Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nghiệp vụ bảo lãnh các ngân hàng thương mại VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.28 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nghiệp vụ bảo lãnh các ngân hàng thơng mại
Việt Nam - thực trạng và giải pháp phát triển
Xu hớng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, môi
trờng cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt hơn, đòi hỏi các ngân hàng phải
không ngừng phát triển và đổimới theo hớng hoàn thiện các nghiệp vụ sẵn có,
tiếp cận và ứng dụng các dịch vụ mới. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ đ-
ợc các ngân hàng thơng mại (NHTM) Việt Nam quan tâm phát triển trong
những đổi mới. Phát triển nghiệp vụ này không những góp phần đa dạng hoá
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, mà còn thoả mãn nhu cầu đa dạng về bảo
lãnh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động
quan hệ kinh tế thơng mại.
1. Thực trạng hoạt động bảo lãnh của các NHTM Việt Nam
Kết quả hoạt động bảo lãnh của các NHTM Nhà nớc ở Việt Nam cho
thấy, nghiệp vụ này đã có sự phát triển nhanh trong thời gian qua.
Doanh số và d nợ bảo lãnh của các NHTM Nhà nớc liên tục tăng trởng
qua các năm. Đặc biệt, d Nợ Bảo lãnh tăng mạnh trong vài năm gần đây: Năm
2000 so với năm 1999 tăng 72%, tơng đơng 797,3 tỷ đồng: năm 2001 so với
năm 2000 tăng 69%, tơng đơng 13.131,8 tỷ đồng và năm 2002 tăng 29% so
với năm 2001, tơng ứng 9.310,9 tỷ đồng.
Trong những năm qua, hoạt động bảo lãnh của các NHTM bớc đầu đã
đạt đợc những kết quả tích cực sau đây:
Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM đã đợc quan tâm, phát
triển.
Đến nay, nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM đã phát triển hơn nhiều so
với những năm trớc và đã đợc các ngân hàng chú trọng phát triển thành nghiệp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vụ kinh doanh chính. Doanh số bảo lãnh ngày càng tăng với chất lợng bảo lãnh
đợc nâng cao. Đặc biệt, từ năm 2000 đến nay, số d bảo lãnh có sự tăng trởng
mạnh: Năm 2002 tăng gần 4 lần so với năm 1998 và các khoản trả nợ thay của
các NHTM đã giảm dần. Phí bảo lãnh trở thành nguồn thu nhập khôngnhỏ


của các ngân hàng.
Thứ hai, các NHTM đã bớc đầu chú ý tới việc đa dạng hoá các loại hình
bảo lãnh.
Từ năm 1997 trở về trớc, nghiệp vụ bảo lãnh chủ yếu tại các NHTM là
bảo lãnh mở L/C trả chậm và phát hành th bảo lãnh vay vốn nớc ngoài. Các
hình thức bảo lãnh khác nh bảo lãnh tham gia dự thầu, thực hiện hợp đồng,
hoàn trả tiền ứng trớc chiếm tỷ trọng rất thấp. Từ đầu năm 1998, các NHTM
đã quan tâm đến việc nâng cao chất lợng bảo lãnh mở L/C trả chậm nên nghiệp
vụ này đã có những bớc phát triển vững chắc so với những năm trớc. Cùng với
nghiệp vụ bảo lãnh mở L/C trả chậm, bảo lãnh vay vốn nớc ngoài, nghiệp vụ
bảo lãnh trong nớc cũng phát triển mạnh mẽ với chất lợng bảo lãnh ngày càng
cao. Tỷ trọng bảo lãnh trong nớc các năm gần đây chiếm khoảng 70% đến
80% trong tổng doanh số bảo lãnh: đặc biệt là bảo lãnh ngân hàng phục vụ lĩnh
vực xây dựng cơ bản. "Số d bảo lãnh ngân hàng trong đáu thầu thi công, xây
lắp nh bảo lãnh thực hiện hợp đông liên tục tăng. Bảo lãnh của ngân hàng đã
giúp doanh nghiệp tháo gỡ những vớng mắc trong quá trình triển khai thi công
dự án nh vốn ứng trớc triển khai công trình vốn thanh toán, thực hiện hợp đồng
xây lắp
Thứ ba, với sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh, trình độ nghiệp vụ của
các cán bộ ngân hàng tại các NHTM đã dần đợc nâng lên, từ đó, nâng uy tín
của NHTM Việt Nam trong khu vực cũng nh thế giới.
Các NHTM từ chỗ còn xa lạ và cha có kinh nghiệm đối với nghiệp vụ
bảo lãnh, đến nay, họ đã có những tiến bộ đáng kể về năng lực, trình độ nghiệp
vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ. Với kinh nghiệm ngày càng cao trong
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, các NHTM đã lựa chọn đợc những dự án khả thi
của các doanh nghiệp đầu t đúng hớng, biết giữ chữ tín trên thị trờng để bảo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lãnh, từ đó, giữ uy tín cho chính ngân hàng trong nhiều năm qua, các NHTM
đã thực hiện đúng các cam kết trong bảo lãnh, đã thanh toán kịp thời cho ngời
phụ hởng bảo lãnh trong những trờng hợp bảo lãnh vi phạm hợp đồng, đặc biệt

là trong quan hệ với các đối tác nớc ngoài. Có nhiều trờng hợp, các ngân hàng
nvới vai trò của mình đã thu xếp đợc với các đối tác nớc ngoài trong việc chấp
nhận gia hạn nợ cho một số dự án hoặc trả nợ trớc hạn, uy tín của các ngân
hàng không ngừng đợc tăng lên. Hiện nay, các NHTM có thể phát hành các th
bảo lãnh với trị giá lớn mà các doanh nghiệp ngân hàng nớc ngoài không đòi
hỏi bất kỳ sự xác nhận nào khác.
Tuy nhiên, hoạt động bảo lãnh ngân hàng của các NHTM Việt Nam còn
bộc lộ một số vấn đề cần sớm đợc khắc phục:
Thứ nhất, nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM cha đáp ứng đợc nhu cầu
của các doanh nghiệp trong nềnn kinh tế.
Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp có nh cầu bảo lãnh, nhng khi xin
bảo lãnh ở các NHTM thì lại gặp những vớng mắc không nhỏ về thủ tục bảo
lãnh nh: Hồ sơ bảo lãnh, tài sản thế chấp, ký quỹ, kể cả trờng hợp khách
hàng có thể ký quỹ 100% giá trị bảo lãnh nhng thủ tục bảo lãnh vẫn khá phức
tạp khiến cho không ít doanh nghiệp mất đi cơ hội kinh doanh.
Thứ hai, hình thức bảo lãnh của các NHTM Việt Nam còn đơn điệu.
Tuy các NHTM Việt Nam đã chú ý tới việc đa dạng hoá các hình thức
bảo lãnh, nhng hình thức bảo lãnh còn đơn điệu. Các hình thức bảo lãnh nh bảo
lãnh cho các khoản thuế (VAT, thế môn bài, thuế thu nhập, thuế - xuất nhập
khẩu, các khoản thuế trong thời gian có khiếu nại, các loại tiền ký quỹ cho toà
án); bảo lãnh đối ứng trong phơng thức bảo lãnh gián tiếp vẫn cha đợc thực
hiện ở các NHTM Việt Nam.
Thứ ba, cơ cấu bảo lãnh cha hợp lý.
Các NHTM chủ yếu tập trung bảo lãnh cho khu vực kinh tế Nhà nớc.
Mặc dù năm 2002, tỷ trọng về số d bảo lãnh cảu các NHTM Nhà nớc đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng gần 5 lần so với năm 1998, song vẫn
chỉ chiếm 17%, nh vậy hơn 80% vẫn là số d bảo lãnh cho các doanh nghiệp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thuộc khu vực kinh tế Nhà nớc. Mặt khác, năm 1998, hơn 70% số d bảo lãnh
của NHTM là loại bảo lãnh L/C trả chậm và chỉ có gần 10% bảo lãnh dự thầu

và bảo lãnh thực hiện hợp đồng, thì đến những năm gần đây, các NHTM lại
quá tập trung cho hai loại bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng
(chiếm hơn 60%).
Thứ t, chất lợng bảo lãnh ở nhiều NHTM cha cao, làm ảnh hởng đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thực trạng hoạt động bảo lãnh của các NHTM cho thấy, tại phần lớn
các ngân hàng đều phát sinh những khoản trả thay với tỷ lệ lớn. Bảo lãnh mở
L/C trả chậm những năm trớc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số bảo lãnh
của các ngân hàng. Việc nhập khẩu hàng hoá dới hình thức L/C trả chậm là
một trong những kênh huy động vốn nớc ngoài đem lại những lợi ích nhất định
cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong điều kiện nớc ta còn thiếu vốn.
Song nhiều trờng hợp, doanh nghiệp đã lạm dụng sự bảo lãnh của ngân hàng
để vay vốn nớc ngoài, nhập hàng trả chậm tràn lan dẫn đến tình trạng thua lỗ,
không có khả năng trả nợ và kết quả là ngân hàng bảo lãnh phải trả nợ thay. Ví
dụ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã thực hiện
bảo lãnh cho các khoản mua trả chậm nớc ngoài của các nhà máy đờng để
nhập máy móc thiết bị với tổng số tiền là 130.833.209 USD, tơng đơng 1.962,5
tỷ đồng. Phần lớn các nhà máy đờng không thanh toán đợc cho các đối tác ở n-
ớc ngoài do kết quả kinh doanh thu lỗ, dẫn đến ngân hàng bảo lãnh phải trả
thay và thực hiện cho vay nhận nợ bắt buộc đối với các nhà máy đờng với số
dự Nợ khá lớn (đến 31/12/2002, d Nợ cho vay bắt buộc là 782 tỷ đồng).
Những tồn tại trên theo chúng tôi xuất phát từ các nguyên nhân cơ bản sau:
- Môi trờng pháp lý cho hoạt động bảo lãnh cha thích ứng kịp thời với
nhu cầu phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Qua thực tiễn cho thấy, khung pháp lý cho hoạt động bảo lãnh cha đầy
đủ và đồng bộ. Khi nền kinh tế tiền tệ hoá cao, các giao dịch kinh tế ngày càng
đa dạng và phức tạp, thì không chỉ các tổ chức kinh tế mà kể cả các đơn vị sự
nghiệp, các hộ gia đình, t nhân đều có nhu cầu đợc bảo lãnh. Đồng thời, không
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chỉ những hoạt động sản xuất kinh doanh, mà cả nhu cầu tiêu dùng và các nhu

cầu khác nh văn hoá, giáo dục, y tế đều là những đối tợng để xem xét bảo
lãnh. Trong khi đó, các quy định trong quy chế bảo lãnh cha theo kịp sự vận
động này. Mặt khác, hiện cha có luật về bảo lãnh ngân hàng; các văn bản dới
quy luật định về nghiệp vụ bảo lãnh cảu ngân hàng cha đồng bộ. Điều này dẫn
đến thiếu sự giám sát, quản lý chặt chẽ và thống nhất của các cơ quan quản lý,
do vậy làm tăng khả năng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh. Đặc biệt, đối với
quan hệ bảo lãnh có liên quan đến đối tác nớc ngoài, các ngân hàng thờng phải
dẫn chiếu các điều lệ chung hay luật của nớc ngoài để áp dụng. Việc này đôi
khi gây ra nhiều thiệt thòi cho phía Việt Nam, đặc biệt là khi chúng ta cha hiểu
chính xác về thuật ngữ và các điều khoản mà họ đã quy định, mà đôi khi
những thông lệ này không có lợi cho bên Việt Nam.
- Năng lực của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ ở Việt
Nam nên nhều doanh nghiệp cha có sự hiểu biết thấu đáo về nghịêp vụ này,
cha nắm chắc đợc các quy định về bảo lãnh. Điều này đã gây không ít khó
khăn cho ngân hàng khi tiến hành bảo lãnh cho khách hàng.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng đợc đầy đủ các điều kiện
bảo lãnh của ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần xuất phát
từ năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp còn yếu và hiệu quả sản xuất
kinh doanh thấp. Phần lớn tài sản cố định là nhà xởng, máy móc thiết bị đã lạc
hậu, vốn lu động phục vụ trong sản xuất kinh doanh hầu hết là vốn vay ngân
hàng và chiếm dụng lẫn nhau. Hơn nữa, bản thân năng lực, trình độ, kinh
nghiệm quản lý của các cán bộ trong doanh nghiệp cũng cha đáp ứng đợc đòi
hỏi thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay. Chính vì vậy, nhu cầu
bảo lãnh của các doanh nghiệp hiện nay rất lớn, song việc đáp ứng nhu cầu đó
của các NHTM Việt Nam lại rất hạn chế.
- Bảo lãnh cho các chơng trình của Chính phủ còn mang tính cao cấp.
Trong điều kiện nớc ta, tín dụng chính sách nói chung và bảo lãnh nói
riêng rất cần thiết nhằm hỗ trợ các chơng trình mục tiêu kinh tế xã hội trọng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

điểm vì sự ổn định trớc mắt và phát triển lâu dài của đất nớc. Tuy nhiên, thực
hiện bảo lãnh cho các đối tợng u tiên cũng đặt ra vấn đề cần xem xét. Theo chỉ
định, các NHTM Việt Nam đã và đang thực hiện việc bảo lãnh cho các chơng
trình kinh tế quan trọng, cấp bách, ý nghĩa chính trị xã hội, song có nhiều ch-
ơng trình, dự án hiệu quả kinh tế rất thấp, gây rủi ro rất lớn cho các NHTM khi
đứng ra bảo lãnh.
- Công tác thẩm định bảo lãnh còn mang nặng tình hình thức.
Để đạt đợc mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động bảo lãnh thì
việc phân tích đánh giá toàn diện đối với khách hàng và các dự án là rất quan
trọng. Thực tế cho thấy, ở khá nhiều ngân hàng, việc thẩm định này còn sơ sài,
mang tính hình thức, đối phó. Nguyên nhân có thể do tác động của sự cạnh
tranh mà các NHTM bỏ qua một số bớc trong quy trình thẩm định, hoặc do
nôn nóng muốn mở rộng kinh doanh, hoặc do trình độ cán bộ cha đáp ứng đợc
yêu cầu của việc nghiên cứu, thẩm định. Không những thế, việc thẩm định lại
dựa trên cơ sở những nghiên cứu ở trạng thái tĩnh bằng các chỉ tiêu, các con số,
nhiều khi chỉ thụ động lắp các số liệu đó vào công thức để tính toán, xem xét.
- Công tác thanh tra, kiểm tra của NHNN đối với các NHTM về tình
hình bảo lãnh còn nhiều hạn chế. Nhiều vụ việc đã không đợc phát hiện kịp
thời và ngăn chặn có hiệu quả.
- Năng lực một số cán bộ cha đáp ứng đợc yêu cầu của nghiệp vụ bảo
lãnh.
Cán bộ làm nghiệp vụ bảo lãnh cha am hiểu nhiều về hoạt động bảo
lãnh, trong đó có cả lãnh đạo của một số chi nhánh NHTM, nên rất hạn chế
trong điều hành và phát triển hoạt động này. Khi thực hiện bảo lãnh, đặc biệt là
bảo lãnh vay vốn nớc ngoài, do các cán bộ thiếu trình độ về nghiệp vụ, ngoại
ngữ, luật quốc tế nên rất khó khăn khi thực hiện nghiệp vụ và t vấn cho
khách hàng.
2. Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
Tiếp tục hoàn thiện Quy chế Bảo lãnh ngân hàng.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Theo quy chế hiện hành, khách hàng đợc tổ chức tín dụng bảo lãnh bao
gồm: Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam:
Các tổ chức tín dụng đợc thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín
dụng: hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 Bộ
luật dân sự: các tổ chức kinh tế nớc ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác, liên
doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu t tại Việt Nam hoặc thực hiện các dự
án đầu t tại Việt Nam.
Trong nền kinh tế, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đều phát sinh nhu cầu về
vốn và đều là những đối tợng đợc tham gia vào hoạt động bảo lãnh. Mặt khác,
không chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh, mà cả nhu cầu tiêu dùng và các nhu
cầu khác nh văn hoá, giáo dục, y tế.. đều là những chủ thể để ngân hàng có thể
xem xét bảo lãnh. Do vậy, quy chế bảo lãnh hiện hành cần từng bớc bổ sung
đối tợng khách hàng đợc tổ chức tín dụng bảo lãnh, đảm bảo nhu cầu phát triển
ngày càng đa dạng của nghiệp vụ này. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tợng phải
đáp ứng yêu cầu quản lý, đảm bảo an toàn.
Các NHTM phải xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh
thích hợp trong từng thời kỳ
Để tránh tình trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh một cách tràn lan, dẫn
dến rủi ro nh một số NHTM đã gặp phải trong thời gian qua, mỗi NHTM phải
dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng cho mình một kế
hoạch (dài hạn và hàng năm) phát triển nghiệp vụ bảo lãnh mang tính khả thi.
Trong các kế hoạch này, cần xác định đợc quan điểm t tởng chủ đạo về ự phát
triển của nghiệp vụ bảo lãnh, xác định đợc hệ thống các mục tiêu; đồng thời,
xác định đợc phơng thức, giải pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Nâng cao chất lợng thẩm định khách hàng trớc khi bảo lãnh.
Trong nghiệp vụ bảo lãnh, mặc dù ngân hàng không phải trực tiếp bỏ
vốn của mình ra để giải ngân, nhng thực chất thì mức độ rủi ro trong nghiệp vụ
bảo lãnh của ngân hàng cũng tơng ứng với mức độ rủi ro trong hoạt động cho
vay. Chính vì vậy, để đảm bảo đa ra đợc một quyết định bảo lãnh đúng đắn,
các cán bộ thực hiện bảo lãnh (cán bộ tín dụng) phải tuân thủ quy trình và nội

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dung thẩm định phơng án sử dụng vốn của bên yêu cầu bảo lãnh theo đúng quy
trình thẩm định một món vay theo cơ chế tín dụng hiện hành. Trong thẩm
định, ngân hàng không chỉ căn cứ vào thông tin một chiều từ phía khách hàng
cung cấp, mà phải có đợc thông tin đa chiều để so sánh, đối chiếu để so sánh,
đối chiếu và phân tích, trên cơ sở đó mới ra quyết định bảo lãnh. Mọi khoản
bảo lãnh, trớc hết, phải đợc xem xét về khả năng thực hiện các hợp đồng kinh
tế, năng lực tài chính cũng nh kinh doanh của đối tợng đề nghị bảo lãnh, còn
các tài sản của đối tợng đề nghị bảo lãnh còn các tài sản bảo đảm chỉ là nguồn
thu dự phòng.
Tăng cờng quỹ ngoại tệ của các NHTM để sẵn sàng thanh toán với nớc
ngoài.
Trong giao dịch bảo lãnh mà ngời thụ hớng là cá nhân hay tổ chức kinh
tế nớc ngoài thì vấn đề uy tín có ý nghĩa quan trọng. Trong trờng hợp ngân
hàng phải thanh toán thay cho ngời đợc bảo lãnh, thì với không ít ngân hàng,
việc thu xếp đủ nguồn vốn ngoại tệ để thanh toán là một vấn đề nan giải nếu
nh các ngân hàng không dự tính ngay từ lúc phát hành bảo lãnh, chính vì vậy,
các NHTM Việt Nam phải đặc biệt quan tâm tới việc tạo lập nguồn ngoại tệ
sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ với đối tác nớc ngoài.
Tăng cờng quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng (trong và ngoài nớc) để
đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Theo Luật các tổ chức tín dụng và Quýêt định 283/2000 QĐ - NHNN 14
của Thống đốc NHNN đã quy định, tổng số d bảo lãnh cho một khách hàng
không vợt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy, việc thực hiện bảo lãnh
có giá trị lớn rất khó khăn với một ngân hàng đơn lẻ. Đồng bảo lãnh là một
giải pháp vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các dự án lớn, khi mà khả
năng về vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho ngân hàng khác cũng tham
gia, qua đó, sẽ có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh, khả thi để hỗ trợ giữa
các ngân hàng.
Để thực hiện đợc điều này mỗi NHTM cần phải đặt ra cho mình một

chiến lợc về hợp tác phát triển, cụ thể nh sau:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Với các chi nhánh trong cùng một hệ thống: Theo nguyên tắc cạnh
tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh của mỗi
ngân hàng để tham gia đồng bảo lãnh đối với các dự án lớn vợt khả năng của
một ngân hàng.
Bên cạnh việc thắt chặt mối quan hệ giữa các ngân hàng trong nớc, hệ
thống NHTM Việt Nam cũng cần phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác
với NHTM các nớc trên thế giới, mở rộng giao dịch bảo lãnh ra ngoài biên
giới, đáp ứng nhu cầu mở rộng thơng mại của các doanh nghiệp Việt Nam trên
thị trờng quốc tế.
Tăng cờng kiểm tra, giám sát quản lý các hợp đồng bảo lãnh
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp là một nhiệm vụ
quan trọng không thể thiếu đợc trong nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Tuy
nhiên, đối với hoạt động bảo lãnh, quy trình này thờng bị buông lỏng. Để tránh
rủi ro xảy ra khi khách hàng không thực hiện hay thực hiện sai các hợp đồng
kinh tế, thì sau khi chấp nhận và phát hành th bảo lãnh, ngân hàng cần duy trì
việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình hoạt động và năng lực tài chính
của doanh nghiệp đợc bảo lãnh, thông qua quá trình kiểm tra, giám sát, ngân
hàng cũng có thể t vấn cho khách hàng các biện pháp thực hiện có hiệu quả
hợp đồng kinh tế, đồng thời giải quyết kịp thời những khó khăn phát sinh.
Giải quyết tốt các khoản nợ đã thay cho khách hàng tại các NHTM
Nợ tồn đọng tại các ngân hàng hiện đang là vấn đề nan giải, ảnh hởng
đến tình hình tài chính của các ngân hàng. Nợ quá hạn của bảo lãnh, đặc biệt
là các khoản bảo lãnh mở L/C trả chậm đã làm trầm trọng hơn nợ quá hạn của
các ngân hàng. Xử lý nợ quá hạn đợc coi là nội dung quan trọng để thực hiện
chiến lợc cơ cấu lại và tăng cờng năng lực tài chính cho các NHTM.
Để thực hiện tốt vấn đề này, các ngân hàng cùng khách hàng cùng
khách hàng cần kiểm tra, xác định lại từng khoản nợ và đề ra biện pháp xử lý
cụ thể trên nguyên tắc hai bên cùng thoả thuận về việc xếmt thời hạn nợ, lãi

suất, xử lý tài sản đảm bảo, chuyển nợ thành cổ phần của các ngân hàng tại các
doanh nghiệp, cho vay tiếp tục để phục hồi sản xuất tạo nguồn trả nợ. Đối với

×