i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÙI THÚY HẰNG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ DU LỊCH
HÀ NỘI, 2015
ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÙI THÚY HẰNG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG
Chuyªn ngµnh: Du lÞch
(Ch-¬ng tr×nh ®µo t¹o thÝ ®iÓm)
LUẬN VĂN THẠC SỸ DU LỊCH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ MAI HOA
HÀ NỘI, 2015
iii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Bố cục của luận văn 8
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP DU LỊCH 9
1.1. Khái niệm 9
1.1.1. Nhà nước 9
1.1.2. Quản lý nhà nước 9
1.1.3. Quản lý nhà nước về du lịch 11
1.1.4. Doanh nghiệp du lịch 12
1.2. Chức năng và vai trò của QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch 12
1.2.1. Chức năng 12
1.2.2. Vai trò 14
1.3. Nội dung QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh 16
1.3.1. Hướng dẫn thực hiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật 17
1.3.2. Theo dõi hoạt động cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận kinh doanh 18
1.3.3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch 19
1.3.4. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực 20
1.3.5. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 21
1.3.6. Các nội dung khác 22
1.4. Công cụ QLNN về du lịch 23
1.4.1. Hệ thống luật pháp 24
1.4.2. Bộ máy QLNN về du lịch 26
Tiểu kết chƣơng 1 31
iv
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HẢI PHÒNG 32
2.1. Khái quát về các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng 32
2.2. Tổ chức bộ máy QLNN về du lịch trên địa bàn Hải Phòng 35
2.3. Công tác QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng 38
2.3.1. Công tác tổ chức hướng dẫn thực hiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật 38
2.3.2. Theo dõi hoạt động cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận kinh doanh 45
2.3.3. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch 52
2.3.4. Công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực 58
2.3.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 66
2.3.6. Một số công tác khác 75
2.4. Đánh giá chung về công tác QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn
Hải Phòng 77
Tiểu kết chƣơng 2 82
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HẢI
PHÒNG 83
3.1. Căn cứ đề xuất giải pháp 83
3.1.1. Căn cứ vào mục tiêu và định hướng tăng cường QLNN về du lịch của Hải Phòng 83
3.1.2. Căn cứ vào thực trạng hoạt động QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch
trên địa bàn Hải Phòng 84
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác QLNN đối với doanh nghiệp du lịch 85
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tổ chức hướng dẫn thực hiện và ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật phù hợp với đặc thù của thành phố………………………… 85
3.2.2. Hoàn thiện quy trình cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận kinh doanh…….87
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, chính sách và thông tin về du
lịch cho các doanh nghiệp du lịch 90
3.2.4. Đẩy mạnh cải cách hành chính, củng cố tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ QLNN
chuyên nghiệp về du lịch 95
3.2.5. Đẩy mạnh QLNN đối với công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các doanh
nghiệp du lịch ở Hải Phòng 99
3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp du lịch 102
3.2.7. Xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp du lịch trên địa
bàn Hải Phòng 106
v
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch 107
Tiểu kết chƣơng 3 111
KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Bộ GTVT
Bộ Giao thông Vận tải
Bộ TNMT
Bộ Tài nguyên Môi trường
GDP
Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
HDV
Hướng dẫn viên
HĐND
Hội đồng nhân dân
NĐ
Nghị định
NPV
Người phỏng vấn
NQ
Nghị quyết
QLNN
Quản lý nhà nước
TTLT
Thông tư liên tịch
UBND
Ủy ban Nhân dân
VHTTDL
Văn hóa, Thể thao và Du lịch
vii
DANH MỤC BẢNG SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Bảng 2.1. Đánh giá của các doanh nghiệp du lịch về mức độ thường xuyên của
công tác tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về du lịch 40
Bảng 2.2. Đánh giá của doanh nghiệp về hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch 55
Bảng 2.3. Đánh giá của doanh nghiệp về mức độ đa dạng của các kênh tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch 57
Bảng 2.4. Đánh giá của doanh nghiệp về mức độ thường xuyên của công tác thanh
tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về du lịch 70
Bảng 3.1. Chỉ tiêu phát triển du lịch thành phố Hải Phòng đến năm 2020,
định hướng đến năm 2025 (phương án 1) 83
Bảng 3.2. Chỉ tiêu phát triển du lịch thành phố Hải Phòng đến năm 2020,
định hướng đến năm 2025 (phương án 2) 84
viii
DANH MỤC HÌNH SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức QLNN về du lịch trên địa bàn thành phố Hải Phòng 37
Hình 2.2. Biểu đồ đánh giá của doanh nghiệp về nội dung hướng dẫn thực hiện các
văn bản pháp luật của nhà nước 42
Hình 2.3. Biểu đồ đánh giá của doanh nghiệp về tính kịp thời trong việc tổ chức
hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật 43
Hình 2.4. Biểu đồ đánh giá của doanh nghiệp về mức độ thường xuyên của công tác
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch 56
Hình 2.5. Biểu đồ đánh giá của doanh nghiệp về công tác triển khai kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đến doanh nghiệp du lịch 64
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành phố Hải Phòng nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc trên lưu vực đồng
bằng sông Hồng. Với vị trí địa lý, hệ thống giao thông thuận lợi và tiềm năng du
lịch phong phú, Hải Phòng có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển du
lịch nói riêng, kinh tế xã hội nói chung của vùng và của cả nước. Trong hệ thống
các tuyến, điểm du lịch trọng điểm quốc gia và quốc tế, Hải Phòng nổi bật như một
cực hút và điểm trung chuyển quan trọng.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đến năm 2020, Hải
Phòng định hướng phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế chủ lực trong các
ngành kinh tế biển của thành phố. Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị và
Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố đã khẳng định vai trò, vị trí và nhiệm
vụ phát triển du lịch Hải Phòng là lĩnh vực kinh tế trọng điểm, góp phần quan trọng
để Hải Phòng cơ bản trở thành thành phố công nghiệp văn minh, hiện đại trước năm
2020 từ 3 đến 5 năm. Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND về phát triển kinh tế biển
thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 đã xác định rõ:
“Phát triển du lịch biển thành ngành kinh tế mũi nhọn, tăng tỷ trọng đóng góp vào
GDP của thành phố; nâng cao mức sống, tạo việc làm; phát triển tổng hợp du lịch
biển - núi - hải đảo, tạo ra sản phẩm du lịch và dịch vụ chất lượng cao, độc đáo, đi
đôi với giữ gìn bản sắc văn hóa. Hình thành trung tâm du lịch ven biển lớn tầm cỡ
quốc gia và quốc tế ở các khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi trên cơ sở phát triển
đa dạng các tuyến du lịch, các loại hình du lịch. Xây dựng cảng du lịch có khả năng
đón tàu du lịch có sức chứa lớn, là trung tâm đón nhận và phân phối khách du lịch
đi bằng đường biển của khu vực. Phát triển các tuyến du lịch biển và ven biển gắn
với khu vực vịnh Hạ Long, Lan Hạ”.
Với chiến lược phát triển rõ ràng, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao và đầu tư
thích đáng, du lịch Hải Phòng trong những năm qua đã đạt được những thành quả đáng
kể. Lượng khách du lịch nội địa và quốc tế đến Hải Phòng đều tăng qua các năm. Năm
2
2013, Hải Phòng đón 5005 nghìn lượt khách tăng gần 12% so với năm 2012. Tổng
doanh thu du lịch năm 2013 là 2053 tỷ đồng, tăng hơn 12% so với năm 2012.
Chính sách ưu tiên phát triển du lịch làm cho lượng khách du lịch đến Hải
Phòng tăng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch trên địa bàn Hải Phòng. Cùng với tốc độ phát triển của du lịch Hải
Phòng, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố đã và đang phát
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Tính đến tháng 6 năm 2014, Hải Phòng có
405 cơ sở lưu trú, trong đó có 199 cơ sở lưu trú được xếp hạng, 60 doanh nghiệp lữ
hành bao gồm cả doanh nghiệp lữ hành quốc tế và doanh nghiệp lữ hành nội địa.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những con số theo thống kê của phòng Nghiệp vụ du lịch
thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) Hải Phòng, trên thực tế còn rất
nhiều doanh nghiệp du lịch đang hoạt động trên địa bàn thành phố vẫn chưa được
thống kê. Đặc biệt Sở VHTTDL Hải Phòng cũng chưa có số liệu quản lý chính xác
về các doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch, doanh nghiệp kinh
doanh các dịch vụ du lịch khác đang hoạt động trên địa bàn thành phố.
Nhận thức được vai trò của công tác quản lý nhà nước (QLNN) đối với việc
định hướng, thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển bền vững, trong những năm qua
thành phố đã có định hướng nhằm kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ
máy QLNN về du lịch. Tuy nhiên, hoạt động QLNN đối với các doanh nghiệp du
lịch trên địa bàn Hải Phòng vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình. Do đó,
hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp du lịch ở Hải Phòng vẫn còn tồn tại
những hạn chế ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng dịch vụ của du lịch thành phố.
Thực tế cho thấy trên địa bàn thành phố, nhiều doanh nghiệp không có giấy
phép đăng ký kinh doanh lữ hành quốc tế nhưng vẫn quảng cáo, bán tour, tổ chức
kinh doanh lữ hành quốc tế; nhiều doanh nghiệp sử dụng cộng tác viên không có thẻ
hướng dẫn viên (HDV) đi dẫn đoàn. Một số cơ sở vận chuyển khách du lịch không
có đăng ký kinh doanh vận chuyển khách du lịch vẫn tham gia hoạt động phục vụ
khách du lịch vào những mùa cao điểm. Về hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú
cũng có nhiều tồn tại, giá buồng lưu trú du lịch của các khách sạn ở Hải Phòng đặc
3
biệt vào mùa du lịch thường cao hơn nhiều so với các địa phương khác, nhiều nhà
đầu tư không thể hoặc khó có được địa điểm để đầu tư xây dựng cơ sở lưu trú mới
xứng tầm, cạnh tranh không lành mạnh vẫn xảy ra…
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ
của các doanh nghiệp du lịch và quan trọng hơn là do công tác QLNN đối với các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố chưa chặt chẽ và hiệu quả. Từ thực tế
trên cho thấy việc nâng cao hiệu quả QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên
địa bàn thành phố là một vấn đề quan trọng, cần phải tiến hành đồng bộ từ kế
hoạch, chính sách đến pháp luật, từ trung ương đến địa phương.
Để thúc đẩy du lịch Hải Phòng nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch trên địa bàn Hải Phòng nói riêng phát triển, ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố, về phía quản lý cần phải có những đổi mới
phù hợp, mang tính đột phá và phải được thực hiện triệt để trong thực tế. Việc nâng
cao hiệu quả QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch sẽ giúp ngành du lịch của thành
phố Hải Phòng giữ được các chuẩn mực và chất lượng dịch vụ, từ đó nâng cao năng
lực cạnh tranh, về lâu dài sẽ phát triển ổn định và hiệu quả hơn.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu vấn đề “Quản lý nhà nước đối với
các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng” là một nhu cầu thực tiễn và cấp
bách. Việc nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa thực tiễn mà còn là một đóng góp,
bổ sung cho những vấn đề lí luận về QLNN đối với hoạt động du lịch trên địa bàn
cấp tỉnh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
QLNN về du lịch không phải là vấn đề mới, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu
về vấn đề này. Một trong những tác giả nghiên cứu vấn đề QLNN trong du lịch là
Trịnh Đăng Thanh (2004). Trong luận án TS Luật học của mình, Trịnh Đăng Thanh
cho rằng công tác QLNN đối với hoạt động du lịch ở nước ta đã có nhiều tiến bộ,
nhất là từ khi có pháp lệnh du lịch (1999). Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra một số bất
cấp trong công tác QLNN về du lịch ở nước ta như hệ thống pháp luật chưa đồng
4
bộ, việc triển khai thực hiện còn lúng túng. Tác giả đã đề xuất một số nội dung cần
bổ sung vào pháp luật và kiến nghị nâng pháp lệnh thành luật du lịch.
Bàn về giải pháp tăng cường QLNN về du lịch trong Tạp chí Quản lý nhà
nước số 132, Trần Xuân Ánh (2007) đã đưa ra những giải pháp như kiện toàn bộ
máy quản lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính… Đây đều là những giải pháp phù
hợp mang tầm vĩ mô, những giải pháp này sẽ khả thi hơn khi được vận dụng linh
hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.
Cũng nghiên cứu QLNN về du lịch nhưng Trương Thu Hương (2007) lại
nghiên cứu, phân tích vai trò của QLNN trong bối cảnh hội nhập. Trong luận văn
thạc sỹ Du lịch học của mình, tác giả đã chú trọng phân tích những điểm yếu, điểm
mạnh, cơ hội và thách thức của QLNN về du lịch trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, để đề ra những giải pháp phù hợp với yêu cầu của QLNN về du lịch trong
bối cảnh hội nhập. Vấn đề nghiên cứu không mới nhưng được Trương Thu Hương
nghiên cứu trong bối cảnh mới đã khiến vấn đề mang tính thực tiễn cao.
Lê Ngọc Tuấn (2009) không nghiên cứu về QLNN đối với hoạt động du lịch
nói chung mà đi sâu phân tích công tác QLNN đối với các cơ sở lưu trú ở Việt
Nam. Trong luận văn thạc sỹ Du lịch học của mình, tác giả đã chỉ ra thực trạng của
công tác QLNN đối với cơ sở lưu trú như cơ chế quản lý lỏng lẻo, chưa hiệu quả, bộ
máy quản lý chồng chéo, nội dung quản lý mang tính hình thức… Trên cơ sở thực
trạng, tác giả cũng đề ra một số giải pháp như đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi
mới bộ máy QLNN tinh gọn, tránh trùng lắp, triển khai điều chỉnh quy hoạch chiến
lược phát triển hệ thống cơ sở lưu trú du lịch, hoàn thiện hệ thống Quy chuẩn Quốc
gia về xếp hạng cơ sở lưu trú… Vấn đề Lê Ngọc Tuấn nghiên cứu có ý nghĩa thiết
thực trong việc nâng cao hiệu quả QLNN đối với các cơ sở lưu trú ở Việt Nam.
Phạm Cao Thái (2010) trong luận văn thạc sỹ Du lịch học của mình cũng sử
dụng công cụ pháp luật giống Trịnh Đăng Thanh để đánh giá hiệu quả QLNN về du
lịch. Nhưng phạm vi nghiên cứu của Phạm Cao Thái hẹp hơn, tác giả không đánh
giá thực trạng thực thi pháp luật trong hoạt động du lịch nói chung mà tập trung
5
phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong
hoạt động lữ hành, hoạt động hướng dẫn.
Bàn luận về khái niệm QLNN về du lịch, các tác giả cũng có những quan
điểm thống nhất khi nhấn mạnh đến vai trò của các công cụ QLNN như pháp luật,
chính sách, kế hoạch… trong việc định hướng cho hoạt động du lịch vận động, phát
triển theo mục tiêu đã định. Trong luận án của mình, Trịnh Đăng Thanh nhấn mạnh
đến công cụ pháp luật, tác giả cho rằng “QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động
du lịch là phương thức mà bằng pháp luật, nhà nước tác động vào đối tượng quản
lý để định hướng cho hoạt động du lịch vận động, phát triển đến mục tiêu nhất
định” (tr.31). Như vậy, Trịnh Đăng Thanh đã chỉ ra pháp luật là cơ sở và là một
công cụ để nhà nước thực hiện sự quản lý, là những chuẩn mực để đối tượng quản
lý dựa vào đó vận động, phát triển và để chủ thể quản lý thực hiện sự kiểm tra, giám
sát đối tượng quản lý nhằm định hướng cho hoạt động du lịch vận động, phát triển
theo mục tiêu. Nếu Trịnh Đăng Thanh nhấn mạnh đến công cụ pháp luật khi đề cập
đến khái niệm QLNN về du lịch thì Lê Ngọc Tuấn (2007) đã chỉ rõ công cụ QLNN
ở đây là cơ quan QLNN và chính sách pháp luật “QLNN về du lịch là sự tác động
có tổ chức và bằng pháp quyền của nhà nước đối với các hành vi, hoạt động của
các tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động du lịch phát triển theo mục tiêu phát triển ngành mà nhà nước đặt ra”
(tr.19). Đồng thời, Lê Ngọc Tuấn cũng làm rõ chủ thể quản lý là nhà nước và đối
tượng của sự quản lý là tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch.
Đối với công tác QLNN ở cấp tỉnh cũng có nhiều tác giả nghiên cứu như
Nguyễn Minh Đức (2007), Đỗ Thị Nhài (2008), Nguyễn Thị Nga (2011)… Các tác
giả này đều hệ thống được những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN trong du lịch như
khái niệm, nội dung công tác QLNN về du lịch cấp tỉnh… Tuy nhiên nếu Nguyễn
Minh Đức chỉ phân tích về công tác QLNN đối với hoạt động thương mại, du lịch
một cách tổng thể thì Đỗ Thị Nhài lại tập trung vào công tác quản lý các doanh
nghiệp du lịch. Vấn đề nghiên cứu của Đỗ Thị Nhài khá gần với vấn đề luận văn mà
6
học viên nghiên cứu. Do vậy, đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng trong
quá trình làm luận văn của học viên. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của học viên là
QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng. Phạm vi nghiên
cứu khác nhau tất yếu thực trạng và những giải pháp sẽ không thể giống nhau.
Ngoài ra còn có một số luận văn, bài viết liên quan đến hoạt động QLNN về
du lịch. Các công trình, bài viết đó là nguồn tài liệu quý để đề tài tham khảo và kế
thừa. Tuy nhiên, đề tài “Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên
địa bàn Hải Phòng” là một đề tài mới đi sâu phân tích các thực trạng của hoạt động
QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch theo các nội dung QLNN rõ ràng, cụ thể.
Đề tài mang tính đặc thù, có giá trị thiết thực cho sự phát triển du lịch thành phố Hải
Phòng và chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với các doanh nghiệp du
lịch trên địa bàn Hải Phòng.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về QLNN và vai trò của QLNN về du lịch.
- Điều tra, khảo sát thực trạng hoạt động QLNN về du lịch trên địa bàn thành
phố trong thời gian qua.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên
địa bàn Hải Phòng.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động
QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng.
* Phạm vi nghiên cứu
7
- Phạm vi nội dung: Doanh nghiệp du lịch là đối tượng chịu sự điều chỉnh
của nhiều hệ thống văn bản pháp luật khác nhau, nhưng trong phạm vi luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu những luật pháp liên quan đến du lịch, kinh doanh du lịch.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu công tác QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch
của Sở VHTTDL Hải Phòng thông qua các nội dung như: xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch, quy hoạch; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật; cấp thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận kinh doanh; tổ chức đào
tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực; vấn đề tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và
thông tin về du lịch; vấn đề thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo…
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về công tác QLNN đối
với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng.
- Phạm vi về thời gian:
Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên
địa bàn Hải Phòng giai đoạn từ 2006 đến nay. Đề xuất giải pháp nâng cao công tác
QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và nghiên cứu dữ liệu thứ cấp
Đề tài đã tiến hành nghiên cứu những giáo trình về QLNN, QLNN về kinh
tế, nghiên cứu tài liệu luật pháp liên quan đến hoạt động QLNN về du lịch như luật
du lịch, luật doanh nghiệp, các nghị định của Chính Phủ, các thông tư của Bộ
VHTTDL, thông tư liên ngành, các quy chế, quyết định của Ủy ban nhân dân
(UBND) thành phố Hải Phòng… Đề tài đã nghiên cứu, tham khảo các công trình
của một số tác giả về những vấn đề liên quan.
- Phương pháp phỏng vấn
Để có được đánh giá khách quan về công tác QLNN đối với các doanh
nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu đối với cả
chủ thể QLNN về du lịch và đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước trên địa bàn
thành phố. Cụ thể tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 03 cán bộ công tác tại Sở
VHTTDL Hải Phòng; phỏng vấn 09 lãnh đạo doanh nghiệp du lịch đang hoạt động,
kinh doanh trên địa bàn thành phố.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
8
Số lượng các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng là rất lớn, tác giả
không đủ điều kiện để tiến hành phỏng vấn tất cả các doanh nghiệp. Do vậy, điều
tra bằng bảng hỏi là phương pháp hữu hiệu được tác giả sử dụng nhằm thu thập
những đánh giá khách quan của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố về công
tác QLNN về du lịch. Trong tháng 6 và tháng 7 năm 2014, tác giả đã triển khai phát
phiếu điều tra lấy ý kiến từ 23 cơ sở lưu trú, 12 doanh nghiệp lữ hành, 11 doanh
nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch trên địa bàn thành phố.
Trong 23 cơ sở lưu trú có 01 khách sạn 5 sao, 03 khách sạn 4 sao, 03 khách
sạn 3 sao, 06 khách sạn 2 sao, 10 cơ sở lưu trú khác. Về chủ sở hữu, có 01 khách
sạn liên doanh, 02 khách sạn nhà nước, 07 khách sạn cổ phần, 13 khách sạn tư nhân.
Trong 12 doanh nghiệp lữ hành, có 08 doanh nghiệp lữ hành nội địa, 04
doanh nghiệp lữ hành quốc tế. Về chủ sở hữu có 01 doanh nghiệp nhà nước, 06
doanh nghiệp cổ phần, 05 doanh nghiệp tư nhân.
Trong 11 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch có 08 doanh
nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch bằng phương tiện vận tải ô tô, 03
doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch bằng phương tiện vận tải tàu
thủy. Về chủ sở hữu, có 04 doanh nghiệp cổ phần, 07 doanh nghiệp tư nhân.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Là việc lựa chọn, sắp xếp các dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, từ đó tổng hợp lại rồi
đưa ra những nhận định, đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu; trong luận văn
tác giả chủ yếu sử dụng phần mềm Excel.
Phương pháp này được sử dụng từ khi có định hướng đề tài luận văn đến khi
luận văn được hoàn thành.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung
chính của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch
Chương 2. Thực trạng QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn
Hải Phòng
Chương 3. Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hải Phòng
9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP DU LỊCH
1.1. Khái niệm
1.1.1. Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, được phát triển qua quá trình phát triển
tự nhiên của xã hội loài người. Lịch sử loài người chỉ ra rằng không phải khi nào xã
hội và nhà nước cùng tồn tại mà nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại khi trong xã hội
tồn tại những mâu thuẫn giai cấp không điều hòa được và nhà nước sẽ tự tiêu vong
khi những mâu thuẫn này không còn nữa. Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện
nhà nước là những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. V.I.Lênin nhận
định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
không thể điều hoà được” [V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, tr.9 (sách dịch)].
1.1.2. Quản lý nhà nước
Quản lý là một hoạt động tất yếu khi có những người làm việc với nhau để
thực hiện một công việc chung hoặc nhằm thực hiện một mục tiêu chung. Điều đó
có nghĩa hoạt động quản lý ra đời khi xã hội loài người xuất hiện, là việc con người
điều khiển con người, là quan hệ giữa con người với con người dựa trên yếu tố
quyền uy. Trong xã hội chưa có giai cấp, quản lý xã hội là việc của cả cộng đồng
(thị tộc, bộ lạc…) và được thực hiện bởi các chủ thể là những thủ lĩnh có tài năng,
kinh nghiệm, uy tín hoặc tập thể những người có tài năng, uy tín và được thực hiện
trên cơ sở hệ thống các qui tắc ứng xử như đạo đức, tập quán… Trong xã hội có giai
cấp, vai trò này thuộc về nhà nước. Nhà nước thực hiện sự quản lý thông qua bộ
máy nhà nước, trên cơ sở quyền lực nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức
năng của nhà nước bằng hệ thống công cụ quản lý, đó là QLNN.
QLNN không chỉ là sự tác động mà là sự phối hợp hoạt động nhiều mặt. Đó
là việc thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước, là việc thực hiện các
chính sách của nhà nước. Hoạt động QLNN có những đặc điểm sau:
10
- Thứ nhất, QLNN là hoạt động mang tính tổ chức, điều hành và điều chỉnh
hay nói cách khác, nó chính là việc xây dựng và điều chỉnh các mối quan hệ giữa
con người với con người nhằm thực hiện những mục đích nhất định, đồng thời cũng
là hoạt động điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Điều này cho thấy, QLNN không
chỉ đơn giản là sự cai trị, kiểm soát hay hạn chế mà còn là những quá trình tổ chức,
điều hành và điều chỉnh các quá trình xã hội.
- Thứ hai, QLNN mang tính chất quyền lực nhà nước, tức là trên cả phương
diện hành chính, pháp luật và chấp hành nhằm thiết lập quan hệ “quyền uy” và sự
“phục tùng”; có nghĩa là toàn bộ các tác động tổ chức và điều chỉnh của quản lý
được tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực đó được ghi nhận,
củng cố bằng pháp luật và được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Thứ ba, QLNN là hoạt động mang tính khoa học, tính kế hoạch hay đó là
hoạt động mang tính chủ quan của con người, nhưng lại dựa trên những yêu cầu
khách quan và qui luật khách quan. Vì vậy, quản lý là những tác động mang tính
chất chủ động sáng tạo, nó xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội luôn biến động và
phát triển để tìm kiếm biện pháp, phương thức thích ứng kịp thời và giải quyết có
hiệu quả nhằm đạt tới những mục tiêu và chủ đích đã được xác định.
- Thứ tư, QLNN là những tác động lên các quá trình xã hội và hệ thống các
hành vi xã hội một cách liên tục, đặc điểm này hình thành chu kỳ QLNN và thông
qua các chu kỳ diễn ra liên tục mà QLNN thúc đẩy các quá trình xã hội phát triển
theo chiều hướng liên tục. Như vậy, hoạt động QLNN diễn ra hàng ngày, hàng giờ
không bị gián đoạn.
- Thứ năm, quản lý dựa trên cơ sở nền tảng của một thể chế nhất định. Thể
chế có vai trò là những chuẩn mực mà cả chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý
phải tuân theo nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
- Thứ sáu, sự vận hành của QLNN bao giờ cũng cần có một cơ chế quản lý
phù hợp. Có thể coi đó là vấn đề cốt lõi đảm bảo quản lý có hiệu quả trong thực
tiễn. Cơ chế đúng, hợp lý và tuân theo quy luật khách quan thì xã hội phát triển,
ngược lại thì xã hội phát triển chậm, bị kìm chế hoặc rối ren.
11
Tóm lại, QLNN là một quá trình phức tạp, đa dạng và là một yếu tố không thể
thiếu trong đời sống xã hội, được thực hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau như an ninh,
quốc phòng, văn hóa, giáo dục, đối ngoại, kinh tế…Trong đó, hoạt động QLNN về
du lịch giữ vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.
1.1.3. Quản lý nhà nước về du lịch
QLNN đối với hoạt động du lịch là tạo môi trường thông thoáng, ổn định, hỗ
trợ, thúc đẩy các hoạt động du lịch phát triển sôi động nhưng có trật tự, nhằm giải
quyết hài hòa các lợi ích.
Trên cơ sở hệ thống các quan điểm của các tác giả về QLNN đối với hoạt
động du lịch trong phần lịch sử nghiên cứu, chúng ta có thể thấy: QLNN đối với
hoạt động du lịch là phương thức mà bằng công cụ quản lý pháp luật và bộ máy
quản lý, nhà nước tác động vào đối tượng quản lý để định hướng cho hoạt động du
lịch vận động, phát triển đến mục tiêu nhất định.
Quan điểm trên được tác giả lựa chọn làm cơ sở lý luận thống nhất cho toàn
bộ luận văn. Khái niệm này bao hàm những nội dung cơ bản như nhà nước (các cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp) là chủ thể quản lý; các cơ quan xã hội vận động
và phát triển trong lĩnh vực du lịch là đối tượng quản lý và pháp luật là cơ sở và là
công cụ để nhà nước thực hiện sự quản lý. Chủ thể QLNN là tập hợp các cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội được nhà nước ủy quyền. Trong các cơ quan, tổ
chức đó cán bộ, công chức nhà nước có quyền và nghĩa vụ được xác định cụ thể, rõ
ràng. Với tư cách là chủ thể quản lý, nhà nước phải thực hiện hàng loạt các nhiệm
vụ: từ việc xây dựng, ban hành pháp luật đến việc tổ chức, thực hiện pháp luật;
đồng thời nhà nước còn thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát và tiến hành xử lý những
vi phạm pháp luật đối với hoạt động du lịch. Với vai trò đó, nhiệm vụ của nhà nước
là định hướng cho hoạt động du lịch hình thành, vận động và phát triển theo một trật
tự nhất định. Với tư cách là đối tượng quản lý, hoạt động du lịch phải được tổ chức
và vận động trên cơ sở các quy định của pháp luật và chịu sự kiểm tra, giám sát của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với tư cách là cơ sở và là công cụ để nhà
nước thực hiện sự quản lý, pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự
12
chính xác, đầy đủ, thống nhất, là những chuẩn mực để đối tượng quản lý dựa vào đó
vận động, phát triển và để chủ thể quản lý thực hiện sự kiểm tra, giám sát đối tượng
quản lý.
1.1.4. Doanh nghiệp du lịch
Theo điều 1, Nghị định 09-CP ngày 05/02/1994 về tổ chức và quản lý các
doanh nghiệp du lịch thì: “Doanh nghiệp du lịch là tổ chức kinh doanh một hoặc
một số dịch vụ, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động theo
pháp luật”.
Theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 thì: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh du lịch”.
Doanh nghiệp du lịch là một tổ chức sống, là một chủ thể hoạt động kinh
doanh du lịch, là một đơn vị kinh tế cơ sở của ngành du lịch, sản xuất và cung cấp
các sản phẩm dịch vụ du lịch trên thị trường, là nơi tạo ra thu nhập quốc dân.
Doanh nghiệp du lịch là một hệ thống mở có quan hệ chặt chẽ với môi
trường kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào trong hệ thống phân công lao
động xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Doanh nghiệp du lịch là một đơn
vị cung ứng trên thị trường du lịch, đồng thời là một đơn vị tiêu thụ.
1.2. Chức năng và vai trò của QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch
1.2.1. Chức năng
* Chức năng hoạch định
- Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động du lich,
bao gồm các nội dung cơ bản là hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch nói
chung và phát triển các doanh nghiệp du lịch nói riêng, phân tích và xây dựng các
chính sách du lịch, quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển thị trường, xây dựng
hệ thống luật pháp có liên quan tới du lịch. Xác lập các chương trình, dự án, cụ thể hoá
chiến lược, đặc biệt là các lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
13
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động
du lịch của các doanh nghiệp du lịch.
- Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương
hướng hình thành phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập
môi trường kinh doanh, vừa cho phép nhà nước có thể kiểm soát hoạt động của các
doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh du lịch trên thị trường.
* Chức năng tổ chức và phối hợp
- Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du
lịch, sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, chính sách, các
văn bản quy phạm pháp luật, Đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để
thực hiện những vấn đề thuộc về QLNN, nhằm đưa chính sách phù hợp về du lịch
vào thực tiễn, biến quy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch
và cho các doanh nghiệp du lịch phát triển.
- Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan QLNN về du lịch với
các cấp trong hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Trung ương, tỉnh (thành phố), và
quận (huyện, thị xã).
- Các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế,
thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hoá, đa phương thức quan hệ hợp tác
quốc tế trong du lịch, đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký kết.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân
lực du lịch cho các doanh nghiệp du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công
nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá,
thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.
* Chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường
- Nhà nước là người đại diện quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể kinh doanh
nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng, khuyến khích và đảm bảo bằng pháp luật
cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Một mặt, nhà nước hướng dẫn, kích thích
các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định hướng đã vạch ra. Mặt khác, nhà
nước phải can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
14
mô. Trong hoạt động kinh doanh du lịch ở nước ta hiện nay, cạnh tranh chưa bình
đẳng, không lành mạnh là một trong những vấn đề gây trở ngại lớn cho quá trình
phát triển.
- Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết,
can thiệp thị trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của
các quan hệ trao đổi.
- Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tài chính, kết cấu hạ
tầng của thị trường và bảo vệ kinh tế nhà nước phát triển đúng pháp luật nhằm
chống thất thoát, tham nhũng, đảm bảo sinh lợi và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
* Chức năng kiểm soát
- Nhà nước giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như
chế độ quản lý của các chủ thể đó (về các mặt đăng ký kinh doanh, phương án sản
phẩm, chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, môi trường ô nhiễm, cơ chế quản lý kinh
doanh, nghĩa vụ nộp thuế ). Cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt
động du lịch.
- Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và
các qui định của nhà nước, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm
tăng cường hiệu quả của QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch.
- Nhà nước cũng phải kiểm tra, đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản
lý du lịch của nhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức QLNN về
du lịch.
1.2.2. Vai trò
Với tính chất là một ngành kinh tế - xã hội đem lại những hiệu quả tổng hợp
và cũng như các ngành kinh tế khác, phát triển du lịch có thể đem lại những tác
động tiêu cực tới môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội mà lợi nhuận khó bù đắp nổi.
Để đảm báo cho việc phát triển du lịch có hiệu quả lâu dài hay phát triển bền vững
thì không thể thiếu được sự quản lý vĩ mô của nhà nước hay nói cách khác QLNN
có vai trò quyết định đối với phát triển du lịch, thể hiện ở các khía cạnh sau:
15
Một là, nếu không có sự quản lý của nhà nước thì các hoạt động du lịch sẽ
vận động theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đó là quy luật khách quan của
nền kinh tế, định hướng cho các hoạt động du lịch phát triển theo hướng tích cực,
hạn chế các tiêu cực để nhanh chóng đạt được các mục tiêu mà ngành du lịch đặt ra.
Nhà nước sẽ định hướng cho các hoạt động du lịch bằng các chính sách, kế hoạch,
quy hoạch cụ thể, tạo ra các mục tiêu và cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân, đơn
vị hoạt động du lịch thực hiện.
Hai là, trong quá trình phát triển của hoạt động du lịch, các tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp du lịch không thể tự giải quyết nổi những vấn đề vượt quá khả năng
của mình như các vấn đề về môi trường, vấn đề an ninh, an toàn cho du khách, vấn
đề hợp tác quốc tế, vấn đề thủ tục hành chính trong du lịch. Do đó cần phải có sự
quản lý, tạo điều kiện và hỗ trợ của nhà nước cho các hoạt động du lịch phát triển.
Ba là, du lịch là ngành có định hướng tài nguyên, do vậy trong quá trình hoạt
động của mình, các tổ chức, các doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận
riêng của mình, họ chỉ biết khai thác mà không quan tâm đến vấn đề bảo vệ tài
nguyên du lịch. Do vậy nhà nước sẽ phải tham gia vào việc phân phối và sử dụng tài
nguyên du lịch một cách hợp lý, đưa ra các quy định về việc duy trì và bảo tồn tài
nguyên du lịch.
Bốn là, nhà nước tham gia vào việc quản lý các hoạt động du lịch cũng là để
bảo vệ lợi ích của chính mình vì trong bất kỳ một hoạt động kinh tế xã hội nào cũng
có một phần tài sản của nhà nước. Đó là các tổ chức, các doanh nghiệp du lịch của
nhà nước, các cơ sở vật chất kỹ thuật mà nhà nước đầu tư cho hoạt động du lịch.
Năm là, du lịch là một ngành kinh tế xã hội có tính liên ngành. Việc phát
triển du lịch có sự tham gia đóng góp của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: giao
thông vận tải (GTVT), thông tin liên lạc, nông nghiệp… Để du lịch phát triển tốt thì
phải có sự tham gia của nhà nước vào việc điều hòa mối quan hệ giữa du lịch và các
ngành, lĩnh vực có liên quan.
Tóm lại, vai trò của nhà nước đối với hoạt động du lịch nói chung và với các
doanh nghiệp du lịch nói riêng là nhằm đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, những
16
yếu tố tích cực được phát huy, những ảnh hưởng tiêu cực được hạn chế, kỷ cương
pháp luật được giữ vững nhưng vẫn phát phát huy được tính tự chủ sáng tạo của
doanh nghiệp du lịch.
1.3. Nội dung QLNN đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh
Điều 161, Luật Doanh nghiệp (2005) quy định rõ nội dung QLNN đối với
doanh nghiệp như sau:
+ Ban hành, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về
doanh nghiệp và văn bản pháp luật có liên quan.
+ Tổ chức đăng ký kinh doanh; hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm
thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội.
+ Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao đạo đức
kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp
vụ cho cán bộ QLNN đối với doanh nghiệp; đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân
lành nghề.
+ Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục
tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
+ Kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo
quy định của pháp luật.
Điều 10, Luật Du lịch (2005) đã quy định rõ nội dung QLNN về du lịch như sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính
sách phát triển du lịch.
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, tiêu
chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật trong hoạt động du lịch.
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch.
- Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nghiên cứu,
ứng dụng khoa học và công nghệ.
- Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây dựng quy hoạch phát
triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
17
- Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch; hoạt động xúc tiến du lịch ở
trong nước và nước ngoài.
- Quy định tổ chức bộ máy QLNN về du lịch, sự phối hợp của các cơ quan
nhà nước trong việc QLNN về du lịch.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về du lịch.
Như vậy, căn cứ vào điều 10 Luật Du lịch (2005), điều 161 Luật Doanh
nghiệp (2005) và chức năng, nhiệm vụ của Sở VHTTDL, có thể thấy QLNN đối với
các doanh nghiệp du lịch bao gồm các nội dung sau:
1.3.1. Hướng dẫn thực hiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
Hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật của nhà nước và ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật, chính sách phát triển du lịch mang tính đặc thù của địa
phương thuộc thẩm quyền là nội dung quan trọng của công tác QLNN đối với các
doanh nghiệp du lịch.
Văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản luật, có vai trò, tác dụng vô
cùng quan trọng trong đời sống xã hội, thường được ban hành và sử dụng trong một
thời gian khá dài, nên khi ban hành cần tiến hành đánh giá tác động của nó thật
khoa học và chính xác. Hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật đã khó, nhưng
cái khó hơn là làm thế nào để nó đi vào đời sống thực tế. Bản thân chính sách, pháp
luật đối với nền kinh tế của một đất nước nói chung và trong lĩnh vực du lịch nói
riêng mới chỉ là những quy định của nhà nước, là ý chí của nhà nước bắt mọi chủ
thể khác (trong đó có chính bản thân nhà nước) phải thực hiện. Vì vậy, để chính
sách, pháp luật đi vào cuộc sống thì các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan
QLNN về du lịch cấp tỉnh nói riêng phải ban hành các văn bản hướng dẫn và tổ
chức hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật của nhà nước. Việc ban hành các
văn bản và hướng dẫn thực hiện các văn bản phải cụ thể, rõ ràng để các doanh
nghiệp du lịch dễ dàng nắm bắt và triển khai thực hiện. Văn bản triển khai phải đảm
bảo theo đúng quy định của pháp luật và quy định của cơ quan QLNN cấp trên vừa