Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và thử nghiệm điều trị bệnh cầu trùng trên gà thịt do eimeria gây ra tại yên khánh, ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.84 MB, 84 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



MAI THU HOÀI



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ THỬ
NGHIỆM ĐIỀU TRỊ BỆNH CẦU TRÙNG TRÊN GÀ THỊT
DO EIMERIA GÂY RA TẠI YÊN KHÁNH, NINH BÌNH.



CHUYÊN NGÀNH : THÚ Y
MÃ SỐ : 60.64.01.01


NGUỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ NHƯ QUÁN
TS. NGUYỄN QUỐC DOANH


HÀ NỘI - 2014

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và số liệu này chưa hề được sử dụng cho bất kỳ một luận
văn nào.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Mai Thu Hoài

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi vô cùng biết ơn và bày tỏ lòng kính
trọng sâu sắc đối với sự giúp đỡ tận tình của Thầy hướng dẫn khoa học:TS.
Vũ Như Quán, TS. Nguyễn Quốc Doanh những người Thầy luôn quan tâm,
động viên và chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành tốt công trình nghiên cứu khoa
học của mình.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới sự giúp đỡ quý báu của các Thầy
Cô Bộ môn Ngoại - Sản, Khoa Thú y, Học Viện Nông nghiệp Việt Nam; lãnh
đạo và các anh chị CBCNV phòng ký sinh trùng, Viện Thú y Quốc gia, Hà
Nội; các chủ hộ chăn nuôi gà tại huyện Yên Khánh.
Tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới ban đào tạo, Khoa Thú Y, Học Viện
Nông nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi có một môi trường học tập và
nghiên cứu.
Sau cùng, tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả bạn bè, nhất là những
người thân trong gia đình đã luôn quan tâm, chia sẻ và động viên tôi trong quá
trình học tập cũng như hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 8 năm 2014




Mai Thu Hoài



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT viii
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu đề tài 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Lịch sử nghiên cứu về bệnh Cầu trùng 3
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thế giới 3
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 6
1.2. Một số đặc điểm của Cầu trùng 8
1.2.1. Cấu trúc của oocyst Cầu trùng 8
1.2.2. Chu kỳ phát triển của Cầu trùng 9
1.3. Những hiểu biết về bệnh Cầu trùng gà 12
1.3.1. Các loài Cầu trùng gây bệnh trên gà đã được nghiên cứu 12
1.3.2. Đặc điểm dịch tễ học 15
1.3.3. Sinh bệnh học 18
1.3.4. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích của gà mắc bệnh Cầu trùng 19
1.3.5. Các phương pháp chẩn đoán bệnh Cầu trùng gà 20

1.4. Miễn dịch trong bệnh Cầu trùng 21
1.5. Phòng bệnh Cầu trùng bằng vaccine 23
1.6. Phòng và trị bệnh Cầu trùng bằng thuốc 24
1.7 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Yên Khánh, tỉnh
Ninh Bình 26

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iv

CHƯƠNG II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
2.1. Địa điểm nghiên cứu 27
2.2. Đối tượng nghiên cứu 27
2.3. Vật liệu nghiên cứu 27
2.4. Nội dung nghiên cứu 27
2.4.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh Cầu trùng ở gà nuôi thịt 27
2.4.2 Nghiên cứu triệu chứng lâm sàng và bệnh tích đại thể gà bị
bệnh Cầu trùng 28
2.4.3 Thử nghiệm hiệu lực của một số thuốc điều trị bệnh Cầu trùng 28
2.5. Phương pháp nghiên cứu 28
2.5.1. Phương pháp lấy mẫu 28
2.5.2. Phương pháp xác định dung lượng mẫu 28
2.5.3. Phương pháp xác định loài Cầu trùng 29
2.5.4 Phương pháp xét nghiệm mẫu phân 29
2.5.5. Phương pháp kiểm tra noãn nang ở ruột 30
2.5.6 Phương pháp tính tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm cầu trùng 30
2.5.7. Phương pháp theo dõi biểu hiện triệu chứng lâm sàng 31
2.5.8. Phương pháp mổ khám 31
2.5.9. Bố trí thí nghiệm thuốc tẩy trừ Cầu trùng 31
2.5.10. Phương pháp sử lý số liệu 33
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Một số đặc điểm dịch tễ của Cầu trùng nhiễm trên gà thịt 34

3.1.1. Tình hình nhiễm Cầu trùng ở gà thịt nuôi tại một số cơ sở chăn
nuôi. 34
3.1.2. Tỷ lệ nhiễm Cầu trùng ở gà theo lứa tuổi 37
3.1.3. Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm Cầu trùng gà theo phương thức
chăn nuôi 43
3.1.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng ở gà theo qui mô đàn 45

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page v

3.1.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng ở gà theo mùa vụ. 48
3.1.6. Thành phần các loài Cầu trùng Cầu trùng kí sinh ở gà nuôi
trên địa bàn huyện Yên Khánh 50
3.1.7. Số lượng loài Cầu trùng kí sinh ở các cá thể gà 54
3.1.8. Tỷ lệ nhiễm Cầu trùng theo từng trạng thái phân 56
3.2. Triệu trứng lâm sàng và bệnh đại thể của gà mắc bệnh Cầu trùng 58
3.2.1. Triệu chứng ở gà bị nhiễm Cầu trùng 58
3.2.2. Bệnh tích ở gà bị nhiễm Cầu trùng 60
3.3. Hiệu lực điều trị của thuốc thuốc toltrazuril baycox 2,5%( Bayer),
bạc Nano 63
3.4. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh Cầu trùng gà 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 68
1. Kết luận 68
2. Kiến nghị 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1 Phác đồ điều trị bệnh Cầu trùng của 2 loại thuốc 32

Bảng 3.1 Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng gà trên địa bàn 3 xã 34
Bảng 3.2 Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng gà theo lứa tuổi 38
Bảng 3.3 Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng gà theo hình thức nuôi 43
Bảng 3.4 Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng ở gà theo qui mô đàn. 46
Bảng 3.5 Tỷ lệ và cường độ nhiễm Cầu trùng ở gà theo mùa vụ 49
Bảng 3.6 Thành phần và tỷ lệ nhiễm các loài Cầu trùng ở đàn gà thịt
nuôi tại huyện Yên Khánh 51
Bảng 3.7 Tỷ lệ nhiễm ghép các loài Cầu trùng trên gà 55
Bảng 3.8 Tình trạng nhiễm Cầu trùng qua trạng thái phân 57
Bảng 3.9 Triệu trứng lâm sàng của gà mắc bệnh Cầu trùng 58
Bảng 3.10 Bệnh tích đại thể của gà mác bệnh Cầu trùng 61
Bảng 3.11. Hiệu lực điều trị của thuốc Baycox 2,5%. 64
Bảng 3.12 Hiệu lực điều trị của bạc Nano 1000 66







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vii

DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1 Cấu trúc của oocyst Cầu trùng 8
Hình 1.2. Chu kỳ phát triển của Cầu Trùng 10
Hình 3.1 Biểu đồ cường độ nhiễm Cầu trùng gà trên địa bàn 3 xã 35
Hình 3.2 Biểu đồ cường độ nhiễm Cầu trùng gà theo lứa tuổi 39
Hình 3.3 Một số đàn gà nuôi tại huyện Yên Khánh 40
Hình 3.4 Biểu đồ tỷ lệ nhiễm Cầu trùng theo tuần tuổi 42

Hình 3.5 Biểu đồ cường độ nhiễm Cầu trùng theo hình thức nuôi 44
Hình 3.6 Biểu đồ cường độ nhiễm Cầu trùng trên gà theo quy mô đàn 48
Hình 3.7 Biểu đồ cường độ nhiễm Cầu trùng ở gà theo mùa vụ. 49
Hình 3.8 Các loài Cầu trùng gây bệnh trên gà ở vật kính 40 × 10 52
Hình 3.9 Biểu đồ tỷ lệ nhiễm các loài Cầu trùng ở gà thịt trên địa
bàn huyện Yên Khánh 53
Hình 3.10 Oocyst Cầu trùng trên vi trường kính hiển vi 10 × 10 55
Hình 3.11 Biểu đồ triệu chứng của gà bị bệnh Cầu trùng 60
Hình 3.12 Biểu đồ bệnh tích đại thể của gà bị bệnh Cầu trùng 62
Hình 3.13 Bệnh tích ruột non và manh tràng của gà bị bệnh Cầu trùng 63




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page viii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Tên viết tắt Tên đầy đủ.
Cs Cộng sự.
D Khối lượng riêng.
E. coli Escherichia coli.
E. tenella Eimeria tenella.
E. brunetti Eimeria brunetti.
E. acervulina. Eimeria acervulina.
E. maxima. Eimeria maxima.
E. mitis. Eimeria mitis.
G gam.
µm micrometer.

PABA Para amino benzoic acid.
TS Tiến sĩ
TT. Thị trấn.

TT Thể trọng.
WTO World Trade Organization.
USD United States dollar.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 1

ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi được coi là ngành sản xuất mang lại nguồn thu chính cho nông
dân giúp họ nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu. Đặc biệt
là chăn nuôi gà, chiếm vị trí quan trọng thứ hai (sau chăn nuôi lợn) trong toàn ngành
chăn nuôi của Việt Nam. Trong xu thế hội nhập đầy khó khăn như hiện nay, vấn đề
làm sao để chăn nuôi đem lại hiệu quả cao với người nông dân là rất cần thiết.
Chăn nuôi theo phương thức công nghiệp ở nước ta ngày càng phát triển, nó
không chỉ cung cấp về thực phẩm cho bữa ăn hằng ngày của mỗi gia đình mà còn
mang tính chất hàng hóa phục vụ kinh doanh đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho
người chăn nuôi. Tuy nhiên, chăn nuôi gà của nước ta vẫn trong tình trạng sản xuất
nhỏ, phân tán, lạc hậu, năng suất thấp, dịch bệnh nhiều, sản phẩm hàng hoá còn nhỏ
bé. Sản xuất chưa tương ứng với tiềm năng, sản phẩm chưa đáp ứng đủ nhu cầu xã
hội. Một lượng sản phẩm chăn nuôi gà nhập khẩu từ nước ngoài về rất lớn dù thuế
suất cao nhưng các sản phẩm nhập khẩu vẫn từng bước chiếm lĩnh một phần thị
trường Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy, chăn nuôi gà còn thị trường rộng lớn ở
trong nước trong nhiều năm tới mà chúng ta cần chủ động chiếm lĩnh, nhất là hiện
nay Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO.

Trong chăn nuôi, dịch bệnh luôn là vấn đề quan trọng và được quan tâm
hàng đầu. Trong các bệnh thường xuyên xảy ra trên đàn gà thì bệnh Cầu trùng gà
(Coccidiosis avium), là bệnh ký sinh trùng nhưng lại lây lan rất nhanh và gây thiệt
hại lớn cho đàn gà về mặt kinh tế trong thời gian dài. Nguyên nhân là do ký sinh
trùng giống Eimeria ký sinh trong đường ruột huỷ hoại niêm mạc đường ruột, ảnh
hưởng đến việc tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng, gây mất nước, mất máu, giảm sức
đề kháng, gây lãng phí thức ăn, chi phí chăn nuôi tăng cao. Trong những trường hợp
nhiễm Cầu trùng nặng sẽ gây chết rất cao và những gà mang mầm bệnh sẽ trở nên
còi cọc. Bệnh Cầu trùng gà là yếu tố mở đường cho mầm bệnh truyền nhiễm khác
xâm nhập như: Gumborro, Newcastle,…

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 2

Bệnh Cầu Trùng gà được đánh giá là gây thiệt hại lớn cho gà nuôi theo
hướng tập trung, công nghiệp; Tuy nhiên, trên những đàn gà nuôi quy mô nhỏ lẻ tại
các nông hộ nó cũng gây ra thiệt hại không nhỏ do bệnh không gây chết gà nên
thường có tâm lý chủ quan. Hậu quả gây thiệt hại kinh tế rất lớn do làm tăng tiêu
tốn thức ăn. Vậy, việc nghiên cứu về bệnh cầu trùng gà trên đàn gà nuôi tại nông hộ
và hiệu quả phòng trị của thuốc, để hạn chế tác hại do bệnh gây ra, giúp cho ngành
chăn nuôi gà đạt năng suất cao đang là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Huyện Yên Khánh là huyện có đồng bằng tương đối bằng phẳng, không có
núi non, mạng lưới sông ngòi phân bố tương đối đều; chính vì thế nông nghiệp
chiếm giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế của huyện. Yên Khánh còn là huyện có
ngành nông nghiệp phát triển mạnh của tỉnh Ninh Bình, đặc biệt là chăn nuôi, trong
đó chăn nuôi gà đang ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa. Mặc dù có
nhiều thuận lợi song dịch bệnh liên tiếp xảy ra triên đàn gà gây tổn thất lớn đặc biệt
là bệnh Cầu trùng.
Trước yêu cầu thực tế đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài "Nghiên cứu
một số đặc điểm dịch tễ và thử nghiệm điều trị bệnh cầu trùng trên gà thịt do
Eimeria gây ra tại Yên Khánh, Ninh Bình”.

2. Mục tiêu đề tài
Đánh giá được tình hình nhiễm Cầu trùng của đàn gà thịt tại các nông hộ trên
địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Mô tả triệu chứng lâm sàng và bệnh tích đại thể của gà mắc bệnh Cầu trùng.
Xác định hiệu lực điều trị Cầu trùng của một số thuốc đang lưu hành phổ
biến trên thị trường và thuốc mới sản xuất. Trên cơ sơ đó xây dựng quy trình phòng,
trị bệnh có hiệu quả cao để ứng dụng trong thực tế sản xuất.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử nghiên cứu về bệnh Cầu trùng
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thế giới
Cầu trùng và bệnh Cầu trùng gà (Coccidiosis avium) được phát hiện từ năm
1863 - Rivolta là người phát hiện ra một loại ký sinh trùng có trong phân gà. Năm
1864 Eimeria đã xác định là nguyên sinh động vật sinh sản theo hình thức bào tử.
Năm 1875 người ta xác nhận kết quả nghiên cứu của Eimeria và đề nghị đặt tên cho
loài ký sinh trùng này là Eimeria, thuộc lớp Sporozoa, bộ Cocoidie, họ Eimeriaidae,
giống Eimeria và Isospora, có hình thái đa dạng phụ thuộc vào từng loài Cầu trùng
như hình hơi tròn, hình trứng, hình bầu dục,… Chúng ký sinh chủ yếu ở tế bào biểu
bì ruột và gây tiêu chảy cho nhiều loài gia súc, gia cầm và cả con người.
Bệnh Cầu trùng gây tác hại rất lớn về mặt kinh tế trong thời gian dài bởi sự
huỷ hoại niêm mạc đường ruột, làm cho hoạt động tiêu hóa và hấp thu của đường
ruột giảm gây lãng phí thức ăn làm chi phí chăn nuôi tăng cao. Trong những trường
hợp nhiễm Cầu trùng nặng sẽ gây chết rất cao và những gà mang mầm bệnh sẽ trở
nên còi cọc.
Theo nghiên cứu và thống kê trên thế giới thì bệnh Cầu trùng rất phổ biến và
được xem là một trong những bệnh gây tác hại cho chăn nuôi, bệnh làm cho gà tăng

trưởng kém, còi cọc, chậm lớn, suy yếu và tiêu tốn thức ăn cao. Hằng năm phí tổn
cho thuốc phòng ngừa bệnh lên đến 300 triệu USD, riêng tại Mỹ năm 1989 là 90
triệu USD, 20 triệu Lia ở Ý và 15 triệu Folin ở Hungari vào năm 1972. Ở các nước
kinh tế phát triển, ngành chăn nuôi gà xuất hiện nhiều trang trại lớn, tập trung cao
hơn, việc này càng có điều kiện để Cầu trùng và bệnh Cầu trùng xuất hiện dễ dàng
hơn và gây thiệt hại rõ rệt.
Các nhà nghiên cứu không ngừng tìm kiếm loài mới, đi sâu nghiên cứu vấn
đề sinh học phân tử, miễn dịch Cầu trùng, tìm các hóa dược, chế tạo vaccine để đạt
mục đích khống chế bệnh có hiệu quả.
Jordan F.T.W. (1990) đã ghi nhận có 7 loài gây bệnh cho gà là: Eimeria
brunetti, Eimeria tenella, Eimeria acervulina, Eimeria maxima, Eimeria mitis,

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 4

Eimeria praecox và Eimeria hagani. Loài Eimeria hagani được mô tả đầu tiên vào
năm 1938, bảy loài Cầu trùng kể trên phân bố ở nhiều nơi trên thế giới, loài Eimeria
acervulina và loài Eimeria maxima thường thấy ở gà, đặc biệt là loài Eimeria
tenella tác nhân gây bệnh cao và phổ biến.
Sau này, một số tác giả khác ở Trung Âu và Liên Xô cũ như Yakimoff,
Kotlan đã đưa ra một số công bố về 3 loài Cầu trùng: Eimeria beachi, Eimeria
tyzzeri, Eimeria johnsoni.
Theo Levine D.L. (1925) đã phân loại Cầu trùng như sau:
Ngành nguyên sinh động vật Protozoa.
Phân ngành Apicomplexa.
Lớp Sporozoasida.
Phân lớp Coccidiasima.
Bộ Eucoccidiorida.
Phân bộ Eimeriorina.
Họ Eimeriidae.
Giống Eimeria Schneider, 1875.

Hiện nay, người ta đã xác định được 12 loài Eimeria, mỗi loại kí sinh ở một
khu vực nhất định của ruột, trong đó có 9 loài đã được xác định rõ tên, kích thước,
màu sắc đó là:
Loài Eimeria tenella (Railliet and Lucei, 1891),
Fantham,1909.
Loài Eimeria maxima (Tyzzer,1929).
Loài Eimeria acervulina (Tyzzer, 1929).
Loài Eimeria mivati (Edger and Seibold, 1964).
Loài Eimeria brunetti (Levine, 1942).
Loài Eimeria mitis (Tyzzer, 1929).
Loài Eimeria hagani (Levine, 1938).
Loài Eimeria necatrix (Jonson, 1930).
Loài Eimeria pracecox (Jonson, 1930).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 5

Cả 9 loại Cầu trùng này đều có khả năng ký sinh ở những vị trí khác nhau
trong tế bào biểu bì ruột gà. Một noãn nang Cầu trùng chỉ trong một thời gian ngắn
sẽ sinh ra triệu triệu Cầu trùng mới, chúng lớn lên nhanh chóng và phá vỡ tế bào nơi
chúng ký sinh rồi xâm nhập vào các tế bào biểu mô khác, cứ như thế chúng phá vỡ
niêm mạc ruột gây chảy máu, làm cho gà suy kiệt, tỷ lệ chết cao, là mối đe dọa lớn
cho các cơ sở chăn nuôi gia cầm tập trung.
Các nhà khoa học đã chứng minh oocyst Cầu trùng gà có sức đề kháng với
một số hoá chất khử trùng, tẩy uế chuồng trại.
Pernard (1926) đã chứng minh, noãn nang tiếp tục sinh bào tử sau nhiều
ngày tiếp xúc với hóa chất, chất sát trùng nhưng lại không có khả năng phát triển
trong điều kiện khô và nhiệt độ cao.
Long P.L và Reid W.M. (1982) cho biết, oocyst loài E. tenella có sức đề
kháng khá tốt với dung dịch muối, axit, bazơ ở nồng độ tương đối cao, còn dung
dịch formol, H

2
SO
4
, NH
4
OH, crezol gây ảnh hưởng đến sự hình thành bào tử. Tuy
nhiên, một số hoá chất có tác dụng diệt oocyst nên đã được sử dụng tiêu độc chuồng
trại, ví dụ như dung dịch amoniac (NH
3
) 10%.
Williams (1997) nghiên cứu tác dụng của dung dịch amoniac (NH
3
) 10% tới
oocyst và cho biết, sau 12 giờ, 100% oocyst không sinh bào tử, nên có thể dùng để
tiêu độc chuồng nuôi gà.
Oocyst Cầu trùng có thể tồn tại trong điều kiện môi trường khắc nghiệt.
Nghiên cứu về sự tồn tại của oocyst Cầu trùng với điều kiện khác nghiệt của
môi trường, Long P.L. và J.K. Jonhson (1988) cho biết, oocyst có thể tồn tại qua mùa
đông giá lạnh nhưng không chịu nhiệt độ cao và ánh nắng chiếu trực tiếp.
Horton Smith và Britvet J. (1963), Cầu trùng sống được ở sân chơi ngoài trời
14 tuần và lâu hơn trong đất ở độ sâu 5 - 7 cm. Ở trong đất, oocyst duy trì sức sống
tử 4 - 9 tháng, ở sân chơi râm mát từ 15 - 18 tháng.
Warnar (1933), cho biết oocyst bám trên mặt vỏ trứng thì không sống được
trong điều kiện ấp 38
o
C - 40
o
C và độ ẩm 40 -70%.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 6


Ellis C.C. (1986) cho biết, oocyst của Eimeria tenella bị tiêu diệt khi độ ẩm
tương đối giảm và nhiệt độ tương đối tăng. Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển oocyst
của Eimeria tenella là 26,6
o
C - 32,2
o
C.
Goocbrick (1944) kết luận, lớp vỏ ngoài giữ cho oocyst không bị thấm chất
lỏng nhưng lại dễ bị nứt khi khô.
Khi oocyst theo phân ra ngoài môi trường, ẩm độ có vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến thời gian hình thành bào tử và khả năng tồn tại của oocyts Cầu trùng.
Nhiệt độ, độ ẩm và môi trường nói chung đều tác động vào oocyst, điều này có ý
nghĩa trong nghiên cứu dịch tễ học và phương pháp phòng chống bệnh Cầu trùng gà
trong chăn nuôi.
Theo nghiên cứu của Fish (1932) ở phòng thí nghiệp cho thấy, oocyst bị tiêu
diệt khi tia tử ngoại vừa phải.
Cũng theo Warner D.E. (1933), Oocyst tồn tại 18 tuần trong đất râm mát một
phần, 21 tuần trong đất râm mát hoàn toàn. Song ánh nắng chiếu trực tiếp tác động
gây hại đến oocyst nhưng cỏ dại đã bảo vệ trứng tránh tia.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Bệnh Cầu trùng gà đã có từ rất lâu trong chăn nuôi nông hộ gia đình. Từ thời
Pháp thuộc người ta đã thấy gà có những triệu chứng: Tiêu chảy ra máu, khi mổ gà
chết thì thấy hai manh tràng sưng to giống với bệnh tích Cầu trùng ngày nay. Ở
nước ta, bệnh Cầu trùng mới được các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu từ những
năm 1970, khi mà chăn nuôi gà theo hướng công nghiệp phát triển mạnh và những
nghiên cứu này nhằm ngăn chặn dịch bệnh.
Dương Công Thuận và cs (1978) đã ghi nhận kết quả điều tra ở các cơ sở
chăn nuôi như sau:
Xí nghiệp gà Đông Anh (Hà Nội), gà nuôi trong chuồng thông thoáng tự

nhiên, hơi ẩm, vệ sinh tốt, dùng kitofural phòng bệnh cho gà, tỷ lệ nhiễm Cầu trùng
được ghị nhận như sau: Gà 2 - 4 tuần tuổi tỷ lệ nhiễm là 4%, gà 5 - 8 tuần tuổi tỷ lệ
nhiễm là 24%, gà 9 - 13 tuần tuổi tỷ lệ nhiễm là 11%, gà mái đẻ tỷ lệ nhiễm là 14%.
Xí nghiệp gà Thành Tô (Hải Phòng), gà nuôi trong chuồng, vệ sinh chăm sóc
tốt, không dùng thuốc ngừa Cầu trùng, tỷ lệ nhiễm như sau: Gà 2 - 4 tuần tuổi
nhiễm từ 47 - 93%. Sau 8 tuần tuổi bệnh giảm hẳn, một số gà mái đẻ cũng bị nhiễm
Cầu trùng nhưng không có biểu hiện rõ.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 7

Dương Công Thuận (1978) qua theo dõi chu kỳ tiến triển của Eimeria tenella
đã nhận xét: Oocyst phân lập từ phân tươi nuôi trong dung dịch bicromat kali 2,5%
trong phòng thí nghiệm (24 - 36
o
C); sau 24 giờ, trong oocyst đã sinh 4 sporocyst
hình lê hơi cong, sau 6 giờ hoàn tất sự hình thành sporozoite. So với các nước, thời
gian sinh sporocyst của oocyst ở nước ta ngắn hơn các nước khác 48 giờ.
Phạm Hùng (1979) tiến hành điều tra gà nuôi tại một số tỉnh miền Nam (TP.
Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai) đã cho thấy, có 8 loài Eimeria kí sinh
ở gà là Eimeria tenella, Eimeria necatrix, Eimeria mivati, Eimeria mitis, Eimeria
maxima, Eimeria hagani, Eimeria brunetti, Eimeria acervulina.
Nguyễn Thị Mai (1997), tỷ lệ nhiễm Cầu trùng trên đàn gà của xí nghiệp gà
Phúc Thịnh là 23,16% trong đó gà con 5 ngày đầu bắt đầu nhiễm và tỷ lệ nhiễm
tăng dần qua các lứa tuổi: Gà 14 ngày tuổi nhiễm 14,66%, gà 26 ngày tuổi nhiễm
29,62% và nặng nhất ở gà 35 ngày tuổi là 47,34%. Gà càng lớn tỷ lệ nhiễm Cầu
trùng càng giảm, đến 56 ngày tuổi thì tỷ lệ nhiễm Cầu trùng chỉ còn là 12,91%.
Hồ Thị Thuận, Phạm Văn Sơn, Huỳnh Thị Lan, Võ Bá Thọ, Phạm Văn
Nam (1984) đã tiến hành điều tra, điều trị bệnh Cầu trùng tại một trại gà công
nghiệp ở Sông Bé cũng ghi nhận, có 5 loài Cầu trùng tìm được: Eimeria tenella,
Eimeria necatrix, Eimeria mitis, Eimeria maxima, Eimeria brunetti. Gà 4 tuần

tuổi đã bắt đầu xuất hiện Cầu trùng, tỷ lệ nhiễm cao nhất từ tuần thứ 4 đến tuần
thứ 7. Eimia tenella là loài Cầu trùng gây bệnh phổ biến, bệnh tích rõ nhất.
Lê Thị Tuyết Minh (1994) nghiên cứu tình hình nhiễm Eimeria và bệnh Cầu
trùng gà ở một số trại gà tại một số vùng của Hà Nội xác định, có 4 loài Cầu trùng
trên gà thịt là: Eimeria tenella, Eimeria maxima, Eimeria mitis, Eimeria necatrix.
Hoàng Thạch và cs (1999) đã điều tra tỷ lệ nhiễm Cầu trùng trên gà ở các
tỉnh phía Nam từ 1994 – 1996 cho thấy tỷ lệ nhiễm Cầu trùng trên đàn gà nuôi công
nghiệp là 19,89%, gà thả vườn là 32,02% đã tìm thấy 6 loài cầu trùng Eimeria
tenella, Eimeria necatrix, Eimeria mitis, Eimeria maxima, Eimeria brunetti,
Eimeria acervulina.
Như vậy, ở nước ta các công trình nghiên cứu đã phát hiện hầu hết các loại
Cầu trùng gây bệnh ở gà mà các tác giả nước ngoài đã mô tả.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 8

1.2. Một số đặc điểm của Cầu trùng
1.2.1. Cấu trúc của oocyst Cầu trùng
Oocyst (noãn nang) Cầu trùng có nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu, gần
tròn, hình trứng hay hình oval, có khi hình quả lê, kích thước cũng khác nhau thay
đổi theo từng loài. Tuy nhiên phần lớn oocyst có đặc điểm cấu tạo như sau:

Hình 1.1 Cấu trúc của oocyst Cầu trùng
1. Nắp oocyst (Micropyle cap).
2. Hạt cực (Polar granule).
3. Lỗ oocyst (Micropyle).
4. Thể stieda (Stieda Body).
5. Hạt triết quang nhỏ trong
sporozoite (Small Refactile
Globule in Sporozoite).
6. Hạt triết quang lớn trong

sporozoite (Large Refractile
Globule in Sporozoite) .
7. Bào tử trùng (sporocyst).
7. Bào tử trùng (sporocyst).
8. Thể cặn sporocyst
(Sporocyst residuum).
9. Thể cặn oocyst (Oocyst
residuum).
10. Lớp vỏ trong (inter layer of
Oocyst wall).
11. Lớp vỏ ngoài (Outer layer
of Oocyst wall) .
Oocyst màu sáng hoặc không màu, màu vàng nhạt hoặc nâu nhạt. Lớp vỏ
ngoài thường nhẵn, cũng có loài xù xì (Eimeria Spinosa). Vỏ được chia thành 2 lớp:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 9

Vỏ ngoài dày, vỏ trong mỏng. Vỏ ngoài và vỏ trong có thể tách rời nhau bằng cách
làm nóng oocyst ở trong nước hoặc xử lý bằng axit H
2
SO
4
.
Vỏ ngoài là lớp quinonon protein, vỏ trong là lớp lipid kết hợp với protein để tạo
nên khúc xạ kép (lipoprotein). Lớp trong của vỏ oocyst chiếm 80%: gồm một lớp
glyoprotein (dày 90µm), được bao bọc bởi một lớp Lipid dày 10µm. Lớp lipid này chủ
yếu là phospho lipid, chính lớp này có khả năng kháng lại các nhân tố hóa học.
Một số Cầu trùng ở phía đầu nhọn có một cái nắp khúc xạ được gọi là
micropyle cap. Mycropyle là vị trí khe hở của màng bao quanh macrogamete khi thụ
tinh. Sau khi thụ tinh thì khe hở này đóng lại và vì vậy nhiều loài Cầu trùng không

thấy micropyle nữa.
1.2.2. Chu kỳ phát triển của Cầu trùng
Chu kỳ sinh học của Cầu trùng giống Eimeria gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn
sinh sản vô tính (schizogonie), giai đoạn sinh sản hữu tính (gametogonie) và giai
đoạn sinh sản bào tử (sporogonie). Hai giai đoạn đầu thực hiện trong tế bào biểu
mô ruột (endogenic) còn giai đoạn thứ 3 diễn ra ngoài cơ thể vật chủ (enxogenic).
Quá trình phát triển của Cầu trùng gồm 2 giai đoạn 1 và 2 xảy ra trong ký chủ, còn
giai đoạn 3 ngoài cơ thể. Vì quá trình phát triển của Cầu trùng gắn liền với cơ chế
sinh bệnh, do đó chúng ta cần xem xét kỹ các bước phát triển của chúng (Lê Văn
Năm, 2003).
Theo Phan Lục (1997), Cầu trùng khi mới theo phân ra ngoài, ở giai đoạn
noãn nang (oocyst) có hình bầu dục, hình trứng hoặc hình cầu, có 3 lớp vỏ (lớp
ngoài cùng mỏng). Bên trong noãn nang là nguyên sinh chất và có 1 nhân to. Một
số loài Cầu trùng có lỗ noãn nang ở một đầu. Sau một thời gian 1-8 ngày ở môi
trường ngoài, nếu gặp điều kiện thuận lợi, nhân và nguyên sinh chất bắt đầu phân
chia và hình thành 4 bào tử sporocyst, trong mỗi bào tử này lại phân chia cho 2 bào
tử sporozoit (Cầu trùng thuộc giống Eimeria). Những oocyst chứa sporozoit là noãn
nang có sức gây nhiễm.
Các oocyst có sức gây bệnh được gà nuốt vào cùng với thức ăn, nước uống.
Dưới tác dụng của men tiêu hóa trong dạ dày và ruột non (men tripsin), vỏ của oocyst
bị vỡ, giải phóng ra các bảo tử non (sporocyst). Theo Goodrich H.P. (1944). Sporozoit
thoát ra lỗ noãn (micropyle) dưới tác động của men tripsin (Levine D.L. 1925).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 10

Sporozoit được giải phóng ra có hình thoi, dài 10-15 µm có một hạt nhân.
Braunius (1982) cho rằng, sporozoit của loài Eimeria necatrix chui vào đỉnh của các
nhung mao ruột non, qua biểu mô vào tuyến ruột. Nhiều tác giả đã chứng minh rằng
sporozoit của các loài Cầu trùng khác nhau cũng xâm nhập vào biểu mô của các
đoạn ruột khác nhau.


Hình 1.2. Chu kỳ phát triển của Cầu Trùng

Giai đoạn sinh sản vô tính (schyzogony)
Qua đường tiêu hóa, các bào tử nang Cầu trùng xâm nhập vào cơ thể, dưới
tác dụng của enzym trong dịch tiêu hóa làm cho vỏ noãn nang bị phá hủy, giải
phóng các bào tử thể. Các bào tử thể nhanh chóng xâm nhập vào tế bào biểu bì ruột,
thận, mật, đôi khi vào mô bào dưới niêm mạc. Chỉ sau vài giờ, tại đây cùng với sự
phân chia của hạt nhân các noãn nang lớn lên nhanh chóng có hình tròn, hình oval
hoặc hình elip với nhiều nhân gọi là thể phân lập thuộc thế hệ 1 (schizont 1).
Schizont thế hệ I trưởng thành rất nhanh, bắt đầu hình thành và chứa đầy các
thể phân đoạn (merozoit) thế hệ I. Lúc này chúng làm tế bào bị ký sinh trương to rồi
vỡ (số lượng merozoit trong một schizont thay đổi rất lớn tuỳ loài Cầu trùng: từ 8
đến 16, có khi tới 120.000). Khi đã thành thục, các Merozoit thoát ra khỏi

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 11

schizontMột số xâm nhập trở lại tế bào biểu mô thích hợp để tiếp tục sinh sản vô
tính, một số khác chuyển sang kiểu sinh sản hữu tính. Điều này phụ thuộc vào loài
Cầu trùng, có loài sinh sản vô tính diễn ra qua 2 kỳ (E. maxima), có loài qua 3 kỳ
hoặc nhiều hơn.
Sinh sản hữu tính (gametogony)
Sau một số đợt sinh sản vô tính (tùy loài Cầu trùng), các thể gamet có hình
dạng giống schizont thế hệ thứ 1,2, chuyển sang sinh sản hữu tính và bắt đầu tạo
ra giao tử. Giao tử đực được gọi là microgamet, có kích thước nhỏ hơn giao tử cái,
chúng chuyển động nhanh nhờ có hai lông roi. Giao tử cái được gọi là macrogamet
có nhân rất to, ít chuyển động và có lỗ noãn.
Nhờ hai lông roi, giao tử đực di chuyển đến gặp giao tử cái, chui vào giao tử
cái qua lỗ noãn (miropyle). Trong giao tử cái diễn ra quá trình đồng hóa nhân và
nguyên sinh chất để tạo thành hợp tử. Hợp tử phân tiết một màng bao bọc bên

ngoài, lúc này nó được gọi là noãn nang (oocyst) có hình bầu dục, hình tròn hoặc
hình trứng hay hình quả lê. Đến đây các oocyst rơi vào trong lòng ruột và kết thúc
quá trình sinh sản hữu tính.
Thời gian nội sinh kết thúc, oocyst theo phân gà ra ngoài môi trường. Thời gian
sinh sản hữu tính kéo dài từ 3 - 22 ngày tùy vào từng loài Cầu trùng. Thời gian từ khi
gà chứa oocyst có sức gây bệnh đến khi gà thải oocyst trong phân là 4,5 - 5 ngày (đối
với loài Eimeria acervulina, Eimeria mitis), 6,5 ngày với loài Eimeria tenella.
Bhurtel (1955) đã nghiên cứu cơ chế phá vỡ vỏ oocyst Cầu trùng trong ruột
gà và cho biết, nguyên nhân cơ giới và men trypsin đóng vai trò quan trọng trong
việc phá huỷ vỏ oocyst để giảiphóng bào tử con.
Sinh sản bào tử (sporogony)
Oocyst Cầu trùng theo phân ra ngoài, trong lớp vỏ bọc bên ngoài đã chứa đầy
nguyên sinh chất. Ở ngoại cảnh, gặp điều kiện thuận lợi như nhiệt độ, độ ẩm thì sau
vài giờ trong nguyên sinh chất đã xuất hiện khoảng sáng và nguyên sinh chất bắt đầu
phân chia. Sau 13 - 48 giờ tùy vào từng loài Cầu trùng nguyên sinh chất sẽ hình thành
4 túi bào tử (sporoyst). Trong mỗi túi bào tử, nguyên sinh chất lại phân chia, kéo dài
tạo thành 2 bào tử con và trở thành oocyst có sức gây bệnh. Giai đoạn sinh sản bào tử

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 12

kết thúc. Những oocyst có sức gây bệnh lẫn vào thức ăn, nước uông và được gà nuốt
vào trong đường tiêu hóa.
Trong quá trình sinh sản bào tử, đối với Cầu trùng thuộc giống Eimeria, từ
mỗi nang trứng (oocyst) hình thành 4 tiền bảo tử (sporozoite), trong mỗi túi bào tử
lại chứa hai thể bào tử (sporoblast). Tất cả 8 thể bào tử được bao bọc xung quanh
bởi một vỏ cứng dày gồm hai lớp gọi là bào tử nang (sporocyst), kết thú giai đoạn 3
của quá trình phát triển Cầu trùng. Chỉ có các oocyst sau khi trở thành oocyst gây
bệnh mới có khả năng gây bệnh và truyền bệnh từ gà này sang gà khác (Kolapxki
và cs (1974)).
1.3. Những hiểu biết về bệnh Cầu trùng gà

1.3.1. Các loài Cầu trùng gây bệnh trên gà đã được nghiên cứu
Có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về các loài Cầu trùng gây bệnh trên các loài
gia súc, gia cầm khác nhau tuy nhiên thì những nghiên cứu về loài Cầu trùng gây
bệnh trên gà và thỏ được đề cập đến nhiều nhất.
Loài Eimeria acervulina (Tyzzer, 1929): Loài này ký sinh ở đoạn đầu của
ruột non của gà và còn ký sinh ở ruột gà rừng Gallus lafayettei ở Srilanka. Oosyst
có hình trứng, vỏ nhẵn, kích thước 16,0 - 20,3 × 12,7 - 16,3µm. oocyst có 2 lớp vỏ,
không có micropyle, có một hạt cực, không có thể cặn. Thời gian hình thành bào tử
trùng là một ngày.
Eimeria acervulina gây bệnh nhẹ nhưng nếu có nhiều oocyst có thể gây nên
bệnh trầm trọng có thể gây chết gà. Thời gian nung bệnh khoảng 4 ngày và bệnh
tích chủ yếu trên ruột: Làm thành ruột non dày lên và viêm cata, ít khi xuất huyết.
oocyst nằm trong ruột tạo nên những điểm màu trắng hay xám hoặc lan rộng ở mặt
ruột non.
Loài Eimeria brunetti (Johnson, 1930): Loài này ký sinh ở ruột non. Các
quá trình sinh sản vô tính sau đó như meront, gamont giao tử cái xảy ra ở đoạn cuối
ruột non, trực tràng, manh tràng và lỗ huyệt.
Oocyst của loài Eimeria brunette có hình trứng, kích thước 20,7 - 30,3 × 18,1
- 24,2µm. Lớp vỏ nhẵn không có micropyle hay thể cặn, có một hạt cực, sporocyst

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 13

hình trứng dài 13×7,5µm, có thể stieda và thể cặn. Thời gian hình thành bào trùng
là 18 - 48 giờ. Có ít nhất 3 giai đoạn sinh sản vô tính trước khi sinh sản hữu tính.
Eimeria brunetti gây bệnh nhưng mức độ phụ thuộc vào mức độ nhiễm.
Nhiễm nhẹ thì không gây tổn thương ở các cơ quan. Triệu chứng kéo dài khoảng 5
ngày, gia cầm ủ rũ, phân lỏng có chứa dịch nhầy và lẫn máu. Xuất huyết ở ruột non
và phần cuối ruột già. Nhiễm nặng có thể thấy hiện tượng viêm hoại tử toàn bộ ống
tiêu hóa nhưng thường thấy ở đoạn cuối ruột non, hồi tràng, manh tràng.
Loài Eimeria hagani (Levine, 1925): Loài này hiếm gặp, oocyst hình bầu

dục, kích thước 15,8 - 29,9 × 14, - 29,5µm, lớp vỏ nhẵn, không có micropile, không
màu, có hạt cực. Thời gian sinh sản bào tử là 18 -48 giờ. Loài này sinh sản ở đầu
ruột non. Đây là loài gây bệnh nhẹ và có thời gian nung bệnh 6 - 7 ngày.
Loài Eimeria maxima (Tyzzer, 1929): Phân bố rộng và ký sinh ở phần giữa
của ruột non của gà. Oocyst hình bầu dục, kích thước 21,4 - 42,5 ×16,5 - 29,8µm
không có micropyle, màu hơi vàng, vỏ hơi xù xì. Sporozoiet 19 × 4µm. Quá trình
sinh sản vô tính sảy ra ở phía trên hoặc bên cạnh nhân tế bào biểu mô lông nhung
của tá tràng và đoạn trên không tràng. Có 3 quá trình sinh sản vô tính. Thời gian sản
sinh bào tử là 30 - 48 giờ. Thời kỳ nung bệnh 5 - 6 ngày.
Loài Eimeria maxima gây bệnh nhẹ và trung bình. Tổn thương ở ruột chủ
yếu là xuất huyết. Cơ của ruột bị mất tính đàn hồi, vách ruột dày lên, viêm ruột
catar có nhiêu dịch nhày màu hồng hay vàng cam. Gà qua khỏi sẽ trờ lại trạng thái
bình thường.
Loài Eimeria mitis (Tyzzer, 1929): Phân bố rộng khắp trên thế giới, gây
bệnh trên gà chủ yếu ở tất cả các đoạn của ruột non nhưng thường thấy phần đầu
của ruột non và phần manh tràng của gà. Oocyst hình hơi tròn, kích thước 11 - 19 ×
10 - 17µm không màu, không có lỗ noãn. Thời gian sinh bào tử từ 18 - 24 giờ.
Giai đoạn nội sinh ở tế bào nhung mao ruột đôi khi ở tuyến lieberkuhn,
meront tạo ra 6 - 24 và hiếm khi tạo ra 30 sporozoite. Merozoite có hình lưỡi liềm,
một đầu tù, kích thước 5 ×15µm. Quá trình sinh sản vô tính và hữu tính xảy ra song
song. Thời kỳ nung bệnh kéo dài từ 4 - 5 ngày.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 14

Loài Eimeria mivati (Tyzzer, 1929): Oocyst hình trứng, kích thước 10,7 -
20,0 × 10,1 - 15,3µm, có lỗ noãn, không màu. Thời gian sinh bào tử là 18 - 21 giờ.
Loài này ký sinh ở tá tràng.
Sporocyst phá vỡ vỏ của oocyst ở diều và dạ dày tuyến. Rất nhiều sporozoite
được giải phóng di chuyển tới tá tràng trong vòng 20 phút sau khi ăn, chúng xâm
nhập vào biểu mô và tế bào tuyến của đoạn đầu và đoạn thứ 3 của ruột non.

Eimeria mivati gây bệnh nặng hơn Eimeria acervulina nhưng cũng là loài
gây bệnh nhẹ, tỷ lệ tử vong không quá 10%.
Loài Eimeria necatrix (Tyzzer 1929): Phân bố rộng khắp thế giới. Giai
đoạn sinh sản vô tính thứ nhất và thứ hai xảy ra ở ruột non, giai đoạn sinh sản vô
tính thứ ba, tiền giao tử và giai đoạn sinh giao tử xảy ra ở ruột già.
Oocyst hình bầu dục, kích thước 13 - 20 × 13,1 - 18,3µm, vỏ noãn nang nhẵn
không màu, gồm hai lớp vỏ, không có lỗ noãn, có hạt cực. Sporocyst hình trứng, có thể
Stieda, không có thể cặn. Thời gian sinh bào tử là 24 - 36 giờ.
Loài Eimeria praecox (Tyzzer, 1929): Loài này phân bố rộng, định vị trên
1/3 phía trên ruột non của gà.
Oocyst hình bầu dục, kích thước 16,6 - 27,7 × 14,8 - 19,4µm, không màu,
không có lỗ noãn. Thời gian sinh bào tử là 24 - 36 giờ. Loài này ký sinh ở đoạn đầu
ruột non. Giai đoạn sinh sản xảy ra ở tế bào biểu mô nhung mao ruột non thường
dọc theo một phía của nhung mao và phía dưới của nhân tế bào, có 3 hoặc 4 quá
trình sinh sản vô tính. Quá trình thứ hai xảy ra ở 32 giờ sau khi nhiễm. Sự phát triển
sau đó không tuần tự. Hai giai đoạn sinh sản vô tính và hữu tính xảy ra song song.
Loài Eimeria tenella: Loài này phổ biến ở manh tràng gia cầm trên khắp thế giới.
Oocyst hình bầu dục, kích thước 14,2 - 20,0 × 9,5 - 24,8µm không có lỗ noãn, màu xanh
nhạt. Sporocyst hình trứng không có thể cặn. Thời gian sinh bào tử là 18 - 48 giờ.
Bên cạnh E. tenella, E. necatrix gây bệnh nặng nhất ở gà. Nhiều nơi tác hại
do E. neatrix gây thiệt hại nhiều hơn E. tenella. Một số ý kiến cho rằng E. necatrix
gây bệnh mãn tính hơn E. tenella. Thực tế hoàn toàn không phải vậy bởi vì E.
necatrix xâm nhập vào sâu tế bào ruột và thời gian lâu hơn do đó chúng gây bệnh
chậm hơn. Thời kỳ nung bệnh là 6 - 7 ngày. Tổn thương thường thấy là ruột non

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 15

đoạn giữa và 2/3 phía trước. Bệnh tích nặng với những tiêu điểm nhỏ, màu trắng
mờ được tìm thấy ở ngày thứ 4 sau nhiễm. Xuất huyết xảy ra vào ngày thứ 4, 5
hoặc 6, lòng ruột non chứa đầy máu, có nhiều đốm máu xung quanh những tụ

điểm màu trắng chứa meront ở giai đoạn 2, sợi fibrin và bạch cầu đơn nhân.
Manh tràng ít bị tổn thương hơn. Có chứa nhiều dịch nhầy ở ngày thứ 7 sau
khi xuất hiện triệu chứng. Gia cầm không uống nước, yếu ớt hay đứng ở tư thế cánh
xà, mắt nhắm lại.
1.3.2. Đặc điểm dịch tễ học
Đây là một vấn đề có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn, đã
được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Eimeria phân bố rộng khắp thế giới, bệnh
xảy ra ở tất cả các giống gà nhưng chủ yếu xuất hiện ở gà nuôi theo hướng công
nghiệp hơn là gà nuôi thả, mọi lứa tuổi gà đều nhiễm.
Nguồn bệnh
Đa số các tác giả đều cho rằng nguồn bệnh là: những gà ốm hoặc khỏi bệnh
nhưng vẫn mang Cầu trùng, những gà bệnh này không biểu hiện triệu chứng nhưng
hàng ngày, hàng giờ vẫn bài xuất oocyst Cầu trùng qua phân ra ngoài môi trường,
phát tán trên nền chuồng, đệm lót, lẫn vào thức ăn, nước uống, từ đó làm cho dịch
bệnh phát triển và lây lan.
Lê Văn Năm (1995), Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), Nguyễn Thị Kim
Lan và cs (1999), đều thống nhất rằng, gà bị bệnh Cầu trùng là nguồn phát tán
oocyst Cầu trùng. Ngoài ra, những gà mang Cầu trùng nhưng không thể hiện triệu
chứng lâm sàng cũng là nguồn mang căn bệnh nguy hiểm, vì chúng là đối tượng mà
người chăn nuôi ít chú ý (do không có triệu chứng lâm sàng).
Con đường lây truyền
Tiêu hóa là con đường truyền lây duy nhất mà oocyst Cầu trùng có thể xâm
nhập vào cơ thể gà để gây bệnh. Gà ăn phải noãn nang cảm nhiễm lẫn trong thức ăn,
nước uống, chuồng nuôi, dụng cụ chăn nuôi sẽ bị nhiễm bệnh Cầu trùng.
Do tập tính của gà là hay nhặt, bới và tìm kiếm những mảnh thức ăn thừa,
chất độn ở nền chuồng, nên dễ nuốt phải oocyst có sức gây bệnh do gà bệnh thải
Cầu trùng trực tiếp ra ngoài môi trường qua phân.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 16


Qua vật trung gian truyền bệnh như các dụng cụ chăn nuôi, người chăn nuôi,
giầy dép, ủng, phương tiện vận chuyển, đã mang oocyst Cầu trùng từ bên ngoài
khu vực chuồng nuôi vào. Ngoài các loài côn trùng, các loài gặm nhấm cũng là
nguồn mang bệnh từ khu vực chăn nuôi khác vào chuồng trại. (Theo Nguyễn Thị
Kim Lan và cs., 2008).
Hoàng Thạch và cs (1999) khảo sát 250 mẫu ủng dùng trong trại nuôi nhận
thấy tỷ lệ nhiễm cầu trùng là 5,6% và khảo sát 250 mẫu từ dụng cụ dọn vệ sinh
chuồng nuôi cho biết tỷ lệ nhiễm là 11,2%.
Lê Minh và cs (2008) khi nghiên cứu khả năng mang oocyst Cầu trùng của
các động vật có ở xung quanh chuồng nuôi: Tất cả các động vật và côn trùng đều có
khả năng mang mầm bệnh trong đó ở kiến là 27,27%, ruồi là 22,22% và gián là
16,67%. Vì vậy tác giả đã sơ bộ kết luận các loài côn trùng như: Gián, chuột, ruồi,
là tác nhân mang oocyst Cầu trùng từ bên ngoài vào.
Khi oocyst bị ruồi nuốt vào, trong đường tiêu hóa của ruồi, chúng vẫn sống và
có khả năng gây bệnh trong vòng 24 giờ (Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
Về sự biến động của bệnh theo mùa vụ.
Có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm cầu trùng theo mùa. Theo Bạch Mạnh Điều
(2004), tỷ lệ nhiễm Cầu trùng qua các mùa luôn ngang nhau; Mùa xuân 27,59%,
mùa hè 26,27%, mùa thu là 20,07%, mùa đông là 27,58% nhưng cường độ nhiễm
vào mùa xuân cao nhất, mùa thu thấp nhất.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) cho biết: Bệnh Cầu trùng gà phân bố
không đều qua các tháng trong năm. Vào những tháng có khí hậu ẩm ướt, mưa
nhiều, nhiệt độ thích hợp từ 18 - 35
o
C bệnh thường xuất hiện và dễ bùng phát hơn
các tháng khác trong năm. Vì vậy, ở nước ta mùa xuân và mùa hè là hai mùa có tỷ
lệ nhiễm Cầu trùng cao hơn mùa đông và mùa thu.
Tuổi của gà: Ở các giai đoạn phát triển khác nhau gà có tỷ lệ nhiễm cầu
trùng khác nhau.
Gà 1 tuần tuổi chưa nhiễm, gà 2 tuần tuổi nhiễm thấp (Theo Phan Lục và

Bạch Mạnh Điều, 1998).
Theo Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (2001), Phạm Sỹ Lăng và Tô Long

×