Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




PHẠM THỊ THANH XUÂN





PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO TỈNH NINH BÌNH





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





PHẠM THỊ THANH XUÂN



PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS Mai Thị Thanh Xuân



Hà Nội - 2014


i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

STT


hiệu
Nguyên nghĩa
1
THCS
Trung học cơ sở
2
THPT
Trung học phổ thông
3
GDTX
Giáo dục thường xuyên
4

Cao đẳng
5
ĐH
Đại học
6
THCN
Trung học chuyên nghiệp
7
HS/GV
Học sinh/Giáo viên


ii

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Số
hiệu
Tên bảng
Trang
1
2.1
Sự phát triển Giáo dục - Đào tạo 2000-2013
49 - 50
2
2.2
Tỷ lệ học sinh phổ thông lưu ban, bỏ học phân
theo cấp học
52
3
2.3
Cơ cấu học sinh, sinh viên phân theo cấp học
53
4
2.4
Quy mô giáo viên, giảng viên các cấp học từ năm
học 2000-2001 đến nay
58
5
2.5
Sự phát triển đội ngũ giáo viên các cấp phân theo
huyện, thị.
60
6
2.6
Tỷ lệ giáo viên/lớp, học sinh/giáo viên giai đoạn

2000 – 2014
61
7
2.7
Cơ cấu giáo viên phân theo giới tính giai đoạn
2000-2013
65
8
2.8
Cơ cấu giáo viên theo trình độ chuyên môn
66
9
2.9
Cơ cấu giáo viên dạy nghề phân theo trình độ của
tỉnh Ninh Bình năm học 2013-2014
68
10
2.10
Cơ cấu giảng viên, giáo viên các trường THCN,
Cao đẳng, Đại học phân theo học hàm học vị năm
học 2012-2013
68
11
2.11
Cơ cấu giáo viên các cấp phân theo loại hình đào
tạo
69
12
2.12
Tình hình chuẩn hoá đội ngũ giáo viên tại tỉnh

Ninh Bình giai đoạn 2000 – 2014
71
13
2.13
Kết quả đánh giá trình độ giáo viên tiếng Anh các
cấp phổ thông năm 2012 (theo khung tham chiếu
năng lực ngoại ngữ Châu Âu)
73
14
2.14
Xếp loại cán bộ quản lý giáo dục năm học
2012-2013
76


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Loài người hiện nay đang hướng tới một xã hội hiện đại văn minh, nơi
mà có sự kết hợp hài hòa giữa mức sống cao và nếp sống đẹp, giữa điều kiện
vật chất và điều kiện tinh thần. Để đạt được mục tiêu đó, điều quan trọng là
phải tìm ra được động lực cơ bản của sự phát triển.Tại Việt Nam, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã xác định: “ nguồn lực con người
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [21].
Trước đó, tại đại hội lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã xác
định: “Giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, là động lực trực tiếp của sự phát triển”. Trong giai đoạn
hiện nay, khi trí tuệ trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh
của một quốc gia thì Giáo dục – Đào tạo không đơn thuần chỉ là phúc lợi xã

hội mà còn là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục –
Đào tạo có vai trò cốt tử đối với mỗi quốc gia. Trong Giáo dục – Đào tạo, vấn
đề chất lượng giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý Giáo dục – Đào tạo là vấn
đề đặc biệt quan trọng, là cốt lõi tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao cho
nền kinh tế.
Nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo tại tỉnh Ninh Bình
đang ở một thời kỳ rất khó khăn do chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, nguồn nhân lực bổ sung chất lượng cao
cho lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo đang thiếu hụt do môi trường và điều kiện
làm việc không hấp dẫn, trong khi yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đối với nguồn nhân lực lại rất cao. Trước tình hình đó,
phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo đang trở thành
yêu cầu bức thiết đối với lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo tỉnh Ninh Bình hiện
nay. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo

2

tỉnh Ninh Bình, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn để tìm ra
những giải pháp hữu hiệu phù hợp với điều kiện của tỉnh. Với ý nghĩa đó, tác
giả chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo
tỉnh Ninh Bình” để làm luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
Câu hỏi nghiên cứu của đề tài là:
Tỉnh Ninh Bình cần phải làm gì để có được nguồn nhân lực chất lượng
cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế?
2. Tình hình nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo là nhu cầu
cấp bách cho phát triển nguồn nhân lực của cả nước trong giai đoạn hiện nay,
vì vậy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học, luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ, và các bài nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó những

công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn có thể phân thành hai
nhóm: nhóm 1, gồm những bài nghiên cứu về nguồn nhân lực nói chung; và
nhóm 2, gồm những bài nghiên cứu có liên quan đến phát triển nguồn nhân
lực trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo. Cụ thể như sau:
 Những công trình nghiên cứu thuộc nhóm 1gồm:
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”,
Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Cuốn
sách đã luận giải một số vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực; trình bày
thực trạng phát triển nguồn nhân lực, từ đó khái quát một số kinh nghiệm phát
triển nguồn nhân lực của các cường quốc trên thế giới trong những thập kỷ gần
đây và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực
giáo dục - đào tạo, coi đó yếu tố quyết định phát triển nguồn nhân lực. Cuốn
sách chỉ ra rằng, sự phát triển thành công và cất cánh của một quốc gia luôn
gắn chặt với chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là

3

chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, tức là “chiến lược trồng người”.
- "Đi vào thế kỷ XXI, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", của Phạm Minh Hạc, đăng trên tạp
chí Lao động - Xã hội số 215 năm 2003. Bài nghiên cứu chỉ ra vấn đề nổi
cộm hiện nay là vấn đề nguồn nhân lực. Tác giả khẳng định: nguồn lực con
người là điểm cốt yếu nhất của nội lực Việt Nam, phải bằng mọi cách phát
huy yếu tố con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Bài viết đưa ra
thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, từ đó rút ra những tư
tưởng chỉ đạo về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong
tương lai.
- "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội
nhập quốc tế", của Phạm Công Nhất, tạp chí Cộng sản số 786 tháng 4 năm
2008. Tác giả phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta trong giai đoạn

hiện nay về số lượng, chất lượng. Đặc biệt, điểm nhấn trong bài viết của tác
giả chính là chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đang còn nhiều hạn chế,
yếu kém, cho dù nước ta có nguồn nhân lực dồi dào. Bên cạnh đó, tác giả còn
nêu ra những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực nước ta, đưa ra nguyên
nhân của những yếu kém đó. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những giải pháp
để có thể phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- "Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
hiện nay", của Phạm Quốc Trung và Trần Đăng Thịnh, bài viết trên tờ
Economy and Forecast Review năm 2009. Bài viết đã nêu ra những bất cập
trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, nguyên
nhân của những bất cập đó và trên cơ sở đó đưa ra năm giải pháp để phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Bao gồm: (1), nhận thức tầm
quan trọng của việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong

4

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập; (2), nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực; (3), nâng cao chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực; (4), xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và công
cụ khuyến khích thúc đẩy phát triển nhân lực; (5), tăng cường mở rộng phối
hợp và hợp tác trong phát triển nguồn nhân lực.
- "Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay: thực
trạng và triển vọng", của Nguyễn Văn Khánh, Hoàng Thu Hương, tạp chí
Nghiên cứu Con người số 1 năm 2010. Trong bài viết, tác giả đưa ra quan
niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao, thực trạng nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra triển vọng phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao và một số khuyến nghị để phát triển nguồn
nhân lực này, bao gồm: (1), giáo dục đại học cần gắn chặt với nhu cầu xã hội;
(2), kiểm soát chất lượng đầu ra của giáo dục đại học, sau đại học; (3), công

tác hướng nghiệp cần được tổ chức có hệ thống từ phổ thông đến đại học; (4),
tăng cường giao lưu quốc tế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam", của Lê Thị Hồng Điệp, luận án tiến sĩ trong lĩnh vực kinh tế
chính trị, trường Đại học Kinh tế - ĐHQG Hà Nội năm 2010, mã số 62.31.01.
Luận án đã hệ thống hóa và phát triển một số lý thuyết về phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao gắn với quá trình hình thành nền kinh tế tri thức.
Luận án cũng đưa ra nội dung, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố tác động
đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam từ 2001-2007, đề
xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình
thành kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", của Trần Cao Hoàng,
luận văn thạc sĩ trong lĩnh vực kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế, Đại

5

học Kinh tế, năm 2012, mã số 60.31.07. Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý
luận về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao. Luận giải một cách
khoa học nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là động lực cho sự phát triển và
mở rộng hội nhập và hợp tác quốc tế cho các tỉnh thành địa phương. Khảo sát,
nghiên cứu thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Bình, làm rõ
những điểm mạnh, điểm yếu của chất lượng nguồn nhân lực đó, đưa ra những
giải pháp khả thi nhằm khắc phục những hạn chế về mặt chất lượng nguồn
nhân lực, đề xuất một số phương hướng, giải pháp đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế tỉnh Ninh Bình.
* Những công trình nghiên cứu thuộc nhóm 2 gồm:
“Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo ở Việt Nam
- Thực trạng và giải pháp”, luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị 2005, trường
đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số 60 31 01. Luận văn đã đưa

ra cơ sở lý luận và thực tiễn của phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo
dục - Đào tạo, thực trạng nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo trong
giai đoạn 1997 - 2004, từ đó đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm phát
triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo nước ta trong những
năm tiếp theo. Tác giả đưa ra 4 giải pháp cơ bản, bao gồm: (1), Xây dựng kế
hoạch, quy hoạch nguồn nhân lực Giáo dục - Đào tạo; (2), Xã hội hoá phát
triển nguồn nhân lực Giáo dục - Đào tạo; (3), Các chính sách hỗ trợ cho việc
phát triển nguồn nhân lực Giáo dục - Đào tạo; (4), Phát triển thị trường lao
động trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo; trong đó nhấn mạnh sự cấp bách của
nhóm giải pháp thứ nhất và thứ hai.
- “Phát triển Giáo dục - Đào tạo là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội” của Trần Thị Minh Giới, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Một số vấn đề về
nội dung và phương pháp giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2005. Trong bài viết, tác giả có nêu: “khi nguồn lực

6

con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, thì
phát triển Giáo dục - Đào tạo là phương tiện chủ yếu để quyết định chất lượng
con người, là nền tảng chiến lược của con người” [24]. Cùng với việc nhận
thức đúng vị trí, vai trò của Giáo dục - Đào tạo ở tất cả các bậc học, tác giả
cũng đưa ra khẳng định vai trò quyết định của chất lượng đội ngũ giáo viên
đối với chất lượng nhân lực xã hội, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên như: nâng cao mức sống và điều kiện làm
việc cho giáo viên; nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên; có chính
sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp
- “Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, của Phí Văn Hạnh, bài viết
trên tạp chí Tổ chức Nhà nước năm 2008. Trong bài viết, tác giả cho rằng
muốn nâng cao chất lượng giáo viên thì cần nâng cao nhận thức của xã hội về

vai trò của đội ngũ nhà giáo; đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ
nhà giáo theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa; đổi mới công tác bố trí, sử
dụng đội ngũ nhà giáo; tạo lập hệ thống động lực cho việc nâng cao vai trò
của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường
trung học phổ thông.
- “Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục tỉnh Bình Định”, của
Phạm Minh Tú, luận văn thạc sĩ trong lĩnh vực Kinh tế Phát triển, mã số
60.31.05, năm 2011. Dựa trên tình hình thực tiễn của địa phương, tác giả đưa
ra 4 giải nhóm pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực giáo dục tỉnh Bình
Định. Bao gồm: (1), nhóm giải pháp phát triển số lượng và cơ cấu giáo viên;
(2), nhóm giải pháp nâng cao năng lực cán bộ giáo viên; (3), nhóm giải pháp
nâng cao động lực thúc đẩy cán bộ giáo viên và (4), các giải pháp bổ sung khác.
Các công trình nghiên cứu trên đã có nhiều đóng góp có ý nghĩa về mặt
khoa học, làm sáng tỏ nhiều vấn đề về nguồn nhân lực chất lượng cao và

7

nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo. Các công trình nghiên cứu
trên đều đi đến nhận thức chung, đó là: vai trò của nguồn nhân lực chất lượng
cao nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục –
Đào tạo nói riêng giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội,
đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Những
nghiên cứu trên có đóng góp quan trọng về mặt khoa học và là nguồn tư liệu
quan trọng để tác giả tham khảo phục vụ cho công trình nghiên cứu của mình.
Tuy vậy, vấn đề nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo của
tỉnh Ninh Bình vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống.
Chính vì vậy, đề tài luận văn của tác giả sẽ nghiên cứu để tìm hiểu mảng
trống nhận thức và thực tiễn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục –
Đào tạo của tỉnh Ninh Bình hiện nay, tìm ra những hạn chế trong vấn đề này và
nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực này từ
nay đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo của tỉnh Ninh Bình từ năm 2000 đến nay.
+ Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

8

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trên tất cả các phương diện: quy mô, trình độ và cơ cấu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung: như trên đã đề cập, nguồn nhân lực trong lĩnh vực
Giáo dục - Đào tạo bao gồm nhiều bộ phận, thực hiện nhiều chức năng khác
nhau. Do khuôn khổ luận văn có hạn, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu bộ phận
quan trọng nhất là đội ngũ giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục từ
cấp học mầm non đến cao đẳng, đại học. Vì đây là đội ngũ nguồn nhân lực
chất lượng cao ngành Giáo dục – Đào tạo Ninh Bình.
- Phạm vi không gian: trong phạm vi tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2000 đến nay và định hướng cho những năm
tiếp theo.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, luận văn sử
dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, phương pháp của kinh tế chính trị nhằm đặt đối tượng nghiên
cứu trong mối liên hệ với nhiều nhân tố khác để tìm ra được bản chất của đối
tượng.
- Phương pháp cụ thể: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, logic - lịch
sử, những phương pháp này được luận văn sử dụng nhằm thấy rõ sự phát
triển về chất lượng, số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực trong lĩnh vực Giáo
dục – Đào tạo.1
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo.
- Đánh giá khách quan thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

9

trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo của tỉnh Ninh Bình từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp phù hợp phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo tỉnh Ninh Bình đến năm 2020 và
những năm tiếp theo.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng
biểu. Nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh
vực Giáo dục - Đào tạo ở Ninh Bình từ năm 2000 đến nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao trong lĩnh vực Giáo dục – Đào tạo ở tỉnh Ninh Bình đến năm 2020


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC – ĐÀO TẠO
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm và phân loại nguồn nhân lực
1.1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Nhân lực:
Theo từ điển Tiếng Việt, nhân lực là sức của con người: bao gồm sức lực
cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình lao động của
mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản thân người lao động
hướng tới một mục đích xác định (tâm lực) [69]. Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ
của nó bao gồm ba yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực; ba yếu tố đó có quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó, trí lực giữ vai trò quyết định, nhưng thể lực và
tâm lực cũng đóng vai trò quan trọng như điều kiện cần thiết không thể thiếu
đối với sự phát triển của nguồn nhân lực.
* Nguồn nhân lực:
Khái niệm nguồn nhân lực (human resources), vốn con người (human
capital) xuất hiện ở Hoa Kỳ vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ XX bởi
nhà kinh tế học người Mỹ - Theodor schoultz và sau đó được thịnh hành trên thế
giới. Khái niệm nguồn nhân lực có mặt trong hầu hết các lý thuyết kinh tế học,
được coi là một thành tố cơ bản của nền sản xuất xã hội. Cùng với sự phát triển
của xã hội, khái niệm nguồn nhân lực cũng dần được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Theo thuật ngữ Pháp (1977-1985, nguồn nhân lực bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có việc làm

(những người có khả năng lao động nhưng không mong muốn có việc làm thì
không được tính vào nguồn nhân lực).

11

Theo Begg, Fischer và Dornbusch - các nhà kinh tế học người Anh, trong
cuốn sách Kinh tế do Begg làm chủ biên, xuất bản năm 2008 có nêu rõ: khác
với nguồn lực vật chất khác, nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ
chuyên môn mà con người tích lũy được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng
đem lại thu nhập trong tương lai [83]. Theo khái niệm này, thì nguồn nhân lực
là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai,
cũng giống như nguồn lực vật chất. Điểm khác với nguồn lực vật chất khác là:
nguồn nhân lực là con người lao động có nhân cách (có tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp, hoạt động xã hội, có các phẩm chất tâm lý như động cơ, thái độ ứng
xử với các tình huống trong cuộc sống) có khả năng tích lũy kinh nghiệm,
nghề nghiệp và vốn sống.
Theo tổ chức lao động quốc tế: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Khái niệm này
dù được bổ sung so với khái niệm của Thuật ngữ Pháp, nhưng chưa chỉ rõ
những yếu tố cấu thành nên nguồn nhân lực.
Liên hợp quốc cho rằng nguồn nhân lực con người là tất cả những kiến
thức, kỹ năng, năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước [50]. Nguồn nhân lực là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ
năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động
xã hội của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến
nguồn lực con người thành nguồn vốn con người. Khái niệm này nhấn mạnh
đến vai trò quyết định của con người đến sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ sau
công cuộc đổi mới đất nước năm 1986. Giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc đưa
khái niệm: nguồn nhân lực được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao

gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất đạo đức

12

của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm
năng, được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một
quốc gia hay của một địa phương nào đó [27], tức là những người lao động có
kỹ năng (hay khả năng nói chung) bằng con đường đáp ứng được yêu cầu
chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Theo Tổng cục Thống kê thì nguồn nhân lực bao gồm những người trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động (có tính thêm cả trẻ em và người lao
động cao tuổi). Cách định nghĩa này giúp cho việc nghiên cứu sự đóng góp và
nhu cầu của các đối tượng xã hội trong phát triển kinh tế - xã hội được dễ
dàng hơn.
Nhìn chung, có rất nhiều cách định nghĩa nguồn nhân lực, tùy thuộc vào cách
tiếp cận nghiên cứu của từng lĩnh vực, của từng nhà kinh tế. Tuy nhiên những
quan niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung
cấp sức lao động cho xã hội. Có thể chia khái niệm nguồn nhân lực theo hai
cách hiểu sau đây:
- Theo nghĩa rộng: nguồn nhân lực là tổng thể tiềm năng lao động của con
người của một quốc gia, hoặc vùng lãnh thổ: bao gồm cả số lượng và chất
lượng.
- Theo nghĩa hẹp: nguồn nhân lực là nguồn lao động, bao gồm tổng số
người đang làm việc, lao động dự phòng; tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm
lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Trong luận văn này, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng theo quan
niệm: “là tổng thể số lượng và chất lượng con người với các tiêu chí về thể
lực, trí lực và tâm lực tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã,

đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến

13

bộ xã hội.”
Theo đó, khi nói đến nguồn nhân lực thì không đơn giản nói đến số lượng
mà còn bao gồm chất lượng và cơ cấu của bộ phận nhân lực ấy.
Số lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua các tiêu chí về quy mô và tốc
độ phát triển của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện bằng
các chỉ tiêu về tình trạng phát triển thể lực, trình độ văn hóa, trình độ chuyên
môn tay nghề, tác phong nghề nghiệp; và cơ cấu nguồn nhân lực được thể
hiện qua các tiêu chí về tuổi tác, giới tính, thiên hướng trong lĩnh vực nghề,
trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật…
Quan tâm đến nguồn nhân lực cả ba mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu
cũng chính là quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực.
* Phát triển nguồn nhân lực:
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm tăng số lượng và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra quy mô và cơ cấu ngày càng phù hợp với
nhu cầu về nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Nhưng hiện
nay, vấn đề nổi cộm giữa của mọi quốc gia là chất lượng dân số. Vì vậy phát
triển nguồn nhân lực những năm gần đây chủ yếu nhằm vào chất lượng nguồn
nhân lực, dẫn tới hướng quan tâm hiện nay là quá trình nâng cao chất lượng
và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực.
Có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển nguồn nhân lực ở cả cấp độ
vĩ mô và vi mô. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp
quốc (UNESCO) và một số nhà kinh tế học sử dụng khái niệm phát triển
nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp: đó là sự phát triển kỹ năng lao động và sự đáp
ứng với yêu cầu của việc làm [61].
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) lại cho rằng: phát triển nguồn nhân lực
không chỉ là sự lành nghề của dân cư hoặc bao gồm cả vấn đề đào tạo nói

chung mà còn là phát triển năng lực đó của con người để tiến tới có được việc
làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân [61].

14

Liên hợp quốc sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng
hơn bao gồm giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và sử dụng tiềm năng con người,
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Quan
niệm này đã nhấn mạnh khía cạnh xã hội của vấn đề: nguồn nhân lực vừa là một
yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế và là mục tiêu của sự phát triển.
Một số nhà kinh tế học khác lại cho rằng: phát triển nguồn nhân lực là
quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực;
đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nguồn nhân lực
thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển
kinh tế xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực của một đất nước là quá trình tạo dựng lực
lượng lao động năng động, có kỹ năng và sử dụng chúng có hiệu quả. Nói
một cách cụ thể hơn, phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm nâng
cao và khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến thức và thể lực của người lao
động, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất; kiến thức được nâng lên nhờ quá
trình đào tạo, tiếp thu và tích lũy kinh nghiệm, còn thể lực có được nhờ chế độ
dinh dưỡng, rèn luyện thân thể và chăm sóc y tế.
Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực là tạo ra tiềm năng của con người
thông qua đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng, đào tạo lại, chăm sóc sức khỏe về
thể lực và tinh thần, khai thác tối đa tiềm năng đó trong các hoạt động lao
động, thông qua việc tuyển, sử dụng, tạo điều kiện về môi trường làm
việc(phương tiện lao động có hiệu quả và các chính sách hợp lý) môi trường
văn hóa – xã hội kích thích động cơ, thái độ làm việc của con người để họ
mang hết sức mình hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
1.1.1.2. Phân loại nguồn nhân lực

Tùy theo cách tiếp cận, người ta phân loại nguồn nhân lực theo những
cách khác nhau. Dưới đây là những cách phân loại phổ biến:
* Phân loại theo trình độ

15

Căn cứ theo trình độ nghề nghiệp, nguồn nhân lực được phân thành nhân
lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật và nhân lực không có trình độ chuyên
môn kỹ thuật.
- Nhân lực không có chuyên môn kỹ thuật: đây là bộ phận người lao động
không có chứng chỉ hay bằng cấp dạy nghề nào do các cơ quan có thẩm
quyền cấp, chưa được tham gia vào các khóa học dạy nghề hoặc các cơ sở đào
tạo nghề. Những người này chiếm đại bộ phận nguồn lao động ở Việt Nam.
Tính đến 01/7 năm 2011, nước ta có tới 84,7% lao động chưa qua đào tạo
nghề, tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 68,8% và ở nông thôn là 90,9% [84].
- Nhân lực có chuyên môn kỹ thuật: là bộ phận nhân lực đã qua các cơ sở
đào tạo: bao gồm các cơ sở dạy nghề (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng
nghề), các trường THCN, cao đẳng, đại học và sau đại học. Bộ phận nguồn
nhân lực này đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây do tác
động của chính sách xã hội hóa giáo dục.
Căn cứ theo trình độ học vấn, bộ phận này lại được chia nhỏ thành:
Nhân lực có trình độ sơ cấp: là bộ phận lao động đã được học tại các cơ sở
đào tạo nghề và được cấp chứng chỉ sơ cấp. Bộ phận này chỉ yếu tập trung ở
các lĩnh vực: y tế, nấu ăn, hàn, lắp máy, sửa chữa ô tô, điện tử,
 Nhân lực có trình độ trung cấp: là bộ phận lao động đã qua đào tạo tại
các trường THCN hoặc các trường cao đẳng, đại học có đào tạo trình độ
Trung cấp và đã được cấp bằng trung cấp.
 Nhân lực có trình độ cao đẳng: là bộ phận lao động đã qua đào tạo tại
các trường cao đẳng hoặc các trường đại học có đào tạo trình độ cao đẳng và
đã được cấp bằng cao đẳng. Bộ phận này chiếm tỷ lệ ít hơn so với hai bộ phận

nhân lực trên.
 Nhân lực có trình độ đại học trở lên: là bộ phận lao động đã qua đào tạo
tại các trường đại học và được cấp bằng đại học, thạc sỹ, tiến sỹ. Bộ phận này
chiếm tỷ lên tương đối cao, gần 2/3 trong bộ phận nhân lực đã qua đào tạo.
* Phân loại theo trong lĩnh vực nghề

16

Dựa vào hoạt động kinh tế, người ta chia nguồn nhân lực thành 5 loại.
Bao gồm:
- Nguồn nhân lực khoa học – công nghệ: đó la
̀
b ộ phận như
̃
ng nho
́
m
ngươ
̀
i làm việc có liên quan đến hoa
̣
t đô
̣
ng Khoa học công nghệ như tham gia
nghiên cư
́
u, sáng tạo, quản lý, khai tha
́
c sư
̉

du
̣
ng
- Nguồn nhân lực kinh tế: là bộ phận lao động tham gia vào các trong lĩnh
vực nghề, hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế, ví dụ như tài chính, xây dựng,
công nghiệp, bao gồm cả nghiên cứu, tham gia lao động trực tiếp, quản lý,
- Nguồn nhân lực văn hóa: là bộ phận lao động tham gia vào các hoạt
động văn hóa: giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của cha ông, tiếp thu
những tiến bộ của văn hóa nhân loại
- Nguồn nhân lực quốc phòng – an ninh: là bộ phận những người tham
gia vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Ví dụ như
công nhân quốc phòng, bộ đội, công an,
- Nguồn nhân lực giáo dục - y tế: là bộ phận những người tham gia vào
các hoạt động giáo dục, hoạt động y tế; bao gồm nghiên cứu, giảng dạy, sáng
tạo, hỗ trợ, quản lý, khám chữa bệnh,
+ Phân loại theo chức năng
- Nguồn nhân lực quản lý: là bộ phận nhân lực đứng đầu một tổ chức,
đơn vị, cơ sở, có chức năng hoạch định, lãnh đạo, tổ chức, kiểm tra các hoạt
động, cá nhân của đơn vị, cơ sở đó nhằm duy trì và phát triển cơ sở, đơn vị
mình. Ví dụ như giám đốc, phó giám đốc, hiệu trưởng, trưởng phòng,
- Nguồn nhân lực lao động: là bộ phận nhân lực tham gia vào các hoạt
động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; không tham gia vào bộ máy lãnh
đạo.

17

1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực
1.1.2.1. Nguồn nhân lực là khởi nguồn của sáng tạo công nghệ và nâng cao
hiệu quả sử dụng công nghệ
Thế giới bước vào thế kỷ XXI bằng cuộc đua tranh kinh tế ráo riết với

tốc độ chưa từng có trong lịch sử phát triển nhân loại. Nếu như ở thế kỷ
XVIII, một nước cần 100 năm để công nghiệp hóa, đầu thế kỷ XX là khoảng
30 năm thì hiện nay, thời gian rút ngắn chỉ còn 10 – 20 năm. Phần thắng trong
cuộc ganh đua lịch sử này sẽ thuộc về quốc gia có một nền kinh tế hùng
mạnh, dựa trên kỹ thuật – công nghệ cao với đội ngũ nhân lực năng động,
sáng tạo và có trình độ cao. Cách mạng Khoa học - Công nghệ đã đem lại bộ
mặt mới cho xã hội, một diện mạo hiện đại. Công nghệ hiện nay thay đổi từng
ngày, từng giờ: nếu trước đây, cần hàng chục năm để một thế hệ mới của máy
móc ra đời, thì ngày nay, thời gian đó chỉ tính bằng ngày, tháng. Sự phát triển
của Khoa học - Công nghệ không phải là tự nhiên mà là kết quả của trí tuệ
con người. Các tập đoàn, công ty lớn trên thế giới đều dành khoản đầu tư rất
lớn cho các nhà khoa học nhằm khai thác tối đa trí tuệ của họ. Trải qua nhiều
thời kỳ phát triển của lịch sử xã hội, vai trò của nguồn nhân lực – nguồn vốn
con người ngày một quan trọng, có vai trò quyết định đến các nguồn lực phát
triển kinh tế khác. Nguồn nhân lực là yếu tố chủ động của quá trình sản xuất,
là bộ phận sáng tạo ra công nghệ và sử dụng nó có hiệu quả.
Hiện nay, vai trò công nghệ tiên tiến đối với những nước công nghiệp
hóa đi sau là vô cùng quan trọng. Vì tiến hành công nghiệp hóa chậm hơn,
nên các nước này phải tranh thủ đi tắt, tiến hành nhảy vọt ở những khâu cần
thiết. Rất nhiều máy móc công nghệ hiện đại của những nước công nghiệp
hóa đi trước đã được chuyển giao, mua bán lại cho các nước công nghiệp hóa
chậm hơn. Các nước đi sau có lợi thế về công nghệ, nhưng đó không phải là
nhân tố quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa. Nhân tố
quyết định ở đây vẫn là nguồn nhân lực. Bộ phận sử dụng công nghệ là con
người, chính vì vậy, việc sử dụng công nghệ tiên tiến có hiệu quả hay lãng

18

phí còn phụ thuộc vào đội ngũ nhân lực sử dụng nó. Nhiều công ty hiện nay
đang gặp khó khăn với những công nghệ mà họ mua về. Trình độ của công

nhân không đáp ứng được yêu cầu cơ bản trong việc sử dụng công nghệ, dẫn
đến tình trạng lãng phí tiền của công ty. Bởi vậy, vai trò của nguồn nhân lực
không chỉ là tạo ra máy móc, công nghệ mà còn là sử dụng hiệu quả những
máy móc và công nghệ đó. Người lao động là người kết nối những công
nghệ hiện đại nhưng vô tri thành một cỗ máy hoạt động hoàn chỉnh. Bộ phận
người quản lý có vai trò bố trí, tổ chức hoạt động của công nghệ và người
lao động có hiệu quả nhất.
1.1.2.2. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định để tiếp cận nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới Yếu tố cốt lo
̃
i cu
̉
a
kinh tế tri thư
́
c la
̀
tri thư
́
c , vâ
̣
t mang chơ
̉
tri thư
́
c la
̀
con ngươ
̀

i ma
̀
tố chất cu
̉
a
con ngươ
̀
i la
̣
i gắn liền vơ
́
i chất lươ
̣
ng gia
́
o du
̣
c.
Ở các quốc gia phát triển đa
̃
bắt đầu lô
̣
ro
̃
nhiều đă
̣
c trưng cu
̉
a nền kinh
tế tri thư

́
c , trong đo
́
gia
́
o du
̣
c đươ
̣
c nhấn ma
̣
nh trươ
́
c hết vơ
́
i ca
́
c ne
́
t tiêu
biê
̉
u như : chi tiêu cho gia
́
o du
̣
c đa
̃
chiếm 6-7% GDP, như
̃

ng nhân ta
̀
i tri
thư
́
c đươ
̣
c tr ọng dụng với chế độ đãi ngộ cao. Nguồn nhân lực chất lượng
cao đang có xu hướng tăng nhanh ở các nước này. Bộ phận nhân lực chất
lượng cao này có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế tri
thức. Nhân lực chất lượng cao là những đối tượng tiên phong trong việc
ứng dụng và triển khai những tri thức hiện đại trong sản xuất và kinh
doanh. Họ còn là những người đi đầu trong việc sáng tạo ra tri thức hiện
đại. Bởi vậy, hiện nay ở các quốc gia đang phát triển cũng đang đầu tư
mạnh mẽ cho nguồn nhân lực nhằm nhanh chóng tạo ra bộ phận nguồn
nhân lực chất lượng cao hùng hậu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Trong nền kinh tế hiê
̣
n đa
̣
i , lươ
̣
ng thông tin tăng lên rất
nhanh, đồng thơ
̀
i sư
̣
la
̃
o hoa

́
cu
̉
a tri thư
́
c cu
̃
ng tăng nhanh tương ư
́
ng , chu ky
̀


19

đô
̉
i mơ
́
i tri thư
́
c ru
́
t ngắn , sư
̣
gia
́
o du
̣
c mô

̣
t lần đang dần dần không còn đáp
ứng được sự thay đổi của xã hội, chính bởi vậy, sự giáo dục cũ đang đươ
̣
c
thay thế bằng gia
́
o du
̣
c suố t đơ
̀
i; giáo dục – đào tạo ngày càng có vai tro
̀
quan
trọng trong n ền kinh tế, nên không co
́
ca
́
ch na
̀
o kha
́
c la
̀
pha
̉
i đa da
̣
ng hoa
́


nguồn lư
̣
c cho gia
́
o du
̣
c.
Việt Nam là quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ; tuy nhiên, bộ
phận nguồn nhân lực này lại có chất lượng không cao. Tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo còn ở mức thấp so với tiêu chuẩn quốc tế, một số bộ phận không nhỏ
người lao động qua đào tạo lại không đáp ứng đúng tiêu chuẩn yêu cầu của
công việc. Nguyên nhân này dẫn đến sự phát triển chậm của nền kinh tế, gây
cản trở quá trình hình thành kinh tế tri thức ở Việt Nam. Để có thể nhanh
chóng xây dựng được nền kinh tế tri thức, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội thì đòi hỏi cần phải đầu tư hơn nữa cho giáo dục – đào tạo, đảm bảo giáo
dục – đào tạo phát huy được sức mạnh vốn có, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
1.1.2.3. Nguồn nhân lực làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác
Đặc điểm của nguồn nhân lực là hàm chứa tiềm năng chất xám có thể tái
sinh. Nguồn lực con người xét trên bình diện xã hội là vô tận, và do vậy, đó là
nguồn lực cơ bản của sự phát triển bền vững. A. Toffer – giáo sư đại học
Havard đã nhấn mạnh: “tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi cũng sẽ mất,
chỉ có trí tuệ con người khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn
lên” [63].
Trong thực tế, nguồn nhân lực và trí tuệ là nhân tố không thể thiếu cho
sự vận hành mọi hoạt động trong đời sống xã hội, từ hoạt động lao động sản
xuất tới lĩnh vực quản lý. Sự thiếu vắng những nhân tố này sẽ làm cho các
nguồn lực khác trở nên vô nghĩa. Các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên
nhiên không có sức mạnh tự thân, mà chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý


20

nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua
hoạt động của con người. Lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã
hội. Công cụ sản xuất ngày càng hoàn thiện hơn, giúp cho con người khai
thác tự nhiên một cách dễ dàng.
Các nguồn lực khác trong phát triển xã hội bao gồm nguồn tài nguyên,
vốn, máy móc, trang thiết bị cũng rất cơ bản. Song chỉ khi có nguồn nhân
lực là chất xúc tác quyết định thì các nguồn lực đó ới phát huy tác dụng của
nó vào tăng trưởng kinh tế. Vốn là một trong những nguồn lực cơ bản cho sự
phát triển kinh tế đất nước. Trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa, thiếu
vốn luôn là bài toán nan giải đối với các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên,
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lại phải nói đến đội ngũ nhân lực. Việt
Nam là một trong những quốc gia được đầu tư vốn ODA và FDI tương đối
cao nhưng hiệu quả sử dụng vốn lại rất thấp. Việc sử dụng nguồn vốn được
cấp rất lãng phí, không hiệu quả, là có nguyên nhân từ bộ phận nguồn nhân
lực quản lý và sử dụng nguồn vốn này.
Tương tự như vậy, với tài nguyên thiên nhiên giàu có, vị trí địa lý ưu thế
cũng sẽ trở nên vô nghĩa nếu như bản thân đội ngũ nhân lực không có khả
năng khai thác. Ngày nay, trước xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự
hợp tác đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra “cái hích”
kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát thấp, nhưng sức mạnh của “cái
hích” này đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào
yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó. Xét đến cùng nếu thiếu trí tuệ và
lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa.
1.1.2.4. Nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững
Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại chỉ ra rằng, để có thể tăng
trưởng nhanh và ở mức cao, mọi nền kinh tế phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ
bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao


21

chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất cho sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng,
kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để trở thành nguồn vốn –
vốn con người, vốn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được xem như là
yếu tố quyết định hiệu quả của nền kinh tế.
Thực tiễn lịch sử xã hội đã chứng minh, sự phát triển mạnh mẽ của các nền
kinh tế đều dựa vào thành tựu của trí tuệ con người, dựa vào bộ phận nguồn
nhân lực có chất lượng cao. Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan,… là minh chứng rõ nhất cho vai trò của nguồn nhân lực. Từ một
nước có rất ít tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản đã vươn lên trở thành cường
quốc trên thế giới về kinh tế là do đã sở hữu được một nguồn nhân lực với các
kỹ năng và tinh thần làm việc mà khó có thể bắt chước ở một quốc gia khác.
Không có một đầu tư nào có lợi bằng việc đầu tư vào nguồn lực con người.
Lịch sử loài người đã chuyển bước sang kỷ nguyên kinh tế tri thức, nơi mà
con người vừa là mục tiêu và động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Con người là một kho báu vô tận, có thể sáng tạo không ngừng. Các yếu
tố vật chất trong quá trình sử dụng sẽ bị hao mòn, hư hỏng, theo đó giá trị của
chúng cũng bị mất dần đi. Nhưng nguồn lực con người càng sử dụng, càng
sáng tạo, càng tạo ra giá trị lớn hơn. Vì vậy, phát triển kinh tế muốn nhanh và
bền vững phải dựa vào nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ
đem lại sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, chuyển dần việc sản xuất dựa vào
tài nguyên thiên nhiên sang sản xuất sản phẩm có hàm lượng chất xám cao
hơn, thân thiện với môi trường hơn.



×