Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Vấn đề nợ công của Mỹ – bài học đối với Việt Nam Luận văn ThS. Kinh tế 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 95 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




HỎA HẠNH NHÂN






VẤN ĐỀ NỢ CÔNG CỦA MỸ - BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI










Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




HỎA HẠNH NHÂN







VẤN ĐỀ NỢ CÔNG CỦA MỸ - BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM


Chuyên ngành : KTTG&QHKTQT
Mã số : 60 31 07



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI








NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN CẨM NHUNG




Hà Nội – 2014


MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt i
Danh mục các bảng ii
Danh mục các đồ thị iii
Mở đầu 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
3.1. Mục đích nghiên cứu 10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 11
4.1. Về đối tượng nghiên cứu 11
4.2. Phạm vi nghiên cứu: 11
5. Phương pháp nghiên cứu 12
6. Những đóng góp của luận văn 13
7. Kết cấu của luận văn 13
Chương 1: Một số quan điểm và cách tiếp cận về nợ công 14

1.1. Một số quan điểm về nợ công 14
1.1.1. Quan điểm phổ biến 14
1.1.2. Quan điểm của IMF 14
1.1.3. Quan điểm của World Bank 15
1.1.4. Quan điểm của bộ tài chính Hoa Kỳ 15
1.1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam 16
1.2. Đặc trưng cơ bản của nợ công 17
1.3. Phân loại nợ công 18
1.3.1. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay 18
1.3.2. Theo phương thức huy động vốn 18
1.3.3. Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công 19
1.3.4. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ 19
1.3.5. Theo cấp quản lý nợ 19
1.4. Cách thức đánh giá quy mô nợ công 20
1.4.1. Tiêu chí để đánh giá mức an toàn của nợ công: 20
1.4.2. Lãi suất với các khoản vay 21


1.4.3. Tỷ số công nợ & điều kiện trả nợ 23
1.5. Những tác động tích cực và tiêu cực của nợ công 24
1.5.1. Những tác động tích cực của nợ công 25
1.5.2. Những tác động tiêu cực của nợ công 25
1.6. Nguyên nhân gia tăng đến mất kiểm soát của nợ công 27
Chương 2: Thực trạng nợ công của Mỹ 34
2.1 Tổng quan tình hình nợ công của Mỹ từ 2000 – 2013 34
2.1.1 Quy mô và tỉ trọng nợ công Mỹ/ GDP 34
2.1.2 Thu chi của Liên bang và thâm hụt ngân sách 36
2.1.3 Chi phí lãi vay và thời hạn 38
2.1.4 Cơ cấu nợ công của Mỹ 43
2.2. Nguyên nhân dẫn đến nợ công Mỹ cao 49

2.2.1 Chính sách thuế và chi tiêu dẫn đến thâm hụt ngân sách 49
2.2.2 Mỹ là nước dễ đi vay nợ 51
2.3. Ảnh hưởng của nợ công tới Mỹ 53
2.3.1. Tác động lên tốc độ tăng trưởng kinh tế 53
2.3.2. Tác động lên tỷ lệ lạm phát 56
2.3.3. Tác động lên cán cân thương mại 58
2.3.4. Gia tăng thất nghiệp và các sức ép lên vấn đề an sinh xã hội khác 59
Chương 3: Đối sách của chính phủ Mỹ và những gợi ý cho Việt Nam 60
3.1. Các đối sách chính phủ Mỹ đang thực hiện 60
3.1.1. Nâng trần nợ 60
3.1.2. Chính sách thuế, chi tiêu và vấn đề thâm hụt ngân sách 64
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 68
3.2.1. Bài học từ biện pháp nâng trần nợ 69
3.2.2. Bài học từ chính sách thuế, chi tiêu và vấn đề thâm hụt ngân sách 71
Kết luân 80
Danh mục tài liệu tham khảo 81
Phụ lục



i

DANH MỤC CÁC TỪ VIÊT TẮT
STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
Ý nghĩa
1
BEA
US Bureau of Economic

Analysis
Cục phân tích kinh tế Mỹ
2
CRS
Congressional Research Service
Reports
Cơ quan nghiên cứu trực
thuộc Quốc hội Mỹ
3
GDP
Gross_domestic_product
Tổng sản phẩm quốc gia
4
GNP
Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc nội
5
FDIC
Federal Deposit Insurance
Corporation
Liên hiệp bảo hiểm tiền gửi
liên bang
6
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế


ii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT
Đồ thị
Nội dung
Trang
1
Biểu đồ 3.1
Chi tiêu Ngân sách của Việt Nam từ 2003-2012
77
2
Biểu đồ 3.2
Đầu tư khu vực Nhà nước của Việt Nam từ 2000-
2011
78


iii

DANH MỤC ĐỒ THỊ
TT
Đồ thị
Nội dung
Trang
1
Biểu đồ 2.1
Nợ công của Mỹ từ 2000-2013 (tính theo năm tài
chính FY)
34
2
Biểu đồ 2.2

Cân đối thu chi của Chính phủ Mỹ từ 2000-2013
36
3
Biểu đồ 2.3
Chi phí chi trả lãi ròng cho các khoản nợ, tính theo tỷ
lệ % GDP của Mỹ từ 2000 dự đoán đến hết 2015
38
4
Biểu đồ 2.4
Lãi suất đối với một số trái phiếu Kho bạc theo kỳ hạn
của Mỹ từ 2000 – 2013
39
5
Biểu đồ 2.5
Cơ cấu nợ theo kỳ hạn của Nợ chính phủ Mỹ 2007 –
2021 (tính theo năm tài chính FY)
41
6
Biểu đồ 2.6
Thời gian đáo hạn trung bình của Trái phiếu Chính
phủ Mỹ từ 2000 – 2013
42
7
Biểu đồ 2.7
Cơ cấu nợ chính phủ Mỹ 2013
43
8
Biểu đồ 2.8
Cơ cấu nợ công Mỹ do nước ngoài nắm giữ 2012
47

9
Biểu đồ 2.9
Tổng nợ chính phủ Mỹ và tổng nguồn thu từ thuế từ
2000-2013
49
10
Biểu đồ 2.10
Tỷ lệ nợ công/GDP và tăng trưởng kinh tế Mỹ từ 2000
- 2013
54
11
Biểu đồ 2.11
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế Mỹ từ 2000 - 2013
57
12
Biểu đồ 2.12
Cán cân thương mại Mỹ từ 2000 - 2012
58
13
Biểu đồ 3.1
Trần nợ công của Mỹ từ 2011 đến 2014
61
14
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.2: Tỷ trọng phân bổ tiêu ngân sách của Mỹ
từ 2000 – 2013
67
15
Biểu đồ 3.3
Nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai Việt Nam từ

2000-2011
70
16
Biểu đồ 3.4
Biểu đồ 3.4: Tình hình thu chi và thâm hụt ngân sách của Việt
Nam từ 2005-2012
72
17
Biểu đồ 3.5
Các nguồn thu ngân sách của Việt Nam từ 2006 -2014
73

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự sụp đổ của Lehman Brother (tháng 9/2008) sau 158 năm tồn tại đã mở
đường cho cơn bão khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu, mà ở vị trí
“tâm bão”, Mỹ là nước chịu tổn thất nặng nề. Sự suy thoái của nền kinh tế số 1
thế giới đã kéo theo sự sụt giảm về thương mại, đầu tư, cũng như ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nền tài chính toàn cầu, phủ bóng đen lên kinh tế toàn cầu.
Nếu như, trước cuộc khủng hoảng 2008, tăng trưởng kinh tế thế giới đang
được duy trì ở mức tương đối cao và ổn định xung quanh 5% (2006: 5,1%, 2007:
5,0% – WEO (2008) . Thì trong 3 năm trở lại đây, tăng trưởng kinh tế thế giới
chỉ được duy trì ở mức thấp – xung quanh 3,5% và con số tăng trưởng năm 2014
đang được IMF dự báo ở cũng chỉ mức khiêm tốn là 4,1% (2010: 3,9%; 2011:
3,2%; 2012: 3,5% – WEO (2013)
1
. Nhìn chung, tăng trưởng của nền kinh tế

thế giới đang chậm lại và điều này xảy ra ở tất cả các nền kinh tế, từ các nền kinh
tế phát triển đến các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi.
Sau cơn bão suy thoái năm 2008, Chính phủ các nước đã đưa ra nhiều biện
pháp rất mạnh tay để ngăn chặn những giảm sút về sự suy giảm của tốc độ tăng
trưởng kinh tế và các vấn đề hệ lụy phát sinh như: đưa ra các gói cứu trợ kinh tế,
giảm lãi suất, cắt giảm thuế, bơm tiền ồ ạt cho hệ thống tài chính – ngân hàng.
Chính điều này đã làm cho thế giới đối mặt với một vấn đề nóng mới đó là tình
trạng nợ công gia tăng trên toàn cầu.
Tình trạng thâm hụt ngân sách hay nợ công vốn là một hiện tượng bình
thường của các nền kinh tế, và nó có vai trò nhất định trong sự phát triển kinh tế

1
WEO: Báo cáo về triển vọng kinh tế của IMF
2

nói chung. Tuy nhiên, sự gia tăng bất thường của hiện tượng này lại là một vấn
đề đáng báo động đối với các quốc gia. Đồng hồ nợ công toàn cầu trên
Economist.com tính đến 10/04/2014 đang là $53,082,202,189,316; đã vượt qua
con số 50 nghìn tỷ USD về tổng giá trị nợ, và đang tiếp tục tăng – cho thấy sự
gia tăng một cách mạnh mẽ không ngừng nghỉ trong tổng mức nợ công của thế
giới.
2.

Con số nợ của toàn thế giới năm 2002, chỉ là 19 nghìn tỷ USD – như vậy
là chỉ trong vòng 12 năm, tổng nợ công trên toàn thế giới đã tăng lên gấp gần 3
lần. Tình trạng nợ công không chỉ tập trung ở một hay một số quốc gia khu vực
mà có vùng phân bổ rất rộng và mức độ trầm trọng một cách đáng báo động.
Trên bản đồ nợ, Economist.com thực hiện việc phân loại các quốc gia theo mức
độ nợ công tính trên đầu người, tổng mức nợ công, mức nợ công thay đổi theo
năm và tổng nợ công trên GPD, theo đó, phủ khắp nơi là một mầu đỏ thể hiện

mức độ cảnh báo cao của tình trạng nợ công trên toàn cầu.
3

Gần đây, vấn đề nợ công tại liên minh châu Âu đang được nhắc đến như
khu vực nguy hiểm nhất về nợ công trên toàn thế giới, Nhật Bản hiện là quốc gia
có số nợ khổng lồ nhất với tỷ lệ nợ công/GDP là 233,1%, trung bình mỗi người
dân Nhật đang gánh 99.303,84 USD nợ. Đứng thứ 2 là Mỹ với tỷ lệ nợ

2
Đồng hồ nợ công toàn cầu The global debt clock được cập nhật theo từng phút
tại: (10/04/2014).
Đồng hồ này cho thấy tình hình nợ công của thế giới theo từng năm, và được cập nhật liên tục.
Song song có 5 bản đồ về tình hình nợ: Bản đồ tổng nợ công; Bản đồ nợ/ đầu người; Bản đồ
nợ/GDP và Bản đồ về mức độ thay đổi (gia tăng) của nợ.
3
Trên bản đồ dưới đồng hồ tổng nợ công, Economist phân loại quốc gia theo mức nợ công
tuyệt đối– trong đó, những quốc gia có mức độ nợ nặng nề nhất được tô mầu đỏ,đậm, và nhạt
dần theo mức độ đáng báo động của tình trạng nợ; còn quốc gia có ít nợ nần nhất được tô mầu
xanh đậm.
3

công/GDP là 102,5%, và trung bình mỗi người dân Mỹ đang gánh 38.837,02
USD nợ.
Nợ công chưa bao giờ trở thành vấn đề thời sự và cấp thiết như thời điểm
hiện tại. Giải quyết vấn đề nợ công là khó khăn không chỉ đối với một hoặc một
nhóm quốc gia, mà còn là vấn đề mang tính toàn cầu với những ảnh hưởng xâu
chuỗi và chồng chéo, tác động lên toàn nền kinh tế thế giới. Nợ công của liên
minh châu Âu là vấn đề mang tính khu vực, vì các quốc gia châu Âu hiện đang
cùng sử dụng một đồng tiền chung và bị ràng buộc nhau bởi các chính sách kinh
tế, mà đặc biệt là nền tài chính chung – trong khi mức độ phát triển và tình hình

kinh tế đang rất khác nhau. Nợ công của Nhật Bản tuy đang đứng đầu thế giới về
tỷ lệ nợ công/GDP trên 230%, tuy nhiên tính đến hết năm 2013, Nhật Bản vẫn
tiếp tục giữ vững ngôi vị chủ nợ số một thế giới, là năm thứ 22 liên tiếp với khối
lượng cho vay ròng lên tới 296,32 nghìn tỷ Yên (tương đương 2.930 tỷ USD).
Định mức tín nhiệm từ Moody’s của Nhật bản hiện vẫn đang ở mức rất cao là
Aa3, nhờ 2 yếu tố là tỷ lệ thất nghiệp thấp (chỉ 4,6%), và trái phiếu chính phủ
chủ yếu do các chủ nợ trong nước nắm giữ.
4

Trong khi đó, mức độ thay đổi lớn trong nợ công theo chiều hướng tăng
nhanh, cùng với sự gia tăng chi tiêu chính phủ về cả con số tuyệt đối và tỷ trọng,
đi kèm với đó là tỷ lệ thất nghiệp lớn đã khiến cho tình hình nợ công của Mỹ trở
nên đáng báo động.

Vào năm 2001, tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ mới là 45,6%.
Đến năm 2011, sau một thập kỷ chi tiêu công gia tăng, nước Mỹ đã chứng kiến
khối nợ “phình” lên 77,5% GDP. Vào năm 2001, chi tiêu công của Mỹ tương
đương 33,1% GDP, thì đến năm 2011, tỷ lệ này là 39,1%.

4
Moody’s Investor Service cùng với Standard & Poor's và Fitch Ratings là 3 công ty nổi tiếng
về đánh giá định mức tín dùng toàn cầu. Theo đó, chính phủ Nhật công bố, 95% dư nợ trái
phiếu của Tokyo hiện nằm trong tay của các nhà đầu tư trong nước, chỉ có 5% là do các chủ
nợ nước ngoài nắm giữ.
4

Nợ công hiện đang làm mất đi sự cân đối của nền kinh tế - tạo cản trở lớn
với sự phục hồi và phát triển nền kinh tế Mỹ trong dài hạn. Việc chính phủ Mỹ
không đạt được những thỏa thuận mong muốn về ngân sách dẫn đến việc đóng
cửa tạm thời trong 2 tuần đã dấy lên mối lo ngại toàn cầu về nguy cơ vỡ nợ của

Mỹ và các kịch bản tài chính có thể xẩy ra Để giải quyết vấn đề tình thế này,
Chính phủ Mỹ đã đẩy trần nợ lên mốc mới vào ngày 27/02/2014 và bỏ phiếu
thông qua dự luật trì hoãn áp dụng trần nợ đến 15/03/2015. Tuy nhiên, tình hình
này vẫn tác động đến sự ổn định của cả nền kinh tế thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, trong đó mạnh mẽ và trực tiếp nhất là vấn đề thương mại. Mỹ là
một trong những thị trường xuất khẩu chính của hàng hóa Việt Nam, hơn nữa,
vai trò của đồng Đô la tại Việt Nam – không chỉ là ngoại tệ chuyển đổi mang
tính thanh khoản cao, mà còn là thước đo giá trị, cũng là một lựa chọn tích lũy
của người dân, làm cho vấn đề của Mỹ càng trở nên gần gũi và sâu sắc.
Nghiên cứu vấn đề nợ công và những tác động của nó lên sự phát triển
kinh tế của một quốc gia – mà cụ thể là Mỹ: quốc gia có ảnh hưởng lớn đến nền
kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, là hết sức cần thiết để có thể
hiểu tổng quan vấn đề cũng như rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong
việc giải quyết vấn đề nợ công hiện nay, trong hoàn cảnh, hiện nợ công tại Việt
Nam, theo đánh giá trong nước cũng như theo những đánh giá quốc tế, đã đang ở
mức có nợ công trung bình của thế giới.
5

2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến vấn đề nợ công của
Mỹ - lịch sử hình thành, mối quan hệ của nợ công với các yếu tố kinh tế khác,

5
Theo số liệu của Economist (2013) thì mức nợ công của Việt Nam nằm ở nhóm nợ công
trung bình của thế giới, với mức nợ là 12,328,493,151 USD; mức nợ tính trên đâu người là
153.21 USD/ người; chiếm 37% GDP, nhưng lại có con số thay đổi nợ rất cao là 132.9%.
5

cũng như tác động của nó lên toàn thể nền kinh tế, mà nổi bật là một số công
trình sau:

Franklin Noll (2010) đã tiếp cận nợ công theo chuỗi thời gian. Theo ông,
cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775-1783) là thời điểm nợ công bắt đầu xuất
hiện do những người sáng lập ra nước Mỹ đã vay tiền từ Pháp và Hà Lan để chi
trả cho cuộc chiến. Cho đến khi kết thúc Nội chiến, Chiến tranh thế giới thứ I và
II xảy ra thì nợ công của Mỹ tăng với một tỷ lệ ngày càng lớn hơn. Với thời gian
tham chiến ngắn, tuy không bị ảnh hưởng trực tiếp từ 2 cuộc chiến tranh trên,
nhưng Mỹ đã tiêu một số tiền khổng lồ để phát triển súc mạnh quân sự trong thời
gian này, và từ đó, từng bước có được vị trí cường quốc. Ông đã nghiên cứu và
thống kê nguyên nhân và diễn biến tình hình gia tăng công nợ của Mỹ, từ năm
1861 (khi nội chiến xảy ra) đến 1975 (khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc và
kinh tế Mỹ phục hồi) và chia lịch sử nợ công Mỹ ra 2 giai đoạn là Kỷ nguyên
truyền thống (The Traditional Era: 1861-1932) và Kỷ nguyên mới (The New
Era: 1932-1975). Với hướng nghiên cứu là tiếp cận theo chuỗi thời gian,
Franklin Noll đã tổng kết được nguyên nhân và diễn biến tình hình công nợ của
Mỹ trong thời gian từ 1861 – 1975.
Steve Williamson (2011) nghiên cứu nợ công trong mối quan hệ với thị
trường tài chính – đặc biệt là hiện tượng thoái lui đầu tư. Nghiên cứu của ông đã
cho thấy tỷ trọng nợ công của Mỹ/ GDP liên tục tăng theo thời gian, Steve
Williamson cũng cung cấp một cách tổng quan nhất công cụ và cách thức mà
chính phủ Mỹ đi vay nợ. Ông đưa ra kết luận rằng trong tất cả những chủ thể
phát hành nợ thì chính phủ Mỹ đóng vai trò quan trọng nhất đối với thị trường tài
chính, không những vì con số tổng của nhà phát hành nợ này rất lớn, mà ảnh
hưởng của các hoạt động vay nợ chính phủ lên thị trường tài chính tác động trực
6

tiếp đến lãi suất huy động cũng như cho vay. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng, nợ
công so với GDP lớn sẽ đặt rất nhiều gánh nặng lên nền kinh tế, đặc biệt là khi
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, và là nguyên nhân chính của hiện tượng thoái
lui đầu tư.
Brian W. Cashell (2010) nghiên cứu về tác động của nợ công đối với tỷ

giá hối đoái của Mỹ trong cả ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, gia tăng nợ
công sẽ tác động đến việc thúc đẩy nhu cầu và tăng sản lượng đầu ra, tuy nhiên
khi nền kinh tế đạt đến trạng thái nhân công toàn dụng, thị trường tín dụng thắt
chặt, sự vay mượn của chính phủ sẽ đẩy lãi suất lên cao, điều này sẽ tác động
đến dòng chảy vốn quốc tế và do đó tác động đến cán cân thương mại. Tăng nhu
cầu về Đô la Mỹ trong thị trường hối đoái sẽ có xu hướng đẩy giá Đô la Mỹ lên
so với các tiền tệ khác và làm cho thâm hụt thương mại lớn hơn. Điều này trở
nên quan trọng hơn vì vị trí đặc biệt của đồng Đô la Mỹ thường được sử dụng để
làm thước đo, là thành phần chính trong rổ tiền tệ thế giới. Brian W. Cashell kết
luận là trong ngắn hạn, nợ công là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên
trong dài hạn, nợ công làm tăng giá đồng nội tệ và tạo ra thâm hụt thương mại.
Francis E. Warnock (2010), phân tích mức độ nguy hiểm của việc gia tăng
nợ công của liên bang trong dài hạn và vấn đề khủng hoảng nợ công. Thâm hụt
ngân sách càng tăng cao thì triển vọng nợ công sẽ càng tăng, kì vọng lạm phát
tăng, trái phiếu kho bạc cũng sẽ tăng. Điều này sẽ không chỉ tăng chi phí vay
mượn của chính phủ trong tương lai mà còn đe dọa đến sự phục hồi giá nhà và
các lĩnh vực lãi suất nhạy cảm khác. Chi phí vay mượn tăng cao lại không đồng
nghĩa với việc đi vay mượn sẽ trở nên khó khăn hơn, (mà chỉ dừng lại ở mức tác
động là tăng chi phí cận biện của một đồng tiền vay), chính vì thế điều này sẽ
7

kéo chính phủ lún ngày càng sâu vào nợ nần, cho đến tận khi xẩy ra khủng
hoảng.
Joshua Aizenman và Nancy Marion (2009) đã đưa ra bốn giải pháp để
giảm nợ công. Một là, GDP phải tăng đủ mạnh để giảm tỷ lệ nợ công/GDP,
nhưng điều này đòi hỏi phải có sự phục hồi kinh tế đủ mạnh sau khi khủng
hoảng tài chính nổ ra, yêu cầu này là biện pháp không khả quan trong tương lai
gần với các chỉ số của nền kinh tế Mỹ hiện tại, khi mà tỷ lệ thất nghiệp thì vẫn
cao, tăng trưởng kinh tế lại ở con số rất khiêm tốn. Biện pháp thứ hai là tăng lạm
phát để giảm giá trị thực của nợ. Các nhà tín dụng nước ngoài sẽ chia sẻ gánh

nặng lạm phát cao của Mỹ cùng các nhà tín dụng trong nước, vị trí nền kinh tế số
1 thế giới cũng như đặc điểm thước đo của đồng Đô la Mỹ khiến cho biện pháp
này đặc biệt thích hợp và dễ áp dụng với Mỹ. Thứ ba là chính phủ sẽ tăng thuế
để tăng nguồn thu bù đắp thâm hụt, vấn đề bội chi ngân sách sớm muộn cũng
phải giải quyết bằng tăng thu, giảm chi để tiến tới cân bằng ngân sách. Cuối
cùng chính là biện pháp nâng trần nợ. Những nghiên cứu này được đưa ra vào
năm 2009, ngay sau cuộc khủng hoảng 2008 một thời gian ngắn, vào thời điểm
mà nợ công của Mỹ bắt đầu gia tăng nhanh chóng, và trước rất nhiều so với thời
điểm chính phủ Mỹ liên tục tung các gói kích cầu và nâng trần nợ. Mặc dù đã
đưa ra 4 giải pháp chủ yếu rất chuẩn xác với tình hình kinh tế hiện tại, vào thời
điểm nghiên cứu năm 2009 các tác giả lại đánh giá khả thi và đi sâu phân tích
biện pháp tăng lạm pháp để giảm giá trị thực của nợ.
Trong các nghiên cứu của Việt Nam về vấn đề tác động của nợ công đối
với nền kinh tế Mỹ, Võ Hải Minh (2011) đã phân tích các nguyên nhân và tác
động của việc nợ công Mỹ ngày càng gia tăng. Tác giả của nghiên cứu cho rằng
nợ công cao có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, gây rủi ro dài hạn
8

đối với thực lực tài chính của Chính phủ liên bang và gây ra một khoản lớn chi
phí lãi vay. Nguyên nhân chủ yếu làm cho nợ công của Mỹ tăng lên mức cao kỉ
lục như hiện nay là do hậu quả của tình trạng thâm hụt ngân sách liên bang kéo
dài trong nhiều năm. Ngoài ra, việc trả lãi cho chính các khoản nợ công đã có
cũng khiến nợ công Mỹ ngày càng phình to.
Cù Chí Lợi (2011) cũng phân tích về nguyên nhân và tác động của nợ
công Mỹ, nhưng lại đi sâu vào phân tích về tác động của nợ lên quá trình phục
hồi của nền kinh tế Mỹ. Ông nhấn mạnh rằng việc trả nợ sẽ đặt gánh nặng lên
toàn bộ nền kinh tế vì vậy khả năng tăng thuế rất dễ xảy ra và việc đi vay nợ
nước ngoài làm đồng tiền trong nước lên giá (do tỷ lệ tiết kiệm trong nước giảm
nên vay nợ trong nước của Mỹ rất khó khăn) hoặc đồng tiền trong nước không
giảm giá thì thâm hụt thương mại khó giải quyết hơn. Cả hai vấn đề này sẽ làm

chậm lại quá trình phục hồi và phát triển của Mỹ trong trung và dài hạn.
Phạm Thị Thanh Bình cùng các cộng sự (2013) đã đưa ra nghiên cứu một
cách tổng thể về vấn đề nợ công ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách
đối với Việt Nam. Ngoài những vấn đề mang tính lý thuyết chung về nợ công,
nhóm tác giả đã đưa ra các phân tích sâu theo từng nhóm nước. Các nhóm được
đề cập đến là: nhóm nước phát triển: Mỹ, Nhật, khu vực châu Âu và nhóm đang
phát triển: Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN. Nghiên cứu đã tìm ra những đặc điểm
chung về nợ công của từng nhóm, cũng như những đặc điểm riêng của từng quốc
gia (ví dụ, đối với khu vực châu Âu, nhóm tác giả có phân tích chi tiết đến từng
quốc gia riêng biệt như: Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha). Ngoài phân tích về
nguyên nhân phát sinh nợ, diễn biến công nợ từng nước và từng khu vực, nhóm
tác giả cũng đã đưa ra giải pháp xử lý thích hợp nên có đối với từng trường hợp.
9

Riêng về vấn đề nợ công Việt Nam, nghiên cứu: “Nợ công và tính bền
vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai” của nhóm tác giả Phạm Thế
Anh, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Trí Dũng, Tô Trung Thành (2013) thực hiện
trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ nâng cao năng lực tham mưu, thẩm tra và giám
sát chính sách kinh tế vĩ mô” của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội do Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam tài trợ, có mục tiêu là nhận diện
các rủi ro và thách thức trong việc giám sát và quản lý nợ công đã nghiên cứu rất
chi tiết với những nhận định sâu sắc. Nghiên cứu bao gồm các nội dung cụ thể
như: xem xét kinh nghiệm quốc tế và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, phân
tích thực trạng và những tác động tiêu cực của thâm hụt tài khóa và nợ công tăng
nhanh đối với các biến số vĩ mô, đánh giá rủi ro và tính bền vững của nợ công,
dự báo nợ công Việt Nam theo những kịch bản kinh tế khác nhau (đề tài đã đưa
ra 3 kịch bản kinh tế giả định, với dự báo xu hướng riêng với từng kịch bản đó).
Sau những phân tích chuyên sâu, đề tài đã đưa ra một số gợi ý chính sách chung
cho tất cả các kịch bản. Những gợi ý này có định hướng nhằm nâng cao tính
minh bạch, khả năng giám sát và quản lý nợ công theo hướng bền vững trong

tương lai ở Việt Nam, đặt nó vào trong mối quan hệ kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay, đặc biệt là mối quan hệ Việt Nam với ASEAN. Các biện pháp nổi
bật được nhóm tác giả đi sâu vào phân tích là: chuyển đổi mô hình tăng trưởng
sang chiều sâu; nâng cao năng lực quản lý đầu tư công, minh bạch chi tiêu công;
phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa; đẩy mạnh quá trình hợp tác với các nước trong khu vực để đảm bảo an
ninh tài chính trong khu vực.
Tóm lại, việc nghiên cứu về tình hình nợ công Mỹ đều là phân tích chuyên
sâu về mối quan hệ giữa nợ công của Mỹ với 1 yếu tố của nền kinh tế (ví dụ như
với thị trường tài chính, với vấn đề lạm phát, thoái lui đầu tư ), hoặc nghiên
10

cứu về tính lịch sử của vấn đề, hoặc đặt ra những giả định về mức độ nghiêm
trọng và những dự báo về sự tiến triển của tình hình, … Các công trình nghiên
cứu của các tác giả Việt Nam về nợ công thường được rút ra bài học kinh
nghiệm hoặc hàm ý chính sách từ tình hình nợ công thế giới nói chung hoặc từ
tình hình nợ công của từng khu vực nói riêng. Trước tình hình nghiên cứu như
trên, việc nghiên cứu tổng quan các đặc điểm và bản chất của nợ công về mặt lý
thuyết và tình hình diễn biến thực tế để có thể hiểu được một cách căn bản nhất
về vấn đề nợ công từ đó phân tích được nguyên nhân thực trạng nợ công hiện
nay của Mỹ cũng như phân tích về các đối sách của chính phủ Mỹ trong việc giải
quyết nợ, từ đó đưa ra những gợi ý cho Việt Nam là cần thiết.
Việc nghiên cứu của luận văn hi vọng sẽ đem lại một bức tranh tổng quan
về tình hình nợ công hiện nay cũng như rút ra bài học cả về lý luận lẫn thực tiễn
trong vấn đề giải quyết nợ công ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở một số quan điểm phổ biến về nợ công, tác giả chọn ra một
cách tiếp cận về nợ công để làm căn cứ cho các phân tích trong bài. Mục đích
nghiên cứu là đưa ra một bức tranh tổng thể về diễn biến, tình hình nợ công và

cách giải quyết của Mỹ trong giai đoạn 2000 – 2013, và rút ra những bài học
cho việc giải quyết nợ công ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các câu hỏi nghiên cứu cụ
thể sau:
11

- Thực trạng nợ công tại Mỹ (2000 – 2013) : quy mô, mức độ và diễn biến
tình hình ra sao?
- Đâu là nguyên nhân gây ra sự gia tăng nợ công tại Mỹ và một số ảnh
hưởng tích cực cũng như tiêu cực của nó đối với nên kinh tế?
- Chính phủ Mỹ đã có những đối sách như thế nào với vấn đề nợ công?
- Việt Nam có thể học tập được gì?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những cách tiếp cận và một số quan
điểm, cách thức xử lý về vấn đề nợ công nói chung. Đối tượng nghiên cứu chính
là tình hình công nợ của chính phủ Mỹ và các chính sách kinh tế mà Chính phủ
Mỹ đã đưa ra để ứng phó với nợ công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào phân tích thực trạng của tình hình nợ công dưới
các cân đối vĩ mô khác và những biện pháp chính phủ Mỹ đã tiến hành trên thực
tế và những ảnh hưởng trực tiếp của các biện pháp này lên kinh tế Mỹ. Đề tài
không mở rộng ra phân tích về những ảnh hưởng của nó tới tổng thể của nền
kinh tế thế giới hay đặt trong tình hình nợ công toàn cầu hoặc gắn với các vấn đề
chính trị của Hoa Kỳ.
Về mặt thời gian nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu từ 2000 –
2013, đây là khoảng thời gian mà nợ công của Mỹ cũng như thế giới có những
thay đổi đáng kể về quy mô lẫn tính chất.
12


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình thực hiện là
phương pháp duy vật biện chứng, xét trên các quan điểm thực tiễn về tính ứng
dụng của vấn đề nghiên cứu, quan điểm hệ thống khi xem xét sự vật trong chỉnh
thể, và quan điểm lịch sử: xem xét sự vật trong những hoàn cảnh cụ thể; kết hợp
phương pháp định tính và phương pháp định lượng để phân tích, tổng hợp.
Các phương pháp nghiên cứu tổng quát được sử dụng cụ thể như sau:
- Phân tích và tổng hợp lý thuyết: sử dụng để nghiên cứu các văn bản, tài
liệu lý luận khác nhau về cùng chủ đề nợ công; bằng cách phân tích chúng thành
từng bộ phận, từng mặt để hiểu chúng một cách toàn diện, để từ các xu hướng,
những trường phái nghiên cứu của từng tác giả, lựa chọn những thông tin quan
trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát khoa học và thống kê được sử dụng để thu thập
đầy đủ thông tin về đối tượng cần nghiên cứu: phân loại, hệ thống hóa, tính toán
một cách khoa học các thông số. Cùng với đó là phương pháp so sánh để nhìn
nhận rõ những thay đổi về quy mô, mức độ về mặt thời gian: So sánh kỳ này với
cùng kỳ trước để đánh ra rõ sự tăng giảm và quy mô tăng giảm của số liệu với
cùng một nguồn và cùng một hệ quy chiếu có thể được lựa chọn bằng số tuyệt
đối, số tương đối hoặc số bình quân.
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: sắp xếp các tài liệu, số liệu, sự
kiện thành một hệ thống logic trên cơ sở mô hình lý thuyết đã lựa chọn, cân đối
và phân tích tỷ lệ để khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách
có hệ thống hàng loại tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn,
để nguồn thông tin kinh tế và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: là phương pháp trong
đó nhà nghiên cứu dùng lý luận để xem xét lại những thành quả của hoạt động
13

thực tiễn trong quá khứ để rút ra những kết luận bổ ích cho để tìm ra các giải

pháp hoàn hảo hơn, trên cơ sở phân tích những giải pháp, kinh nghiệm đã có từ
thực tiễn.
Luận văn được sử dụng các nguồn dữ liệu từ các tài liệu nghiên cứu của
nhiều tác giả trong nước và quốc tế, các ấn phẩm về kinh tế tài chính. Tham khảo
các trang web của Nhà trắng, Bộ tài chính Mỹ, cơ quan nghiên cứu trực thuộc
Quốc hội Mỹ, các tổ chức tín dụng, ngân hàng quốc tế, các trang thông tin điện
tử của chính phủ Việt Nam, bộ Tài chính
6. Những đóng góp của luận văn
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả đã đưa ra bức tranh
toàn cảnh về nợ công của Mỹ, bao gồm tính lịch sử và một số mối quan hệ liên
quan; nêu ra, phân tích và đánh giá cách thức và hiệu quả của những biện pháp
mà chính phủ Mỹ đang sử dụng để xử lý vấn đề, cũng như những tác động của
các biện pháp đang được áp dụng lên nền kinh tế Mỹ qua những vấn đề then chốt
như: tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng lên thị trường tài chính và đầu tư, và tình
trạng thất nghiệp. Từ đó, đúc rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc giải
quyêt vấn đề nợ công ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn bao gồm 3 phần:
Chương 1: Một số quan điểm và cách tiếp cận về nợ công
Chương 2: Thực trạng nợ công của Mỹ hiện nay
Chương 3: Đối sách của chính phủ Mỹ và bài học cho Việt Nam.

14

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ CÁCH TIẾP CẬN VỀ NỢ CÔNG
1.1. Một số quan điểm về nợ công
1.1.1. Quan điểm phổ biến
Các sách giáo khoa về kinh tế học – mà khởi đầu là Michael Parkin – giáo
sư Havard, đều cho rằng nợ công là nợ của Chính phủ. Nợ của Chính phủ là tổng

số tiền Chính phủ đã vay mượn từ các hộ gia đình, các doanh nghiệp trong nước
và từ các chủ thể khác ở nước ngoài. Nó chính là lượng tích lũy của tất cả các
khoản thâm hụt ngân sách trong quá khứ trừ đi tất cả những khoản thặng dư ngân
sách trong quá khứ.
Nợ của chính quyền = Tổng thâm hụt ngân sách nhà nước tích lũy – Tổng
thặng dư ngân sách nhà nước tích lũy.
Trong đó, cán cân ngân sách = Tổng thu thuế – Tổng chi tiêu về mua sắm
hàng hóa dịch vụ, chi trả chuyển giao và trả lãi vay.
Như vậy khái niệm này đứng trên giác độ chủ thể đi vay và mối quan hệ
giữa thâm hụt ngân sách nhà nước với nợ công để xem xét.
1.1.2. Quan điểm của IMF
Theo Government Finance Statistics (IMF, 2002), IMF chia khu vực công
ra thành khu vực công tài chính và khu vực công phi tài chính.
+ Khu vực công tài chính bao gồm các định chế tiền tệ và phi tiền tệ công.
Những định chế tiền tệ công bao gồm: ngân hàng trung ương, các ngân hàng
thương mại thuộc sở hữu nhà nước. Những định chế tài chính phi tiền tệ công
bao gồm: các định chế tài chính phi tiền gửi thuộc sở hữu nhà nước.
15

+ Khu vực công phi tài chính bao gồm chính quyền trung ương, chính
quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước phi tài chính.
Phân chia khu vực công theo cách như vậy, nhưng đôi lúc trên thực tế, chỉ
có số liệu nợ của khu vực công phi tài chính và nợ của khu vực công tài chính
mà được Chính phủ bảo lãnh mới được tính vào nợ công.
Điều này làm cho tổng số nợ của khu vực công như định nghĩa của IMF sẽ
không đầy đủ, do loại trừ nợ của Ngân hàng Trung ương và những khoản nợ
không được bảo lãnh của các định chế tài chính, tiền gửi và phi tiền gửi thuộc
khu vực công.
1.1.3. Quan điểm của World Bank
Theo định nghĩa của WB, nợ công nghĩa là nợ của khu vực công bao gồm

các nghĩa vụ nợ của:
+ Chính phủ Trung ương và các Bộ;
+ Các cấp chính quyền địa phương;
+ Các thể chế độc lập nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách
nhà nước quyết định (trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước) và trong trượng hợp
vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho thể chế đó;
+ Ngân hàng Trung ương.
1.1.4. Quan điểm của Bộ Tài chính Mỹ
Theo quan điểm của Bộ Tài chính Hoa Kỳ thì “Nợ công là toàn bộ các
khoản nợ mà chính phủ Hoa Kỳ có trách nhiệm hoàn trả. Trong đó toàn bộ công
chúng là người chịu trách nhiệm cuối cùng đối với các khoản nợ thông qua
thuế.”
16

1.1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba
nhóm là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa
phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc
các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo
quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính
quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát
hành.
Như vậy khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam
được đánh giá là hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế
giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định: Nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ

được Chính phủ bảo lãnh. Một số nước và vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm
cả nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của
doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan, Indonesia…).
Trong luận văn, nợ công sẽ được nhìn nhận theo quan điểm: nợ công là
các khoản nợ ràng buộc trách nhiệm của nhà nước.
Nợ công ở đây được hiểu tương đương với thuật ngữ nợ nhà nước hay nợ
Chính phủ. Nợ công hoàn toàn khác với nợ quốc gia – là toàn bộ khoản nợ phải
trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của nhà nước và nợ của tư nhân
(doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân).
17

Nợ công tương ứng với tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc
mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm bù đắp cho các khoản thâm
hụt ngân sách, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một thời
điểm nào đó.
1.2. Đặc trƣng cơ bản của nợ công
Nợ công được xác định là một khoản nợ mà nhà nước (bao gồm các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả
nợ của nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiếp và trả nợ gián
tiếp. Trả nợ trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người
vay và do đó, cơ quan nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Trả nợ
gián tiếp là trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để
một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì
trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh.
Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm
đảm bảo hai mục đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn
vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính
quốc gia; hai là, đề đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Bên
cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về

mặt chính trị xã hội. Nguyên tắc quản lý nợ công Việt Nam là nhà nước quản lý
thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến
việc trả nợ để đảm bảo hai mục tiêu cơ bản trên.
Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng không
phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi
18

ích chung của cộng đồng. Ở Việt Nam, xuất phát từ bản chất của nhà nước là
thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, nhà nước là của dân, do dân và vì
dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích
của nhân dân, cụ thể là đề phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và phải coi đó
là điều kiện quan trọng nhất.
1.3. Phân loại nợ công
1.3.1. Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay
Theo cách thức phân loại này, nợ công gồm có hai loại: Nợ trong nước và
nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức
trong nước. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài,
vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng
trong quản lý nợ. Việc phân loại này sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình
cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an
ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi
hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
1.3.2. Theo phương thức huy động vốn
Theo cách thức phân loại này, nợ công gồm có: Nợ công từ thỏa thuận
trực tiếp và Nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ
công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ
những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa các

nhà nước. Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này

×