ thực sự được nhiều người
quan tâm và bàn luận sau các công trình nổi tiếng của Coleman (cuối những năm 1980 đầu 1990)
và Putnam (1993, 1995). Từ đó đến nay vốn xã hội trở thành một đề tài nghiên cứu nóng và đã đi
đến nhiều đồng thuận, tuy vẫn còn nhiều bất đồng và nhiều vấn đề cần nghiên cứu tiếp.
Khái niệm vốn xã hội thường gắn với sự tham gia xã hội và công dân, với các mạng hợp tác
và đoàn kết, gắn với sự cố kết xã hội, sự tin cậy, sự có đi có lại và tính hiệu quả thể chế. Hiện nay
chúng ta có ba cách tiếp cận về vốn xã hội:
- Cách tiếp cận vi mô nhấn mạnh đến bản chất và các hình thức của ứng xử hợp tác (giá trị
của hành động tập thể, vốn xã hội được coi là 1) sản phẩm của các động cơ của các tác nhân để
tạo ra một hiệp hội; 2) ứng xử của họ; và 3) cảm nhận của họ về các vấn đề tập thể. Ngân hàng
Thế giới nhắc đến loại này như “vốn xã hội nhận thức” (cognitive social capital).
- Cách tiếp cận vĩ mô nhấn mạnh đến các điều kiện (thuận lợi và bất lợi) cho hợp tác, đến

giá trị của hội nhập và cố kết xã hội; nó nhấn mạnh đến môi trường xã hội, các thể chế, cấu trúc
xã hội và chính trị truyền đạt các giá trị và các chuẩn mực tạo điều kiện cho người dân tham gia
hoạt động xã hội và công dân; coi vốn xã hội như sản phẩm của các cấu trúc đó. Kết quả là, các
cấu trúc này càng củng cố sự tin cậy và sự có đi có lại thì càng nhiều người tham gia vào đời
sống công dân, và sẽ càng có nhiều vốn xã hội.
- Cách tiếp cận trung gian (meso) nhấn mạnh các kết cấu cho phép hợp tác xảy ra. Nó nhấn
mạnh đến giá trị phương tiện của vốn xã hội, gắn với tiềm năng của các mạng xã hội. Ngân hàng
Thế giới nhắc đến nó như “vốn xã hội cấu trúc” (structural social capital).
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu như Trần Hữu Dũng (2006), Trần Hữu Quang (2006),
Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Hải Bắc (2012)… đã đi sâu nghiên cứu về vốn xã hội trên cả hai
bình diện lý thuyết và thực nghiệm. Tuy nhiên, trên thực tế người Việt Nam, nhất là người nông
thôn, đã biết tạo dựng, khai thác và sử dụng vốn xã hội rất lâu đời [9, tr.39]. Chính vì vậy, vận
dụng vốn xã hội vào phân tích sự thay đổi sinh kế của người dân sau khi chuyển đổi mục đích sử
dụng đất không chỉ thấy rõ được những bản chất của sự thay đổi đó là gì, hướng phát triển ra sao
mà còn đứng trên lập trường của người dân để thấy được tâm tư, nguyện vọng của người dân
trong việc thực hiện những công trình công cộng. Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu vốn xã hội
trong sự tác động tương quan với vốn tự nhiên, vốn tài chính, vốn vật chất và vốn con người để
thấy được sự thay đổi cuộc sống, thay đổi nguồn sinh kế bền vững của người nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
* Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý
Lý thuyết lựa chọn hợp lý phát sinh từ kinh tế học cổ điển. Nó được phát triển lên thành lý
thuyết xã hội học nhờ công lao của James S. Coleman. Theo Coleman, lý thuyết lựa chọn hợp lý
(hay ông còn gọi là mô hình của hành động hợp lý) là lý thuyết duy nhất có khả năng tạo ra mô
hình hòa hợp. Coleman lý luận rằng cách tiếp cận này vận hành từ một nền tảng trong phương
pháp luận của chủ nghĩa cá nhân và sử dụng thuyết lựa chọn hợp lý như là cơ sở cấp độ vi mô để
lý giải những hiện tượng vĩ mô [6, tr.235].
Hai thành tố chủ chốt trong lý thuyết lựa chọn hợp lý là các tác nhân và các tiềm năng.
Coleman cho rằng các chủ thể hành động khi hành động đều hướng tới mục tiêu được định hình
bởi các giá trị hoặc các sở thích. Chủ thể hành động sẽ tối đa hóa các lợi ích hay sự thỏa mãn các
nhu cầu, mong muốn của mình. Theo ông, mỗi chủ thể hành động có các tiềm năng và cách thức

sử dụng những tiềm năng là khác nhau. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến việc đạt được mục đích
các hoạt động của họ. Ngoài các tiềm năng, chủ thể còn ảnh hưởng của các thiết chế xã hội. Tất
cả các nhân tố đó đều quy định những hành vi của các cá nhân, quy định sự lựa chọn những hành
vi của họ.
Vận dụng lý thuyết lựa chọn hợp lý vào nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy, người dân
nông thôn được coi là các chủ thể hành động. Trong quá trình thu hồi đất, người dân được quyền
lựa chọn các hình thức đền bù và hỗ trợ đền bù thích hợp với hoàn cảnh địa phương và hoàn cảnh
gia đình mình. Việc lựa chọn của họ là hoàn toàn tự nguyện và không có sự can thiệp của chủ đầu
tư hay ban quản lý dự án (QLDA). Thay vì nhận hình thức hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ ổn định
cuộc sống, người dân địa phương nơi diễn ra dự án đã nhận hình thức hỗ trợ đền bù bằng tiền
mặt. Hành động này của họ đã kéo theo hàng loạt hệ quả mà có lẽ chỉ ngay sau khi nhận tiền đền
bù người dân cũng có thể nhận ra. Đó chính là tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp vì không có
trình độ tay nghề cao để làm việc và nguồn sinh kế bền vững bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy,
lựa chọn một phương thức đền bù và hỗ trợ đền bù phù hợp là một yếu tố quan trọng giúp người
dân ổn định và phát triển cuộc sống sau khi bị thu hồi đất và tái định cư.
4.2 1.2. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đất, thu hồi đất
4.2.1 1.2.1. Khái niệm đất nông nghiệp
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, đất nông nghiệp thường được hiểu là
đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như ngô, khoai, sắn và những loại cây được coi là cây lương
thực. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không chỉ đơn
thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản
hay để trồng cây lâu năm.
Trước đây Luật đất đai năm 1993 quy định về đất nông nghiệp tại Điều 42 như sau: “Đất
nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”.
Với quy định của Luật đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam chia làm sáu loại:
- Đất nông nghiệp;
- Đất lâm nghiệp;
- Đất khu dân cư nông thôn;
- Đất đô thị;

- Đất chuyên dùng;
- Đất chưa sử dụng.
Theo sự phân chia này, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được tách thành hai loại riêng. Tuy
nhiên, sự phân loại này dựa theo nhiêu tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ
yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen, chồng chéo giữa các loại đất,
không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai.
Để khắc phục những hạn chế đó, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất
thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật đất đai năm 2003 đã chia đất đai làm
ba loại, với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu. Trên cơ sở
đó, đất đai được chia theo ba phân nhóm :
- Nhóm đất nông nghiệp;
- Nhóm đất phi nông nghiệp;
- Nhóm đất chưa sử dụng;
Như vậy, chúng ta đã mở rộng khái niệm đất nông nghiệp với tên gọi “Nhóm đất nông
nghiệp” thay cho “ Đất nông nghiệp” trước đây. Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, có thể
hiểu nhóm đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có đặc tính sử dụng giống nhau, với tư cách
là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khoanh nuôi tu bổ bảo vệ rừng, nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp.
4.2.2 1.2.2. Thu hồi đất
Điều 4 Luật đất đai 2003 quy định:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của
Luật này.
4.2.3 1.2.3. Bồi thƣờng, hỗ trợ khi thu hồi đất
Bồi thường khi thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện
tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua
đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
1.2.4. Chính sách bồi thƣờng, tái định cƣ cho ngƣời có đất bị thu hồi

Điều 42 Luật đất đai 2003 quy định:
1, Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định thì được bồi thường.
2, Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục
đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất
tại thời điểm có quyết định thu hồi.
3, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và thực hiện các dự án tái
định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất cho người bị thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chỗ ở. Khu tái định cư phải được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn
và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền
và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường
bằng đất đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi lớn hơn giá
trị đất được bồi thường thì người thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh lệch
đó.
4.3 1.3. Các công trình cấp nƣớc trong hệ thống các công trình hạ
tầng xã hội công cộng
1.3.1. Khái niệm hệ thống các công trình hạ tầng xã hội công cộng
Theo Điều 3 Luật xây dựng: Hệ thống công trình hạ tầng xã hội bao gồm các công trình y
tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, thương mại, dịch vụ công cộng, cây xanh, công viên, mặt nước và
các công trình khác.
Phân loại công trình hạ tầng công cộng:
Tiêu chuẩn xây dựng 276: 2003 quy định về việc phân loại các công trình hạ tầng công
cộng như sau:
Công trình y tế: Bệnh viện đa khoa, bệnh viện chuyên khoa từ Trung ương đến địa phương;
Phòng khám đa khoa, phòng khám chuyên khoa khu vực; Nhà hộ sinh; Nhà điều dưỡng, nhà
nghỉ, nhà dưỡng lão; Cơ quan phòng chống dịch bệnh; Trạm y tế; Trung tâm phục hồi chức năng.
Công trình thể thao: Sân vận động, sân thể thao có mái che và không có mái che; Nhà luyện
tập và thi đấu thể thao; Bể bơi có mái và không có mái che.

Công trình giáo dục: Trường mầm non; Trường tiểu học, Trường phổ thông cơ sở, phổ
thông trung học; Trường đại học và cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp; Trường dạy nghề;
Trường nghiệp vụ.
Công trình văn hóa: Thư viện; Bảo tàng; Triển lãm; Nhà hát, rạp chiếu phim; Nhà văn hóa,
câu lạc bộ; Trung tâm biên tập phát thanh, vô tuyến truyền hình; Trung tâm biểu diễn nghệ thuật.
Cơ quan hành chính các cấp: Trụ sở Ủy ban hành chính các cấp; Trụ sở các cơ quan và tổ
chức quản lý nhà nước; Nhà làm việc, văn phòng; Tòa án, viện kiểm sát.
Công trình dịch vụ công cộng: Khách sạn, nhà khách; Ngân hàng; Trạm chữa cháy; Trung
tâm dịch vụ công cộng (giặt, là, tắm, các trạm sửa chữa, may vá, cắt tóc ).
Công trình thương mại: Chợ; Cửa hàng, trung tâm thương mại, siêu thị; Cửa hàng ăn uống,
giải khát.
Công trình thông tin liên lạc: Trung tâm bưu điện; Điện tín, điện thoại, tổng đài; Trung tâm
phát thanh và vô tuyến truyền hình.
Công trình giao thông: Các ga xe lửa, các trạm kiểm tra đường giao thông; Bến xe ô tô; Ga
hàng không dân dụng; Bến cảng vận chuyển hành khách.
1.3.2. Một số thuật ngữ, khái niệm về công trình cấp nƣớc
1.3.2.1. Hệ thống cấp nƣớc
Theo giáo trình “Cấp thoát nước” của Nguyễn Thống “Hệ thống cấp nước là tổ hợp các
công trình có chức năng thu, xử lý vận chuyển và điều hòa phân phối nước” [2, tr.18].
Tùy từng mục đích sử dụng mà người ta có nhiều cách phân loại hệ thống cấp nước.
+ Theo đối tượng phục vụ: Hệ thống cấp nước đô thị, hệ thống cấp nước nông thôn…
+ Theo chức năng phục vụ: Hệ thống cấp nước sinh hoạt, hệ thống cấp nước sản xuất…
+ Theo phương pháp sử dụng nước: Hệ thống cấp nước trực tiếp, hệ thống cấp nước gián
tiếp…
+ Theo nguồn nước: Hệ thống nước ngầm, hệ thống nước mặt
+ Theo phạm vi cung cấp: Hệ thống cấp nước thành phố, hệ thống cấp nước tiểu khu…
Như vậy, hệ thống cấp nước là một hệ thống sản xuất, truyền tải và phân phối nước sạch tới
các hộ gia đình có nhu cầu sử dụng nước. Việc sử dụng khái niệm này nhằm mục đích phân biệt
rõ với khái niệm /thuật ngữ thường được sử dụng theo cách “quen miệng” đó là khái niệm “Cấp
thoát nước”. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng khái niệm “Cấp nước” là

một khái niệm chủ đạo để nghiên cứu vấn đề được đặt ra.

1.3.2.2. Mạng lƣới cấp nƣớc
Theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2003): Mạng lưới cấp nước là một bộ phận
của hệ thống dẫn nước, là tập hợp các đường ống với các kích cỡ khác nhau, làm nhiệm vụ vận
chuyển và phân phối nước đến các điểm dùng nước trong phạm vi thiết kế.
Mạng lưới cấp nước phải thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Mạng lưới cấp nước phải đảm bảo cung cấp đủ lưu lượng tới mọi đối tượng dùng nước
dưới áp lực yêu cầu và chất lượng tốt.
+ Mạng lưới cấp nước phải đảm bảo cung cấp thường xuyên, liên tục, chắc chắn đến mọi
đối tượng dùng nước trong phạm vi thiết kế.
+ Mạng lưới cấp nước phải thiết kế sao cho chi phí xây dựng và quản lý mạng lưới cũng
như mọi công trình liên quan tới nó là rẻ nhất.
Chúng tôi sử dụng khái niệm này trong bài nghiên cứu của mình nhằm giúp hiểu rõ hơn về
một bộ phận của hệ thống cấp nước. Theo quá trình khảo sát và nghiên cứu, tại thị trấn Chờ có
một hệ thống cấp nước hoàn chỉnh được xây dựng và sử dụng để cung cấp nước sạch cho người
dân nhưng tại xã Lãng Ngâm chỉ có hệ thống đường ống dẫn nước được đặt tại đây. Việc sử dụng
khái niệm này sẽ giúp phân định rõ ràng đâu là hệ thống cấp nước, đâu là mạng lưới cấp nước và
ảnh hưởng của nó như thế nào đến tiến độ dự án, đến cuộc sống của người dân nhằm đưa ra
những biện pháp, những cách thức bồi thường thiệt hại hợp lý cho người dân trên địa bàn nghiên
cứu.
1.3.2.3. Khái niệm nƣớc sạch
Ngày 11/3/2005, Bộ Y tế đã có quyết định cho số 09/ 2005/ QĐ – BYT về ban hành tiêu
chuẩn ngành, tiêu chuẩn về vệ sinh nước sạch, áp dụng đối với các hình thức cấp nước sạch hộ
gia đình, các trạm cấp nước tập trung phục vụ tối đa 500 người và các hình thức cấp nước sạch
khác.
Theo đó, nước sạch quy định trong tiêu chuẩn nói trên là nước dùng trong các mục đích
sinh hoạt cá nhân và gia đình, không sử dụng làm nước ăn uống trực tiếp. Nếu dùng cho ăn uống
trực tiếp phải xử lý để đạt tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống ban hành kèm theo quyết định số
1329/ QĐ – BYT từ 18/4/2002 của Bộ Y tế với nhiều chỉ tiêu lý hóa được kiểm tra trước khi đưa

vào sử dụng.
Với người dân thì nước sạch dựa trên cảm nhận thông thường về lý hóa đảm bảo cho ăn
uống sinh hoạt như nước trong, không có mùi, vị lạ, không màu, váng, không có cặn lắng, không
có vi sinh vật, không đổi màu khi đun nấu, không gây các bệnh ngoài da.
4.3.1 1.3.3. Thực trạng về tình hình cấp nƣớc tại các đô thị Việt Nam
Trong thời gian qua, hệ thống cấp nước các đô thị Việt Nam đã được Đảng, Chính phủ quan
tâm ưu tiên đầu tư cải tạo và xây dựng, nhờ vậy tình hình cấp nước đã được cải thiện một cách
đáng kể. Nhiều dự án với vốn đầu tư trong nước, vốn tài trợ của các chính phủ, các tổ chức quốc
tế đã và đang được triển khai.
Hiện nay toàn bộ 64 tỉnh lỵ, thành phố, thị xã trong cả nước đã có các dự án cấp nước ở các
mức độ khác nhau. Tổng công suất thiết kế đạt 3,42 triệu m
3
/ngày đêm. Nhiều nhà máy được xây
dựng trong thời gian gần đây có dây truyền công nghệ xử lý và thiết bị khá hiện đại. Trong 670
đô thị vừa và nhỏ (loại IV và loại V) đã có khoảng 200 thị xã, thị tứ có hệ thống cấp nước tập
trung quy mô từ 500 đến 2000, 3000 m
3
/ngày đêm, được xây dựng từ nhiều nguồn vốn và do
nhiều cơ quan, doanh nghiệp quản lý [10, tr.04].
Tuy nhiên tình hình cấp nước đô thị còn nhiều bất cập:
Tỷ lệ cấp nƣớc còn rất thấp: trung bình đạt 45% tổng dân số đô thị được cấp nước, trong
đó đô thị loại I và loại II đạt tỷ lệ 67%, các đô thị loại IV và loại V chỉ đạt 10-15%.
Công suất thiết kế của một số nơi chƣa phù hợp với thực tế: Nhiều nơi thiếu nước, nhưng
cũng có đô thị thừa nước, không khai thác hết công suất, cá biệt tại một số thị xã chỉ khai thác
khoảng 15-20% công suất thiết kế.
Tỷ lệ thất thoát thất thu nƣớc còn cao: Sau Hội nghị cấp nước toàn quốc lần thứ III, các
công ty cấp nước địa phương đã có nhiều cố gắng giảm tỷ lệ thất thoát thất thu nước đã được Bộ
Xây dựng đề ra. Nhiều địa phương như Hải Phòng, Huế, Đà Lạt, Vũng Tàu, Tiền Giang, đạt được
kết quả tốt, nhưng tại nhiều đô thị tỷ lệ thất thoát thất thu vẫn còn cao như Thái Nguyên, Hà Nội,
Nam Định, Hà Tĩnh, Vinh…

Tỷ lệ thất thu cao không chỉ chứng tỏ sự yếu kém về mặt năng lực quản lý (cả tài chính và
kỹ thuật) mà nó còn thể hiện kết quả của quá trình đầu tư không đồng bộ giữa việc tăng công suất
với công tác phát triển mạng lưới đường ống. Bộ Xây dựng đã đề ra chỉ tiêu đến năm 2005: Đối
với các đô thị có hệ thống cấp nước cũ tỷ lệ thất thoát thất thu dưới 40%, các đô thị có hệ thống
cấp nước mới là nhỏ hơn 30%.
Về chất lƣợng nƣớc: Tại nhiều nhà máy chưa đạt tiêu chuẩn quy định, tình trạng nguồn
nước ngầm, nước mặt bị ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân. Theo số liệu
thống kê, tổng công suất khai thác hiện nay là 2,9 triệu m
3
/ngày đêm (trong đó 66% là nước mặt,
34% là nước ngầm). Công tác khảo sát và quản lý nguồn nước nói chung do Bộ Tài nguyên - Môi
trường và địa phương quản lý. Việc chất lượng nguồn nước có những biến động trong quá trình
khai thác do nhiều nguyên nhân:
Tình hình khí tượng thuỷ văn trong những năm gần đây có nhiều biến động phức tạp, tình
hình hạn hán, lũ lụt ngày càng nghiêm trọng do hậu quả của hiện tượng phá rừng kết hợp với
ENNINO. Do ảnh hưởng của thuỷ triều, nhiều nguồn nước của các đô thị duyên hải (Đà Nẵng,
Nha Trang, Huế, Mỹ Tho, Cà Mau, Kiên Giang…) bị nhiễm mặn với thời gian kéo dài cả trên
diện rộng và chiều sâu trên đất liền.
Công tác khảo sát nguồn nước chưa sát với tình hình thực tế, chưa dự báo được những biến
động về mặt trữ lượng cũng như về mặt thuỷ địa hoá.
Công nghệ xử lý nước tại một số nhà máy nước chưa đồng bộ và hoàn chỉnh. Một số dự án
công nghệ do tư vấn nước ngoài thiết kế chưa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước do tác động của con người đang diễn ra ngày càng trầm trọng.
Tình hình xả nước thải không qua xử lý ra sông hồ, nơi cũng là nguồn cung cấp nước, không
được kiểm soát. Tại nhiều địa phương, hàng ngàn, hàng vạn lỗ khoan mạch nông đang là nguồn
gây ô nhiễm cho tầng chứa nước đang khai thác.
Công tác quản lý khai thác nguồn nước mặt và nước ngầm chưa được các cấp, các ngành
quan tâm thích đáng. Tư duy “nước trời cho” đã dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý, tác động
xấu đến chất lượng nguồn nước mặt và nước ngầm.
Về cơ chế chính sách:

Ngành nước còn nhiều bất cập, đặc biệt là cơ chế tài chính (giá nước) chưa phù hợp với tinh
thần Chỉ thị số 40/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác quản lý và phát triển cấp nước đô
thị, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu “phải xây dựng giá nước theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ,

×