Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Khái quát về nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.63 KB, 30 trang )

K/v Phitài chính
Hộgia đình
Chính phủ
Khu vực Tài chính
Tiết kiệm Đầu tư
Chi tiêu
Thuế-Trợ cấp tr
Thuế-Trợ cấp
Chi tiêu
Lao động& đất đai
Tiền lương, lợi nhuận & địa tô
Hàng hoá & dịch vụ
Khái quát về nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
Nền kinh tế là một tổng thể các hoạt động tạo ra của cải, phân phối, tiêu
dùng trong một cộng đồng xã hội. Nhìn chung, mỗi nền kinh tế đều bao gồm
bốn thành phần: Chính phủ, Khu vực tài chính, Khu vực phi tài chính và Các hộ
gia đình. Trong đó, khu vực tài chính đóng vai trò quyết định trong việc biến
tiết kiệm của hộ gia đình thành đầu tư của khu vực phi tài chính, và do đó, tác
động tới tăng trưởng kinh tế dài hạn.
Sơ đồ 1.1: Hệ thống kinh tế
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và của hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt nam đã định nghĩa : “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền
tệ mà hoạt chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay , thực hiện nghĩa vụ chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán.”
Sau đây là các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại:


 Huy động vốn:
Tiền gửi luôn là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Lịch sử
cho thấy, NHTM được hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu cất trữ hộ
tiền của những người giàu có. Dần dần, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ huy
động vốn thông qua các hoạt động chủ yếu như: huy động tiền gửi gồm có tiền
gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kì hạn của doanh
nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi của các ngân hàng khác, ngân hàng cũng
huy động vốn thông qua huy động tiền vay gồm có tiền vay Ngân hàng nhà
nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường vốn...
 Nghiệp vụ tín dụng:
Song song với nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng không những
mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng tài
trợ cho hoạt động chi tiêu của doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan Chính phủ,
thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại cung
cấp các hình thức tín dụng đa dạng từ cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn cho
đến cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án, bảo lãnh, leasing (thuê mua). Nghiệp vụ
huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng đã giúp ngân hàng thực hiện được chức
năng trung gian tài chính, đáp ứng nhu cầu luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
 Nghiệp vụ thanh toán:
Nghiệp vụ thanh toán là nghiệp vụ đặc trưng phân biệt ngân hàng với các
trung gian tài chính khác. Thanh toán không dùng tiền mặt làm tăng khả năng
tạo tiền của các NHTM, đồng thời góp phần làm cho hoạt động thanh toán trong
nền kinh tế diễn ra một cách nhanh chóng hơn, tiện lợi hơn, an toàn hơn và với
chi phí thấp hơn. Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt gồm có séc, uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, L/C (Letter of credit), hối phiếu, tín dụng chứng từ...
Ngoài những nghiệp vụ truyền thống kể trên, ngân hàng hiện đại ngày nay
đang mở rộng phạm vi hoạt động của mình sang các lĩnh vực như kinh doanh
ngoại tệ, quản lý ngân quỹ, uỷ thác đầu tư và môi giới chứng khoán…
Nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hình thức cấp tín dụng, tuy nhiên nó
có những đặc điểm và tính chất riêng biệt. Bảo lãnh được coi là một phương

thức tài trợ đặc biệt dựa trên khả năng tài chính và uy tín của NHTM xuất phát
từ nhu cầu đảm bảo sự tin cậy trong kinh tế. Sự phát triển của hoạt động bảo
lãnh là một tất yếu gắn liền với sự phức tạp và đa dạng hoá của các quan hệ
kinh tế. Bởi vậy, ngày nay bảo lãnh là lĩnh vực đầy tiềm năng mà bất kỳ một
ngân hàng hiện đại nào cũng muốn hướng tới. Mở rộng các loại hình bảo lãnh,
phương thức bảo lãnh cũng nằm trong chiến lược đa dạng hoá nhằm giảm thiểu
rủi ro của ngân hàng. Vậy, thế nào là hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.2. Nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm bảo lãnh
Nền kinh tế càng phát triển, mối quan hệ giữa các thức thể của nó càng trở
nên đa dạng và phức tạp. Quan hệ kinh tế được xác lập trên cơ sở hợp đồng kinh
tế và lợi ích của các bên gắn chặt với việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng
đó. Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến
cam kết trong hợp đồng không được thực hiện. Để phòng tránh và hạn chế tổn
thất phát sinh do vi phạm hợp đồng, người ta sử dụng nhiều công cụ khác nhau
như quy định thêm các điều khoản pháp lý về giải quyết tranh chấp, sử dụng
phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ (L/C) hoặc tín dụng dự phòng
(Standby L/C)… Bảo lãnh là phương thức hạn chế tổn thất hiệu quả trên cơ sở
có sự đảm bảo bằng uy tín và khả năng tài chính của một tổ chức trung gian.
Các NHTM – với uy tín và tiềm lực tài chính mạnh mẽ, lại chiếm ưu thế trong
việc khai thác và phân tích thông tin khách hàng – là những nhà bảo lãnh đáng
tin cậy trong các hợp đồng kinh tế. Hoạt động bảo lãnh sơ khai đã có từ rất sớm
vào thời kỳ Trung cổ Hy lạp trong những giao dịch thương mại nhỏ lẻ. Nhưng
phải đến những năm 60 của thế kỷ XX, bảo lãnh thư mới được áp dụng ở thị
trường Hoa Kỳ. Sau đó, vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, bảo lãnh bắt đầu
được sử dụng trong các thương mại quốc tế. Vào thời gian này, các quốc gia
mau chóng thịnh vượng nhờ sản xuất dầu lửa ở Trung Đông, liên tục ký những
hợp đồng kinh tế lớn với các nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, dự án canh tân nông nghiệp, quốc phòng giá trị rất lớn của
các hợp đồng và thế mạnh về tài chính của các quốc gia Trung Đông đã cho

phép họ phải có một sự đảm bảo chắc chắn về phía đối tác khi tham gia vào các
thương vụ giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do ngân hàng của các nước
phương Tây phát hành đã thực sự đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an
toàn cho các quốc gia nhập khẩu. Kể từ đó tới nay, với khả năng cung ứng rộng
rãi trong các giao dịch, vị trí của bảo lãnh ngân hàng ngày càng được củng cố
một các chắc chắn.
Tại Việt Nam, hoạt động bảo lãnh được biết đến vào đầu những năm 90 -
khi nền kinh tế bắt đầu hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, phải đến 5
năm trở lại đây hoạt động bảo lãnh mới thực sự tăng trưởng về số lượng và chất
lượng, ngày càng là một trong những trọng tâm phát triển của các ngân hàng.
Bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tín dụng chữ ký – là hoạt động không
dùng đến vốn của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết đền bù của
ngân hàng đối với bên hưởng (bên được hưởng bảo lãnh) khi nhận được yêu cầu
(bên yêu cầu bảo lãnh) trong trường hợp bên yêu cầu bảo lãnh không thực hiện
được các nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, làm hại đến quyền lợi của bên kia.
Tại Việt Nam, Điều 2 Quy chế Bảo lãnh ngân hàng ban hành kem theo
Quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, bảo lãnh ngân hàng được định nghĩa như sau:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên
bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách
hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh ngân hàng
Ngân hàng(Bên bảo lãnh)
Bên thụ hưởng bảo lãnhBên được bảo lãnh
Hợp đồng cung cấp hàng hoá - dịch vụ
Hợp đồng bảo lãnh Cam kết bảo lãnh
Một nghiệp vụ bảo lãnh bao gồm ít nhất ba bên: bên bảo lãnh, bên được
bảo lãnh, bên thụ hưởng bảo lãnh:

Bên bảo lãnh: là bên phát hành bảo lãnh như Ngân hàng Nhà nước, ngân
hàng thương mại và các TCTD khác theo quy định của pháp luật. Sau đây, ta sẽ
chỉ nghiên cứu tới bảo lãnh do các NHTM phát hành.
Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu được bảo lãnh, có thể là các TCTD
khác, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh họp pháp tại Việt Nam, hộ kinh
doanh cá thể, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên
doanh và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện
các dự án đầu tư tại Việt nam.
Bện thụ hưởng bảo lãnh hay bên nhận bảo lãnh: là các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng cam kết bảo lãnh của bên bảo lãnh.
1.2.2. Đặc điểm nghiệp vụ bảo lãnh
Thứ nhất, trong một nghiệp vụ bảo lãnh, tồn tại mối quan hệ đa
phương.
Trong một nghiệp vụ bảo lãnh, tồn tại mối quan hệ giữa ba bên ngân hàng,
bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và
bên thụ hưởng bảo lãnh là mối quan thương mại – mối quan hệ gốc – cơ sở phát
sinh yêu cầu bảo lãnh. Do đó, hợp đồng bảo lãnh và cam kết bảo lãnh phải được
lập trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng thương mại. Quan hệ giữa ngân
hàng bảo lãnh và bên được bảo lãnh là mối quan hệ giữa bên cấp tín dụng và
khách hàng nhận tín dụng. Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh với bên nhận bảo
lãnh là mối quan hệ đảm bảo bằng uy tín và khả năng tài chính. Nghĩa vụ tài
chính của ngân hàng đối với bên nhận bảo lãnh chỉ phát sinh khi có sự vi phạm
hợp đồng thương mại của bên được bảo lãnh. Trong một số trường hợp, hoạt
động bảo lãnh ngân hàng còn phức tạp hơn với sự tham gia của một số bên
trung gian như ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận bảo lãnh…
Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập.
Một đặc tính hết sức quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh là tính độc lập
tương đối với hợp đồng chính. Mặc dù có quan hệ chặt chẽ với hợp đồng
thương mại ký kết giữa bên thụ hưởng và bên được bảo lãnh, cam kết bảo lãnh
có hiệu lực độc lập với các văn bản khác. Điều đó có nghĩa là, nghĩa vụ tài

chính của ngân hàng đối với bên thụ hưởng chỉ phát sinh khi hành động vi phạm
hợp đồng của bên được bảo lãnh là một trong các điều khoản của cam kết bảo
lãnh. Theo UCP 845 của ICC, “về bản chất bảo lãnh là giao dịch tách rời khỏi
hợp đồng cơ sở hay các điều kiện dự thầu mà bảo lãnh lấy làm căn cứ và bên
nhận bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng buộc bởi hợp đồng và các điều
kiện dự thầu đó, dù có trích tham chiếu đến chúng trong bảo lãnh.”
Tính độc lập của bảo lãnh phụ thuộc vào chính các điều kiện của bảo lãnh.
Nếu bảo lãnh quy định việc thanh toán là theo yêu cầu của người thụ hưởng thì
người thụ hưởng có quyền lập yêu cầu thanh toán mà không cần thiết phải
chứng minh việc vi phạm của người được bảo lãnh. Ngược lại, nếu cam kết bảo
lãnh yêu cầu kèm chứng từ thì người thụ hưởng phải xuất trình đầy đủ bộ chứng
từ theo quy định đến ngân hàng phát hành thì mới nhận được thanh toán.
Tính độc lập còn được thể hiện ở chỗ ngân hàng có quyền truy đòi khoản
tiền bảo lãnh đã trả thay cho khách hàng sau khi đã trả thay cho khách hàng
ngay sau khi ngân hàng thực hiện yêu cầu thanh toán từ bên nhận bảo lãnh mà
không hề bị ảnh hưởng bởi các điều khoản của hợp đồng gốc.
Thứ ba, bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng nhưng lại
được quản lý như một nghiệp vụ tín dụng.
Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Khi phát
hành một cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không hề bị thay
đổi. Do vậy, nghiệp vụ bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Tuy
nhiên, trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo các điều
khoản được nghi trong cam kết bảo lãnh, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn
vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Nếu
bên được bảo lãnh chưa hoàn trả ngay cho ngân hàng, ngân hàng sẽ cấp một
khoản tín dụng bắt buộc cho bên được bảo lãnh. Khi đó, nghiệp vụ bảo lãnh sẽ
tác động đến bảng cân đối tài sản của ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản và các chỉ tiêu tài chính của ngân hàng. Bởi vây, tuy là một hoạt động
ngoại bảng, bảo lãnh vẫn phải được giám sát và quản lý một cách chặt chẽ như
các hình thức cấp tín dụng khác.

So sánh bảo lãnh với thư tín dụng dự phòng và thư bồi hoàn
 Với thư tín dụng dự phòng (Standby L/C):
- Bảo lãnh ngân hàng và thư tín dụng dự phòng đều là phương tiện bảo
lãnh, không phải là phương tiện thanh toán, mục đích đều nhằm bảo đảm cho
một rủi ro nào đó có thể phát sinh như: rủi ro không thanh toán, rủi ro không
thực hiện hợp đồng, rủi ro không hoàn trả tiền ứng trước…
- Bảo lãnh ngân hàng và thư tín dụng dự phòng đều có tính chất chứng từ:
ngân hàng phát hành chỉ thanh toán dựa vào việc người thụ hưởng xuất trình
những chứng từ phù hợp với những điều khoản và điều kiện ghi trong hợp đồng
bảo lãnh hay tín dụng thư mà không xem xét đến hàng hoá hay những sự kiện
thực sự phát sinh liên quan đến quan hệ hợp đồng hay quan hệ giữa bên yêu cầu
mở và ngân hàng phát hành.
 Với thư bồi hoàn (Letter of Indenminity):
Thư bồi hoàn là một cam kết đơn phương của người phát hành nhằm bảo
đảm bồi thường những thiệt hại, mất mát xảy ra cho người được bồi hoàn.
- Giống nhau: cả hai đều là cam kết của một người phát hành chịu trách
nhiệm trả nợ thay cho một người khác gọi là người được bảo lãnh.
- Khác nhau: trách nhiệm thanh toán của người phát hành thư bồi hoàn là
trách nhiệm đầu tiên và không phụ thuộc vào việc vi phạm hợp đồng hay không
của người được bảo lãnh.Thư bồi hoàn là thư của người phát hành gửi người thụ
hưởng , còn bảo lãnh là cam kết của người phát hành bảo lãnh đảm bảo thực
hiện những nghĩa vụ đã cam kết của một bên thứ ba.
Người phát hành thư bồi hoàn thường có mối liên quan hay lợi ích trực tiếp
với người được bảo lãnh và người thụ hưởng.
1.2.3. Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh
 Vai trò của bảo lãnh đối với ngân hàng bảo lãnh
- Tăng doanh thu: bảo lãnh là một dịch vụ của NHTM đem lại thu nhập
thông qua phí bảo lãnh. Đó là hoa hồng phần trăm tính trên doanh số bảo lãnh.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn sử dụng khoản tiền ký quỹ bảo lãnh để cho vay thu
lãi coi như một nguồn vốn khá ổn định của ngân hàng.

- Đa dạng hoá dịch vụ: nghiệp vụ bảo lãnh với nhiều phương thức phát
hành và mục đích tài trợ khác nhau đã góp phần vào việc thực hiện chiến lược
đa dạng hoá nhằm giảm thiểu rủi ro của ngân hàng. Ngày nay xu hướng của các
NHTM hiện đại là tăng tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động dịch vụ trong tổng
thu nhập của ngân hàng.
- Tăng cường vị thế và uy tín, mở rộng quan hệ đại lý: cung cấp những
dịch vụ bảo lãnh đa dạng và chất lượng sẽ giúp các NHTM tăng cường uy tín
của mình trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế, tạo điều kiện mở rộng
mối quan hệ với các ngân hàng đại lý. Bên cạnh đó, phát triển hoạt động bảo
lãnh giúp NHTM mở rộng đối tượng khách hàng, không ngừng củng cố và xây
dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng.
 Vai trò của bảo lãnh đối với khách hàng
- Với bên được bảo lãnh:
Thực hiện chức năng tài trợ, bảo lãnh ngân hàng đã góp phần tháo gỡ khó
khăn về vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tái sản
xuất mở rộng.
Bảo lãnh ngân hàng có giá trị như một phương thức quảng bá hữu hiệu
trong việc tìm kiếm đối tác và tạo dựng uy tín trên thị trường.
- Với bên nhận bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò như một thước đo uy tín, từ đó giúp doanh
nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc lựa chọn đối tác.
Trong trường hợp doanh nghiệp bị vi phạm hợp đồng, bảo lãnh ngân hàng
đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất.
 Vai trò của bảo lãnh đối với nền kinh tế
- Đáp ứng nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế: với chức năng tài trợ, bảo
lãnh ngân hàng đóng vai trò như một tài sản đảm bảo hiệu quả và kinh tế hơn so
với cầm cố - thế chấp. Nó đặc biệt có ý nghĩa đối với những dự án cần thu hút
vốn từ các TCTD ở nước ngoài. Bên cạnh đó, bảo lãnh ngân hàng còn giúp
doanh nghiệp có được những khoản tín dụng thương mại quan trong phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh như các khoản tiền ứng trước…

- Thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng kinh tế: Với chức năng hạn chế thông
tin không cân xứng, đôn đốc thực hiện hợp đồng và hạn chế tổn thất phát sinh
do vi phạm hợp đồng, bảo lãnh góp phần thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng
kinh tế, đặc biệt là những giao dịch thương mại quốc tế.
- Định hướng phát triển kinh tế: giống với các hình thức cấp tín dụng
khác, chính sách phí bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh sẽ có tác dụng định hướng
phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn hay làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
chiến lược phát triển của quốc gia.
1.2.4. Phân loại nghiệp vụ bảo lãnh
1.2.4.1. Theo phương thức phát hành
Ngân hàng phát hành
Người thụ hưởng Người được bảo lãnh
Ngân hàng thông báo
 Bảo lãnh trực tiếp

Bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh
chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Người được bảo lãnh sẽ chịu
trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hành
bảo lãnh, người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Trường hợp người
thụ hưởng là người nước ngoài có thể có thêm ngân hàng ở cùng quốc gia với
người thụ hưởng bảo lãnh trong vai trò ngân hàng thông báo.
Sơ đồ 1.3:Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp

(3)
(2) (5) (4)
(1)
Các mối quan hệ trong sơ đồ:
(1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thoả thuận hợp đồng chính
(hợp đồng thương mại).

(2) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng mình phát hành bảo lãnh cho
người thụ hưởng.
(3) Ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh cho ngân hàng thông báo.
(4) Ngân hàng thông báo thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh của
ngân hàng phục vụ người mua.
(5) Trường hợp ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh trực tiếp đến
người thụ hưởng không thông qua ngân hàng thông báo.
Quan hệ giữa người được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh làm
phát sinh hợp đồng bảo lãnh, trong đó người được bảo lãnh chỉ thị cho ngân
hàng phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng với những điều khoản và điều
kiện đã quy định đồng thời cam kết bồi hoàn cho ngân hàng phát hành. Nếu
ngân hàng đồng ý phát hành thì nó có nhiệm vụ phát hành bảo lãnh và thanh
toán bảo lãnh theo những điều khoản và điều kiện bảo lãnh, ngân hàng phát
hành sau khi thanh toán cho người thụ hưởng có quyền yêu cầu người được bảo
lãnh bồi hoàn.
Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng thông báo là quan hệ đại lý
giữa các ngân hàng. Ngân hàng phát hành có thể phát hành trực tiếp bảo lãnh
cho người thụ hưởng mà không cần thông qua ngân hàng thông báo.
Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng: Mối quan hệ này
phát sinh khi ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh cam kết cho người thụ
hưởng, và được người thụ hưởng chấp nhận. Trách nhiệm của ngân hàng phát
hành là phải kiểm tra chứng từ và thực hiện thanh toán khi người thụ hưởng yêu
cầu, còn người thụ hưởng phải chuẩn bị những chứng từ phù hợp với các điều
khoản và điều kiện đã ghi trong hợp đồng bảo lãnh.
 Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là loại bảo lãnh trong đó
ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung
gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo
lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp
cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi

hoàn.Bảo lãnh gián tiếp thường được dùng trong trường hợp người thụ hưởng
yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh là ngân hàng mà người được bảo lãnh
không có quan hệ với ngân hàng của người thụ hưởng.
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng yêu cầu bảo lãnh
Ngân hàng thứ nhất
Ngân hàng thụ hưởng
Ngân hàng thông báo
Sơ đồ 1.4 : Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
(4)
(3)
(6)
(5)
(2)
(1)
(1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thoả thuận hợp đồng chính.
(2) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng
thứ nhất) phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng phát hành (ngân
hàng thứ hai).
(3) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ
hai.
(4) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng thông
qua ngân hàng thông báo.
(5) Ngân hàng thông báo thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh của
ngân hàng thứ hai.
(6) Ngân hàng thứ hai có thể phát hành bảo lãnh trực tiếp đến người thụ
hưởng, không thông qua ngân hàng thông báo.
Như vậy trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn bên tham gia: Ngân hàng
phát hành bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, người được bảo lãnh và người thụ hưởng

×