Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 118 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
o0o





Họ và tên học viên





ĐỀ CƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGÀNH:
CHUYÊN NGÀNH:
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH/NGHIÊN CỨU

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




HOÀNG THỊ THINH








PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA
Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ













Hà Nội – 2014



























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




HOÀNG THỊ THINH






PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA
Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ




NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHÍ MẠNH HỒNG







HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn “Phát triển hệ thống đổi mới quốc gia ở một
số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Phí Mạnh Hồng. Các số
liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài
liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn


Hoàng Thị Thinh








LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đƣợc luận văn này tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự động
viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.
Trƣớc hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phí Mạnh
Hồng đã hƣớng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình. Trong quá trình
hƣớng dẫn, thầy luôn tận tình, động viên và khuyến khích tôi hoàn thành luận

văn.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào
tạo sau đại học, Đại học Kinh tế, Ban Chủ nhiệm Khoa Kinh tế chính trị, đã
tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những ngƣời đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu chƣa nhiều nên luận
văn vẫn còn thiếu sót, rất mong nhận đƣợc sự góp ý của quý Thầy/Cô và các
anh chị học viên.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Học viên

Hoàng Thị Thinh

MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt i
Danh mục các bảng ii
Danh mục các hình iii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA 8
1.1. Một số khái niệm có liên quan 8
1.1.1. Công nghệ 8
1.1.2. Đổi mới công nghệ 13
1.1.3. Hệ thống đổi mới quốc gia 15
1.2. Vai trò của NIS trong phát triển kinh tế hiện đại 22
1.2.1. Kinh tế tri thức và nhu cầu đổi mới và nâng cấp liên tục năng lực
công nghệ 22
1.2.2. Tầm quan trọng của phát triển NIS đối với việc đổi mới và nâng cấp

liên tục năng lực công nghệ 26
1.3. Thực chất và nội dung của quá trình phát triển NIS 29
1.3.1. Thực chất của quá trình phát triển NIS 29
1.3.2. Nội dung chính của phát triển NIS 31
CHƢƠNG 2: KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC
GIA Ở MỘT SỐ NƢỚC CHÂU Á 35
2.1 NIS của Nhật Bản 36
2.1.1. Quá trình hình thành NIS của Nhật Bản 36
2.1.2. Các thành phần trong NIS của Nhật Bản 37
2.1.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS của
Nhật Bản 39
2.1.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Nhật Bản 42
2.2. NIS của Trung Quốc 44
2.2.1. Quá trình hình thành NIS của Trung Quốc 44
2.2.2. Các thành phần trong NIS của Trung Quốc 47
2.2.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS của
Trung Quốc 51
2.2.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Trung Quốc 54
2.3. NIS của Hàn Quốc 56
2.3.1. Quá trình hình thành NIS của Hàn Quốc 56
2.3.2. Các thành phần trong NIS của Hàn Quốc 58
2.3.3. Các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của NIS của
Hàn Quốc 60
2.3.4. Đánh giá những kết quả đạt được của NIS của Hàn Quốc 62
2.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 63
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA Ở VIỆT NAM 69
3.1. Thực trạng Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam 69
3.1.1. Cách tiếp cận của Việt Nam về NIS 69
3.1.2. Sự hình thành và phát triển của NIS ở Việt Nam và đặc điểm của nó 71

3.1.3. Một số kết quả đạt được 78
3.1.4. Những vấn đề tồn tại 83
3.1.5. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém của NIS ở Việt Nam 89
3.1.6. Đánh giá NIS ở Việt Nam 92
3.2. Các giải pháp để phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam. 95
3.2.1. Lựa chọn cách tiếp cận phù hợp và định dạng mô hình NIS của Việt Nam . 95
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về
KH&CN, tạo lập môi trường, thể chế xã hội thích hợp 96
3.2.3. Chuẩn bị các điều kiện cho việc phát triển phát triển NIS 98
3.2.4. Đổi mới cơ chế tài chính khuyến khích phát triển NIS 99
3.2.5. Nâng cao vai trò của doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới công
nghệ 100
3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về NIS 102
KẾT LUẬN 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107

i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Số thứ tự
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
ĐMST
Đổi mới sáng tạo
2
KH&CN
Khoa học và công nghệ
3
KT - XH

Kinh tế - xã hội
4
NIS
Hệ thống đổi mới quốc gia
5
NCKH
Nghiên cứu khoa học
6
OECD
Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế
7
R&D
Nghiên cứu và phát triển
8
SHTT
Sở hữu trí tuệ
9
SME
Doanh nghiệp vừa và nhỏ






ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU

TT

Số hiệu
Tên bảng
Trang
1
2.1
Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Nhật Bản
39
2
2.2
Chi tiêu R&D của Nhật Bản từ năm 2002 – 2010
43
3
2.3
Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Trung Quốc
50
4
2.4
Chi tiêu R&D của Trung Quốc từ năm 2002 – 2010
54
5
2.5
Các cơ quan chủ chốt trong NIS của Hàn Quốc
59
6
2.6
Chi tiêu R&D của Hàn Quốc từ năm 2002 – 2010
62
7
3.1
Thống kê số bằng sáng chế một số nƣớc Đông

Nam Á giai đoạn 2006 – 2010 đƣợc đăng ký tại
Mỹ
84
8
3.2
Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo của Việt
Nam so với các nƣớc xung quanh
85
9
3.3
Việt Nam - Điểm và thứ hạng của các tiêu chí Tổ
chức Nhà nƣớc, Vốn, con ngƣời và Đầu ra sáng
tạo
86
10
3.4
Tỷ lệ đầu tƣ cho KHCN từ ngân sách nhà nƣớc
tính trên GDP của Việt Nam qua các năm

91


iii
DANH MỤC CÁC HÌNH

TT
Số hiệu
Tên hình
Trang
1

1.1
Công nghệ là công cụ biến đổi
10
2
1.2
Mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ
13
3
1.3
Mô hình liên kết trong Hệ thống đổi mới quốc gia
30
4
3.1
Sơ đồ hệ thống các cơ quan, tổ chức tham gia vào
hoạch định chính sách phát triển NIS ở Việt Nam
73









1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Jeffrey Sachs, một chuyên gia về phát triển kinh tế của Liên Hợp Quốc,
đồng tác giả của Chƣơng sách với tiêu đề: “Tiến bộ công nghệ và sự tăng

trƣởng kinh tế lâu dài của các quốc gia châu Á”, đã nêu rõ sự cần thiết phải có
chiến lƣợc đổi mới ở các quốc gia này. Ông viết: “Sự cần thiết phải đề ra
chiến lƣợc đổi mới là một thực tiễn đặt ra cho các quốc gia châu Á, cũng nhƣ
ở các nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, đối với châu Á trong đó có Việt Nam,
nhu cầu này có lẽ còn cấp bách hơn, bởi vì nhiều nền kinh tế châu Á hiện nay
đang đứng ở ngƣỡng cửa của một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi một cách
tiếp cận mới về công nghệ và tăng trƣởng” [20]. Từ chỗ nhập khẩu, ứng dụng
công nghệ của Mỹ và Tây Âu một cách thành công, các nền kinh tế này phải
phấn đấu để tự mình đổi mới công nghệ.
Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, sự phát triển nhƣ vũ
bão của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu… đã đƣa nhân loại
tới nền kinh tế tri thức. Tri thức đã thực sự trở thành nguồn lực quyết định
cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự thay thế nhanh chóng của
công nghệ tất yếu đòi hỏi một nhu cầu cần thiết phải có sự đổi mới và nâng
cấp công nghệ.
Đổi mới công nghệ là một vấn đề từ lâu đã dành đƣợc sự quan tâm
chú ý ở nƣớc ta, đƣợc xem là một nhân tố tạo nên ƣu thế cạnh tranh của
quốc gia. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hoạt động đổi mới công
nghệ, cách tiếp cận theo hƣớng xây dựng và phát triển Hệ thống đổi mới
quốc gia ( National Innovation System - NIS), coi đó là một khuôn khổ thể
chế quan trọng trong việc kết nối, làm gia tăng các năng lực sáng tạo, đổi
mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH & CN) đã đƣợc nhiều quốc
gia quan tâm áp dụng. Ở Việt Nam cũng có một số nỗ lực nghiên cứu để

2
vận dụng khái niệm và cách tiếp cận này vào hoàn cảnh cụ thể của đất
nƣớc.
Thời gian gần đây có nhiều nền kinh tế châu Á đã bắt đầu quan tâm đến
việc xây dựng và hoàn thiện NIS. Từ cuối thập kỷ 90, Trung Quốc đã có Dự

án nghiên cứu NIS của mình khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền
kinh tế thị trƣờng và đề ra quan điểm “NIS mang các đặc trƣng Trung Quốc”.
Các quốc gia khác nhƣ Hàn Quốc mới đây cũng đề xuất “NIS thế hệ thứ 3”,
khi nền kinh tế này đã hoàn thành giai đoạn rƣợt đuổi và bƣớc sang giai đoạn
đổi mới và chuẩn bị cho nền kinh tế tri thức. Ấn Độ, Thái Lan, Philippin,
Inđônêxia trong các kế hoạch KH&CN mới đây cũng đều đề ra các giải pháp
để hoàn thiện và phát huy hiệu quả của NIS.
Việt Nam cũng đã tiến hành nghiên cứu để vận dụng cách tiếp cận NIS
nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy cách
tiếp cận này còn khá mới mẻ và bƣớc đầu bộc lộ nhiều vƣớng mắc trong áp
dụng đòi hỏi cấp thiết phải bổ sung và hoàn thiện.
Xuất phát từ thực tiễn nhƣ đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển Hệ
thống đổi mới quốc gia ở một số nước châu Á và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, vấn đề nghiên cứu và vận dụng cách tiếp cận NIS đã
đƣợc nhiều quốc gia quan tâm. Có khá nhiều công trình nghiên cứu về NIS
nói chung và cả những công trình nghiên cứu cho một số quốc gia cụ thể nhƣ:
“Systems of Innovation, Pinter, London and New York”, của Charles
Edquist, 1997 [15]. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã phân
tích các nguồn gốc lý thuyết và lịch sử của cách tiếp cận NIS. Tác giả đặc biệt
nhấn mạnh lịch sử của cách tiếp cận NIS và chú ý đến cách tiếp cận hệ thống.
Đây là cơ sở để chính phủ hoạch định chính sách phát triển NIS.

3
“The National System of Innovation in Historical Pespective”, của
Chris Freeman, 1995[16], Cambridge Journal of Economics,, February, 5-24.
Chris Freeman đã phân tích và làm rõ thực chất của NIS. Theo ông, NIS là
một mạng lƣới các tổ chức, thiết chế trong các khu vực tƣ nhân và công cộng
cùng phối hợp hoạt động lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu, nhập khẩu, cải

tiến và phổ biến các công nghệ mới.
“Technological advances and the long-term economic growth of Asian
countries” của Sachs, J.D (2001). Trong công trình nghiên cứu này, Sachs đã
phân tích sự cần thiết phải có chiến lƣợc đổi mới ở các quốc gia này. Ông
nhấn mạnh sự cần thiết phải đề ra chiến lƣợc đổi mới là một thực tiễn đặt ra
cho các quốc gia châu Á, cũng nhƣ ở các nơi khác trên thế giới, bởi vì nhiều
nền kinh tế châu Á hiện nay đang đứng ở ngƣỡng cửa của một giai đoạn phát
triển mới, đòi hỏi một cách tiếp cận mới về công nghệ và tăng trƣởng.Từ chỗ
nhập khẩu, ứng dụng công nghệ của Mỹ và Tây Âu một cách thành công, các
nền kinh tế này phải phấn đấu để tự mình đổi mới công nghệ.
“National Innovation Systems: Towards a Theory of Innovation and
Interactive Learning” của Lundvall, B.A. Trong tài liệu này, Lundvall đã
dùng khái niệm NIS để phân tích các quá trình đổi mới, bao gồm các doanh
nghiệp và các tổ chức tri thức tƣơng tác với nhau nhằm mục đích thúc đẩy đổi
mới và nâng cấp liên tục năng lực công nghệ.
“The ensence and importance of the National innovation system” của
Patel, P và Pavitt, K (1994). Trong công trình nghiên cứu này, hai tác giả đã
phân tích và làm rõ bản chất và tầm quan trọng của NIS. Theo các ông, NIS
bao gồm các tổ chức thiết chế trong nƣớc, hệ thống các kích thích và năng lực
quyết định tốc độ và chiều hƣớng cải tiến công nghệ (hoặc là tốc độ và cấu
thành của các hoạt động tạo ra đổi mới) trong một nƣớc.

4
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng NIS trong một vài năm gần đây thu hút
đƣợc sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu
về NIS nhƣ:
“Vận dụng cách tiếp cận NIS để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, Lê
Đình Tiến, 2000 [8]. Tác giả đã phân tích khái quát cách tiếp cận về NIS và
hƣớng nó vào vấn đề thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
“Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan, Những

kiến thức cơ bản về đổi mới” của TS. Trần Công Yên [14] cũng đã trình bày
những tất yếu của đổi mới công nghệ và nhấn mạnh đến sự đổi mới theo cách
tiếp cận NIS.
Công trình “NIS của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á” [11]
của trung tâm thông tin khoa học và công nghệ năm 2006. Trong tổng luận
này cũng phân tích và làm rõ NIS của các nền kinh tế đang phát triển ở châu
Á và bƣớc đầu đƣa ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Bên cạnh đó còn một số bài báo trên các tạp chí cũng đã đề cập đến vấn
đề xây dựng và hoàn thiện NIS ở Việt Nam nhƣ: “Đổi mới tư duy hoạt động
và quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta sau hội nhập WTO theo cách tiếp
cận NIS về khoa học và công nghệ” [7] của tác giả Trần Đình Quân trên tạp
chí Nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ ; “Thị trường khoa học
công nghệ” của tác giả Vũ Đình Cự (2004), Tạp chí hoạt động khoa học [1];
“Hệ thống đổi mới quốc gia và một số vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Ngọc Trân [9]…Các công trình này đã đề cập đến sự cần thiết của việc
xây dựng Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam, coi đó là động lực thúc đẩy
đổi mới công nghệ. Các công trình đều khẳng định việc xây dựng và phát
triển NIS là tất yếu để các nhà lãnh đạo quốc gia biết đƣợc danh mục các mặt
hàng chủ yếu, các công nghệ cần phát triển, các bƣớc đi về kinh tế đối ngoại
cần tiến hành, sẽ đảm bảo thắng lợi trong thời gian trƣớc mắt (3-5 năm) và về
lâu dài. Có thể nói NIS là động lực phát triển thị trƣờng KH&CN. Nếu không

5
có hệ thống này, hoặc có, nhƣng hoạt động tồi thì thị trƣờng KH&CN rất dễ
bị biến động, dẫn tới khủng hoảng.
Viện Nghiên cứu Chính sách KH&CN (NISTPASS) cũng có những công
trình nghiên cứu và thƣờng xuyên cử cán bộ đi dự các cuộc Hội nghị, Hội thảo
khu vực và quốc tế về NIS. Gần đây nữa, các nhà khoa học có uy tín nhƣ Giáo
sƣ Đặng Hữu, Giáo sƣ Vũ Đình Cự, Giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trân… cũng
nêu ý kiến về sự cần thiết phải xây dựng và củng cố NIS ở Việt Nam.

Tuy nhiên, hiện nay chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách hệ thống về NIS và đề xuất những chính sách thích đáng để xây dựng và
hoàn thiện NIS ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài đƣợc thực hiện là cần thiết cả về lí
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận giải rõ cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển NIS của một số nƣớc ở
châu Á; trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị, có thể vận
dụng để đề xuất một số giải pháp, chính sách cơ bản nhằm phát triển NIS ở
Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ một số khái niệm có liên quan đến NIS và các thành
phần trong NIS cũng nhƣ tầm quan trọng của NIS đối với việc nâng cấp và
đổi mới công nghệ.
- Làm rõ quá trình hình thành, các thành phần và biện pháp chính sách
nhằm thúc đẩy sự phát triển NIS ở một số nƣớc châu Á từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm phát triển NIS ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng, quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm của NIS ở
Việt Nam. Đánh giá những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề còn tồn tại, trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển NIS ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

6
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự phát triển NIS của một số nƣớc ở châu Á là đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn. Trên cơ sở đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho sự phát triển NIS ở
Việt Nam thông qua phân tích thực trạng, quá trình hình thành và phát triển, đặc
điểm của NIS ở Việt Nam. Đánh giá những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề
còn tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển NIS ở
Việt Nam

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu NIS của ba nƣớc ở châu Á là: Nhật Bản,
Trung Quốc và Hàn Quốc. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm và
giải pháp cho việc phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh và đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, pháp luật, chính sách của
Nhà nƣớc Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phƣơng pháp chung của luận văn là sử dụng phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phƣơng pháp trừu
tƣợng hóa khoa học.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số phƣơng pháp cụ thể khác, nhƣ:
phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học, phƣơng pháp phân tích – tổng hợp,
phƣơng pháp so sánh, thống kê…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ cách thức hình thành và phát triển NIS của một số
nƣớc ở châu Á, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, chính sách nhằm phát
triển NIS ở Việt Nam.

7
- Luận văn phân tích, đánh giá NIS của Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NIS của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng, 9 tiết:
Chương 1: Tổng quan chung về Hệ thống đổi mới quốc gia
Chương 2: Kinh nghiệm phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở một số
nước châu Á

Chương 3: Một số gợi ý chính sách nhằm phát triển Hệ thống đổi mới quốc gia ở
Việt Nam



















8
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ HỆ THỐNG ĐỔI MỚI QUỐC GIA
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Công nghệ
1.1.1.1. Khái niệm công nghệ
Có thể nói công nghệ xuất hiện đồng thời với sự hình thành xã hội loài
ngƣời. Từ “công nghệ” xuất phát từ chữ Hy Lạp (Teknve – Tenkhne) có nghĩa
là một công nghệ hay một kỹ năng, và (λoyoσ –logos) có nghĩa là một khoa

học, hay sự nghiên cứu. Nhƣ vậy, thuật ngữ Technology (Tiếng anh) hay
Technologie (Tiếng Pháp) có ý nghĩa là khoa học về kỹ thuật hay sự nghiên
cứu có hệ thống về kỹ thuật – thƣờng đƣợc gọi là Công nghệ học.
Có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về công nghệ, trong cuốn
giáo trình “Quản trị công nghệ” đã giới thiệu một định nghĩa tƣơng đối đầy đủ
về công nghệ: “Công nghệ là việc sử dụng sáng tạo các loại công cụ, máy
móc, tri thức và kỹ năng để biến đổi các yếu tố đầu vào thành sản phẩm hay
dịch vụ” [6]
Ở Việt Nam, cho đến nay công nghệ thƣờng đƣợc hiểu là quá trình tiến
hành một công đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc (do đó
công nghệ thƣờng là tính từ của cụm thuật ngữ nhƣ: qui trình công nghệ, thiết
bị công nghệ, dây chuyền công nghệ…). Theo những quan niệm này, công
nghệ chỉ liên quan đến sản xuất vật chất.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, khởi đầu từ Mỹ rồi Tây Âu đã sử
dụng thuật ngữ “công nghệ” để chỉ các hoạt động ở mọi lĩnh vực, các hoạt
động này áp dụng những kiến thức là kết quả của nghiên cứu khoa học ứng
dụng – một sự phát triển của khoa học trong thực tiễn – nhằm mang lại hiệu
quả cao hơn trong hoạt động của con ngƣời.
Khái niệm công nghệ này dần dần đƣợc chấp nhận rộng rãi trên thế
giới, ví dụ thể hiện ở việc thay đổi tên gọi của các tạp chí lớn trên thế giới,

9
nhƣ “Tạp chí khoa học và kỹ thuật – Science et technique” đổi thành “Khoa
học và công nghệ - Science et technogie”
Ở Việt Nam, Nghị quyết 26 của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung
ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI (1991) mang tên “Nghị quyết về
khoa học – công nghệ”. Nhƣ vậy, thuật ngữ công nghệ đã đƣợc sử dụng chính
thức ở nƣớc ta. Năm 1992, Ủy ban khoa học – kỹ thuật Nhà nƣớc đổi thành
Bộ khoa học – công nghệ và Môi trƣờng (nay là Bộ khoa học - công nghệ).
Mặc dầu đã đƣợc sử dụng khá rộng rãi trên thế giới, song việc đƣa ra

một định nghĩa công nghệ lại chƣa có đƣợc sự thống nhất. Đó là do số lƣợng
các công nghệ hiện có nhiều đến mức không thể thống kê đƣợc, công nghệ lại
hết sức đa dạng, khiến những ngƣời sử dụng một công nghệ cụ thể trong
những điều kiện và hoàn cảnh không giống nhau sẽ dẫn đến sự khái quát của
họ về công nghệ sẽ khác nhau. Bên cạnh đó sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa
học công nghệ làm thay đổi nhiều quan niệm cũ tƣởng nhƣ vĩnh cửu, cũng là
nguyên nhân dẫn đến sự không thống nhất trên.
Việc đƣa ra một định nghĩa khái quát đƣợc bản chất của công nghệ là
việc cần thiết, bởi vì không thể quản lý công nghệ, một khi chƣa xác định rõ
nó là cái gì.
Các tổ chức quốc tế về Khoa học – công nghệ đã có nhiều cố gắng
trong việc đƣa ra một định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm,
đồng thời tạo thuận lợi cho việc phát triển và hoà nhập các quốc gia trong
từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Có bốn khía cạnh cần bao quát trong định nghĩa công nghệ, đó là:
Khía cạnh “công nghệ là máy biến đổi”
Khía cạnh “công nghệ là một công cụ”
Khía cạnh “công nghệ là kiến thức”
Khía cạnh “công nghệ hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”.

10
Khía cạnh thứ nhất đề cập đến khả năng làm ra đồ vật, đồng thời công
nghệ phải đáp ứng mục tiêu khi sử dụng và thoả mãn yêu cầu về mặt kinh tế
nếu nó muốn đƣợc áp dụng trên thực tế. Đây là điểm khác biệt giữa khoa học
và công nghệ.
Môi trƣờng
công nghệ









Hình 1.1. Công nghệ là công cụ biến đổi

Khía cạnh thứ hai nhấn mạnh công nghệ là một sản phẩm của con
ngƣời, do đó con ngƣời có thể làm chủ đƣợc nó vì nó hoàn toàn không phải là
“cái hộp đen” huyền bí. Vì là một công cụ nên công nghệ có mối quan hệ chặt
chẽ đối với con ngƣời và cơ cấu tổ chức.
Khía cạnh thứ ba đề cập đến cốt lõi của mọi hoạt động công nghệ là
kiến thức. Nó bác bỏ quan niệm công nghệ phải là các vật thể, phải nhìn thấy
đƣợc. Đặc trƣng kiến thức khẳng định vai trò dẫn đƣờng của khoa học đối với
công nghệ, đồng thời nhấn mạnh rằng không phải ở các quốc gia có các công
nghệ giống nhau sẽ đạt đƣợc kết quả nhƣ nhau. Việc sử dụng một công nghệ
đòi hỏi con ngƣời cần phải đƣợc đào tạo về kĩ năng, trang bị kiến thức và phải
luôn cập nhật những kiến thức đó.
Hoạt động
sản xuất
Nguồn lực
Hàng hoá
Dịch vụ
Công
nghệ

11
Khía cạnh thứ tƣ đề cập đến vấn đề: công nghệ dù là kiến thức song
vẫn có thể đƣợc mua, đƣợc bán. Đó là do công nghệ hàm chứa trong các vật
thể tạo nên nó. Trung tâm chuyển giao công nghệ khu vực Châu Á và Thái

Bình Dƣơng (The Asian and Pacific Center For Transfer of Technology –
APCTT) coi công nghệ hàm chứa trong bốn thành phần: kỹ thuật, kỹ năng
con ngƣời, thông tin và tổ chức.
Xuất phát từ các khía cạnh trên, chúng ta có thể thừa nhận định nghĩa
công nghệ do Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á –Thái Bình Dƣơng
(Economic and Social Commission for Asia and the Pacific – ESCAP) đƣa ra:
Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để
chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp và
các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ. [13]
Định nghĩa công nghệ của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á –
Thái Bình Dƣơng đƣợc coi là bƣớc ngoặt trong quan niệm về công nghệ.
Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ,
mà khái niệm công nghệ đƣợc mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã
hội. Những lĩnh vực công nghệ mới mẻ dần trở thành quen thuộc: công nghệ
thông tin, công nghệ ngân hàng, công nghệ du lịch, công nghệ văn phòng…
1.1.1.2. Các thành phần cơ bản của công nghệ
Công nghệ bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng cốt lõi bao giờ
cũng bao gồm bốn thành phần cơ bản sau:
Thứ nhất: Phần kỹ thuật (Technology - T), bao gồm các phƣơng tiện
vật chất cần thiết cho sản xuất, ví dụ nhƣ máy móc, dụng cụ, các thiết bị trong
dây chuyền phần này đƣợc coi là phần vật chất cốt lõi của bất kỳ sự chuyển
đổi đối tƣợng lao động nào.
Thứ hai: Phần con ngƣời (Human - H) là kỹ năng và kinh nghiệm của
con ngƣời làm chủ công nghệ, nó bao gồm năng lực sáng tạo, sử dụng phần

12
kỹ thuật một cách khéo léo về thao tác và tƣ duy tổ chức vận hành, hệ thống
thông tin. Đây là phần chủ chốt của bất kỳ thao tác vận hành công nghệ. Con
ngƣời là nguồn gốc của mọi sáng tạo, nền kinh tế tri thức trong tƣơng lai, chất
xám, trí tuệ của con ngƣời tác động nhanh, có sức mạnh quyết định các quá

trình chuyển đổi phát triển.
Thứ ba: Phần thông tin (Information - I), bao gồm các tài liệu mà bản
thân phần vật chất của kỹ thuật của công nghệ mang lại thông tin; ví dụ nhƣ
sơ đồ quy trình công nghệ, bản thiết kế, các bảng tính, công thức, phƣơng
trình biểu đồ lý thuyết, các thao tác chuyển đổi, các mẫu mã, phần mềm hỗ
trợ Phần này do con ngƣời tạo ra và sử dụng có ý nghĩa trong việc đào tạo,
nghiên cứu phát triển. Đây cũng là phần đƣợc bảo mật.
Thứ tư: Phần tổ chức (Organization - O), là sự bố trí và mối liên hệ con
ngƣời với con ngƣời về thông tin, máy móc, thiết bị trong sản xuất. Nó bao
gồm sơ đồ cơ cấu tổ chức cho các hoạt động, loại hình công ty, ví dụ nhƣ
phân công nhân sự, thiết lập các quy tắc vận hành, phƣơng pháp quản lý công
nghệ, quản lý chất lƣợng, nội quy làm việc
Bất cứ một sự đổi mới công nghệ nào cũng cần sự phối hợp hoạt bốn
thành phần cơ bản của công nghệ: T, thành phần vật chất cốt lõi của công
nghệ, khi nó thay đổi thì các thành phần H, I, O cũng phải tƣơng thích mới có
ý nghĩa.
Các thành phần của công nghệ có quan hệ mật thiết, bổ sung cho
nhau, không thể thiếu bất cứ thành phần nào. Nếu không hiểu chức năng và
mối tƣơng hỗ giữa các thành phần của công nghệ, có thể dẫn đến lãng phí
trong đầu tƣ trang thiết bị do các thành phần khác không tƣơng xứng (hay
không đồng bộ) khiến trang thiết bị, máy móc không phát huy hết tính năng
của chúng.

13

Hình 1.2 : Mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ

1.1.2. Đổi mới công nghệ
Lịch sử phát triển xã hội loài ngƣời đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của một loại hình kỹ thuật

đặc trƣng quyết định sự phát triển của xã hội loài ngƣời ở giai đoạn đó. Thời
kỳ đồ đá phát triển cao hơn thời kỳ trƣớc đó là nhờ sự xuất hiện và phát triển
của các công cụ lao động bằng đá. Thời kỳ đó lại đƣợc thay thế bởi thời kỳ đồ
đồng có mức độ phát triển cao hơn với sự xuất hiện và phát triển của việc sản
xuất và sử dụng các công cụ sản xuất bằng đồng… Đến thế kỷ XVIII tất cả
các hệ thống kỹ thuật mà loài ngƣời đã sử dụng lúc đó dần đƣợc thay đổi đó
là nguồn động lực, với sự ra đời của máy hơi nƣớc – nguồn động lực mới thay
thế nguồn động lực truyền thống là sức lực cơ bắp của con ngƣời, gia súc và
một phần nhỏ sức mạnh tự nhiên nhƣ sức gió, sức nƣớc. Đó là một trong các
yếu tố tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, làm thay đổi bộ mặt
của thế giới.
Ngày nay, việc ứng dụng các thành tựu của công nghệ là một xu thế tất
yếu của hệ thống công nghệ toàn cầu đã và đang mang lại những hiệu quả to
H
T
O
O
O
O
O
i
I

14
lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và toàn thế giới nhờ liên tục đổi
mới công nghệ.
Đổi mới công nghệ là cấp cao nhất của thay đổi công nghệ và là quá
trình quan trọng nhất của sự phát triển đối với tất cả các hệ thống công nghệ.
Có quan điểm cho rằng đổi mới công nghệ là sự hoàn thiện và phát triển
không ngừng các thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các thành tựu

khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh và quản lý
kinh tế, xã hội. Với quan điểm này, một sự thay đổi trong các thành phần
công nghệ dù nhỏ cũng đƣợc coi là đổi mới công nghệ, thực ra các hoạt động
này nên coi là cải tiến công nghệ thì chính xác hơn. Mặt khác, hệ thống công
nghệ mà con ngƣời đang sử dụng có tính phức tạp và đa dạng cao, chỉ một
loại sản phẩm đã có thể dùng rất nhiều loại công nghệ khác nhau, do đó nếu
xếp tất cả các thay đổi nhỏ về công nghệ thuộc về đổi mới công nghệ thì việc
quản lý đổi mới công nghệ là việc làm không có tính khả thi. Để có thể quản
lý đƣợc các hoạt động đổi mới thì cần tập trung vào những hoạt động cơ bản.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đổi mới công nghệ, theo giáo trình Quản trị
công nghệ [6] là tài liệu cập nhật mới nhất đã đƣa ra định nghĩa về đổi mới
công nghệ:
“Đổi mới công nghệ được hiểu theo bản chất là việc đổi mới các yếu tố
cấu thành một công nghệ trong mối tương quan với công nghệ hiện có của
doanh nghiệp hay đối thủ cạnh tranh trên thế giới. Đổi mới công nghệ liên
quan tới chất lượng các yếu tố cấu thành công nghệ và qua đó là mức độ hiện
đại của một công nghệ”
Có thể hiểu một cách đơn giản là việc chủ động thay thế phần quan
trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công
nghệ khác tiến tiến hơn, hiệu quả hơn.
Đổi mới công nghệ có thể chỉ nhằm giải quyết các bài toán tối ƣu, các
thông số sản xuất nhƣ năng suất, chất lƣợng, hiệu quả… (Đổi mới quá trình)

15
hoặc có thể nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trƣờng (Đổi
mới sản phẩm).
Đổi mới công nghệ có thể là đƣa ra hoặc ứng dụng những công nghệ
hoàn toàn mới (ví dụ sáng chế công nghệ mới) chƣa có trên thị trƣờng công
nghệ hoặc là mới ở nơi sử dụng nó lần đầu và trong một hoàn cảnh hoàn toàn
mới (ví dụ đổi mới công nghệ nhờ chuyển giao công nghệ theo chiều ngang).

1.1.3. Hệ thống đổi mới quốc gia
1.1.3.1. Khái quát lịch sử cách tiếp cận khái niệm NIS
Là sản phẩm của cơ chế thị trƣờng và những kinh nghiệm trong quản lý
Nhà nƣớc, từ thập kỷ 80 trở lại đây, tại một số quốc gia tiên tiến thuộc tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã xuất hiện cách tiếp cận “Hệ thống
đổi mới quốc gia (National Innovation System – NIS). Tƣ duy mới này dẫn
tới tại các nƣớc công nghiệp hoá, các chính sách phát triển đã chuyển từ
những quan tâm một cách chuyên biệt đến hệ thống KH&CN, hệ thống R&D
sang NIS; tập trung vào khái niệm chính sách đổi mới, thay cho chính sách
KH&CN. Theo cách tiếp cận này, vấn đề quan trọng thiết yếu không phải là
năng lực R&D mang tính chuyên môn mà là năng lực đổi mới, hơn nữa không
chỉ là năng lực đổi mới ở tầm quốc gia mà quan trọng hơn cả bao gồm năng
lực đổi mới sản phẩm, dịch vụ và các quy trình sản xuất, kinh doanh tại chính
các doanh nghiệp.
Lần đầu tiên thuật ngữ NIS đƣợc trình bày nhƣ một cách tiếp cận là trong
cuốn sách của C. Freeman về chính sách công nghệ của nền kinh tế Nhật Bản
(C. Freeman, 1987). Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hai công trình về hệ
thống đổi mới (Lundvall, 1992 và R. Nelson, 1993) đã đƣợc xuất bản. Kể từ đó,
trong giới nghiên cứu, cách tiếp cận này đã đƣợc sử dụng rộng rãi và phổ biến
nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc. Cho đến nay, nhiều quốc gia đang phát
triển trong đó có Việt Nam rất quan tâm và bƣớc đầu nghiên cứu để vận dụng
cách tiếp cận này nhằm thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực KH&CN.

×