Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

chuyên đề lý luận về việc thành lập cơ chế bảo hiến tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.29 KB, 29 trang )

1
LÝ LUẬN VỀ VIỆC THÀNH LẬP CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
I. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cơ chế bảo hiến theo nghĩa hiện nay xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào thế kỉ XIX.
Và cho đến nay nó đã xuất hiện ở đa số các quốc gia dưới nhiều hình thức khác
nhau như Tòa án hiến pháp, Hội đồng bảo hiến….Ở Việt Nam, Cơ chế bảo
hiến đã ra đời trong bản Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục hoàn thiện trong các
bản hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001và gần đây
nhất là sửa đổi năm 2013. Tuy nhiên hiện nay ở nước ta chưa có một cơ quan
bảo hiến chuyên trách độc lập nào. Sự phát triển của các cơ chế bảo hiến trên
thế giới và những kết quả mà chúng mang lại cùng với mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở trong nước đòi hỏi chúng ta cần có cách
nhìn khác hơn về cơ chế bảo hiến. Vì vậy mà việc nghiên cứu về cơ chế bảo
hiến là rất cần thiết. Trong nội dung bài này, tôi xin được đề cập đến.
Cơ chế bảo hiến của nước ta hiện nay như thế nào? Cơ chế này có hiệu quả
không? Nếu không thì cơ chế nào sẽ phù hợp với nước ta?
Đã xuất hiện từ lâu và việc nghiên cứu này nhưng vẫn còn nhiều ý kiến tranh
cãi khác nhau.Đã xuất hiện trong dự thảo hiến pháp sửa đổi vài nhận được rất
nhiều ý kiến tán thành, tuy nhiên hiện nay bản hiến pháp đã được thông qua
nhưng vẫn không ghi nhận một cơ chế bảo hiến nào. Và với tôi một người đang
học tập, nghiên cứu về khoa học pháp lý cũng mong muốn góp ý kiến về vấn đề
này. Với đề tài lý luận về cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay tôi mong muốn sẽ
tìm hiểu sâu hơn về vấn đề và góp ý kiến trảo đổi về vấn đề này.
1
2
2. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “ lý luận cơ chế bảo hiến tại Việt Nam” để làm sang tỏ quá
trình hình thành, tồn tại và phát triển của cơ chế bảo hiến tại Việt Nam. Những
cơ chế bảo hiến tồn tại trên thế giới và các phương án bảo hiến mà Việt Nam có


thể lựa chọn. thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận để có cái nhìn
đúng hơn về sự cần thiết hay ko cần thiết lựa chọn cơ chế phù hợp đối với Việt
Nam.
Để thực hiện được mục đích trên, bài làm nghiên cứu các vấn đề sau:
- Tìm hiểu chung về những vấn đề lý luận như:
+ Tìm hiểu khái niệm bảo hiến, cơ chế bảo hiến
+ Tìm hiểu, phân tích một số mô hình bảo hiến trên thế giới
- Phân tích một số các vấn đề còn tồn tại trong cơ chế bảo hiến tại nước ta, và
sự cần thiết cần phải có một cơ chế bảo hiến
- Phương hướng xây dựng cơ chế bảo hiến tại Việt Nam trong thời kỳ hiện
nay
3. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Nghiên cứu đề tài “ lý luận về cơ chế bảo hiến tại Việt Nam” đóng góp vào
việc bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận của các quy định về cơ chế bảo
hiến trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện bản Hiến pháp của Việt Nam, đồng thời, tạo cơ sở pháp lý quan trọng,
kịp thời, cần thiết cho việc thành lập một cơ quan bảo hiến độc lập phù hợp
với tình hình hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, bài niên luận sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân
tích, tổng hợp, quy nạp để nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu của bài niên luận
2
3
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của niên
luận gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về cơ chế bảo hiến
Chương 2: Một số vấn đề trong cơ chế bảo hiến tại Việt Nam và các phướng
hướng

3
4
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN
I. Khái niệm về bảo hiến, cơ chế bảo hiến
1. Khái niệm về bảo hiến
a. Theo nghĩa hẹp: bảo hiến (bảo vệ hiến pháp) về ý nghĩa cốt lõi được hiểu là
kiểm soát tính hợp hiến (hợp với hiến pháp) của các đạo luật, là xem xét
những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến
pháp hay không. Theo cách hiểu này, bảo hiến không nhằm vào các văn bản
dưới luật. Sự bảo hiến chỉ nhằm vào những đạo luật do Quốc hội (Nghị viện)
đưa ra. Cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là bên có thẩm quyền Bảo
hiến.
b. Theo nghĩa rộng: bảo hiến được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các hành
vi của các định chế chính trị được quy định trong Hiến pháp (bao gồm cả
luật của Quốc hội và các văn bản dưới luật) . Thực tiễn của chế độ bảo hiến
ở các nước cho thấy, các định chế bảo hiến được sinh ra không chỉ đơn
thuần là kiểm soát tính hợp hiến của hành vi lập pháp. Toà án Hiến pháp ở
nhiều quốc gia châu Âu bên cạnh việc kiểm soát tính hợp hiến của các đạo
luật của Nghị viện còn thực hiện nhiều chức năng khác để bảo vệ nội dung
và tinh thần của Hiến pháp như giải quyết tranh chấp giữa lập pháp và hành
pháp, giữa liên bang và tiểu bang, giữa trung ương và địa phương; kiểm soát
tính hợp hiến trong hành vi của Tổng thống cũng như của các quan chức
trong bộ máy hành pháp
2. Cơ chế bảo hiến [1]:
a. Theo nghĩa hẹp: cơ chế bảo hiến là một thiết chế được tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc và quy định của pháp luật để thực hiện các biện pháp
4
5
nhằm bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm

Hiến pháp có thể xảy ra.
b. Theo nghĩa rộng: cơ chế bảo hiến là toàn bộ những yếu tố, phương tiện,
phương cách và biện pháp nhằm bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng,
được đảm bảo thực hiện trên thực tế, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có
thể xảy ra.
II. Một số cơ chế bảo hiến trên thế giới
Các cơ chế bảo hiến hiện nay ở trên thế giới hiện nay được thể hiện qua các mô
hình: mô hình Mỹ, mô hình châu Âu, mô hình hỗn hợp [2].
1. Mô hình Mỹ (mô hình phi tập trung)
Theo mô hình Mỹ cổ điển, hoạt động bảo hiến không tách rời khỏi hệ thống tòa
án nói chung. Tại đây không có dạng vụ việc đặc biệt về các vấn đề hiến định,
chúng có thể có mặt ở bất cứ vụ việc nào, cho dù đó là dân sự, hình sự hay hành
chính và được phán xét ở các tòa có thẩm quyền chung, theo một trình tự
chung. Hiến pháp và các luật về tổ chức tòa án chỉ xác định thẩm quyền chung,
chứ không xác định chủ quyền về các vụ việc hiến pháp. Theo mô hình Mỹ, bất
cứ tòa án liên bang nào cũng có thẩm quyền xem xét, phán quyết về các vấn đề
Hiến pháp liên bang.
Như vậy tại những nước theo mô hình này pháp luật không xác định rõ phạm vi
thẩm quyền của các tòa có thẩm quyền chung trong lĩnh vực hiến pháp. Phạm vi
đó phụ tuộc vào tính chất của vụ việc được xem xét và trong nhiều trường hợp
phụ thuộc vào sự suy xét của tòa. Tòa án có thể né tránh không xem xét các vấn
đề hiến pháp do các nguyên nhân khác nhau. Như vậy, các tòa án có thể bỏ qua
các vấn đề vi Hiến đang xảy ra, cơ chế này không đảm bảo được cho việc thực
hiện bảo vệ Hiến pháp trên mặt tổng thể.
5
6
Tại những nước theo mô hình của Mỹ nhưng được cải biên, trong các quy định
của pháp luật có những điều khoản về thẩm quyền giải quyết một số vấn đề của
hiến pháp: bảo vệ các quyền và tự do Hiến định, giám sát bầu cử, tư vấn các
vấn đề pháp lý,…ngoài ra tại các nhà nước Liên bang còn có bổ sung thêm vấn

đề tranh chấp giữa liên bang và chủ thể của các bang. Ở đây không nằm ngoài
phạm vi là một ngành luật, mà nở mô hình này còn bảo vệ tinh thần của Hiến
pháp.
Mô hình này có ưu điểm: là bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan đến
những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Mọi hành vi trong
bất cứ lĩnh vực nào cũng được xem xét dưới góc độ vi hiến, để xử lý. Nhờ đó
mà mô hình này dễ áp dụng rộng rãi và các nhà thực hiện việc bảo hiến gặp ít
khó khăn hơn trong việc áp dụng cơ chế để bảo vệ Hiến pháp.
Nhược điểm của mô hình này đó là phán quyết của Tòa án về tính hợp hiến chỉ
có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật được
Tòa án xác định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó không còn giá trị áp dụng và
chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các Tòa án cấp dưới, nếu là phán quyết của Tòa
án tối cao thì có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư pháp. Như vậy, Tòa án
không có thẩm quyền hủy bỏ đạo luật bị coi là trái với Hiến pháp và về hình
thức đạo luật đó vẫn còn hiệu lực nhưng trên thực tế sẽ không được Tòa án áp
dụng vì truyền thống án lệ. Ở Mỹ không có phân biệt án cho các loại toà và đều
do một thẩm phán xét xử.,đặc trưng của cơ chế tài phán hệ thống Toà án Mỹ: sự
kiểm tra mang tính phổ biến (đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật, các quy
định hành chính), mỗi toà án đều có chức năng kiểm tra, giám sát, phán quyết
về tính hợp hiến khi xem xét các vụ việc cụ thể, phán quyết của Toà án trong
những trường hợp đó khôg mang tính phổ biến đối với mọi trường hợp trước đó
mà chỉ có giá trị đối với các bên đương sự. Tức là quy phạm pháp luật trong
6
7
trường hợp này không bị bãi bỏ. Tuy nhiên, với truyền thống án lệ thì nó gần
như mất hiệu lực trên thực tế. Do đó, tạo ra một hệ thống các đạo luật tuy còn
thời hiệu áp dụng nhưng không thể áp dụng. Sự trùng lặp giữa án lệ, các đạo
luật làm cho tòa án cấp dưới khó áp dụng.
2. Mô hình châu Âu ( mô hình tập trung)
Thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến chuyên trách trong mô hình châu Âu giới

hạn trong việc chỉ xem xét những vụ việc liên quan đến Hiến pháp. Ở các nước
có tòa án hiến pháp, chỉ có tòa này mới có thẩm quyền phán xét về các vấn đề
Hiến pháp.
Tòa án hiến pháp cũng chỉ xem xét các vấn đề hiến pháp, mà không xem xét
các vấn đề thuộc các lĩnh vực pháp luật khác. Phán quyết của tòa án hiến pháp
có tính chất chung thẩm đối với các vấn đề hiến pháp
Ở các nước theo mô hình này, thẩm quyền của cơ quan bảo hiến có 2 cách tiếp
cận:
Ở phần lớn các nước, hiến pháp liệt kê đầy đủ, cụ thể những quyền hạn
của cơ quan bảo hiến và danh mục đó được lặp lại trong luật tương ứng
của các cơ quan bảo hiến. Như vậy không một đạo luật nào có thể thay
đổi thẩm quyền của cơ quan bảo hiến bằng cách mở rộng hay thu hẹp
danh mục về những quyền hạn đã được hiến pháp thiết lập. Nghĩa là việc
thay đổi thẩm quyền của các cơ quan bảo hiến ở các nước này chỉ có thể
thực hiện được bằng cách thay đổi những điều khoản thích hợp trong
hiến pháp.
Ở một số nước, hiến pháp không liệt kê danh mục các thẩm quyền của
cơ quan bảo hiến, chúng có thể được bổ sung hoặc thu hẹp bằng các đạo
luật.
7
8
Như vậy, thẩm quền giải quyết các tranh chấp về Hiến pháp theo thỉnh cầu trực
tiếp của các tổ chức chính trị, các Toà án thậm chí là của cá nhân. Quyết định
của Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến có giá trị bắt buộc.
Giám sát Hiến pháp ở châu Âu kết hợp việc giải quyết các vụ việc cụ thể đồng
thời giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề
nghị của các cơ quan có thẩm quyền.
3. Mô hình hỗn hợp
Đây là mô hình kết hợp cả hai phương thức xác định thẩm quyền của các cơ
quan bảo hiến của mô hình Mỹ và mô hình châu Âu. Theo mô hình này, thẩm

quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách (tòa án Hiến
pháp) và các Tòa án thuộc hệ thống tư pháp, trong đó thẩm quyền của Tòa án
Hiến pháp và Tòa án Tối cao đối với những vụ việc cụ thể được quy định ngay
trong Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một vụ việc cụ thể có quyền
xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo
luật được cho là không phù hợp.
Như vậy, các mô hình bảo hiến chủ yếu trên thế giới dù có khác nhau nhưng đều
có chung mục đích là bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Các mô
hình đều có những ưu khuyết điểm riêng. Nhưng đó đều là mô hình bảo hiến theo
cơ chế phán quyết của Toà án (cơ chế phán quyết). Còn mô hình bảo hiến của
chúng ta hiện nay là cơ chế giám sát, không phải là phán quyết. Ở nước ta chưa có
sự tồn tại độc lập của bất kỳ một cơ quan nào thực hiện chức năng trên nên việc
thành lập một cơ quan như vậy là vô vùng cần thiết.
8
9
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CƠ CHẾ BẢO HIẾN TẠI VIỆT NAM VÀ CÁC
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
I. Cơ chế bảo hiến – nhu cầu tất yếu
Như phần mở đầu đã có đề cập, một trong những đặc trưng chung nhất của Nhà
nước pháp quyền là tính tối cao của Hiến pháp, pháp luật, trước hết là vị trí tối
thượng của Hiến pháp. Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, đó là hai yếu tố không
thể tách rời nhau, không thể có cái này mà không có cái kia. “Lý thuyết về Hiến
pháp (Chủ nghĩa lập hiến) đồng thời cũng là lý thuyết về Nhà nước pháp quyền.
Nội dung, yêu cầu của Hiến pháp cũng chính là nội dung, yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền Nói cách khác, nội dung của Hiến pháp điều chỉnh những vấn đề
thuộc về nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền”[3]. Vì vậy, Hiến pháp, tính
tối thượng của Hiến pháp trở thành một đòi hỏi không thể tách rời Nhà nước pháp
quyền. Nhưng sự hiện diện của Hiến pháp chỉ là yếu tố cần chứ chưa phải là đủ của
một chế độ dân chủ, của một Nhà nước pháp quyền. Vì vậy, để chế độ Hiến

pháp được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế, cần phải có cơ chế hữu hiệu bảo vệ
và khôi phục trật tự hiến định”[4]. Để đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp thì
nó cần phải được bảo vệ bởi một cơ quan có tính độc lập, tính độc lập ở đây phải
được xem xét trên mặt tổng thể tức là không bị bất cứ một cơ quan, cá nhân nào có
thể can thiệp vào. Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp không thể bị xâm
phạm vì bất kỳ lí do gì. Do đó, chúng ta cần phải có một cơ chế bảo hiến - cơ chế
bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên cơ chế bảo
hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu. Nếu không có cơ chế bảo hiến hoặc có nhưng cơ
chế không hiệu quả thì sẽ dẫn đến không đảm bảo được tính tối thượng của Hiến
9
10
pháp trong hệ thống pháp luật như vậy đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không
được đảm bảo và chúng ta sẽ không có được Nhà nước pháp quyền.
Hơn nữa, ngày nay, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới và cả
Việt Nam đều công nhận rằng Hiến pháp là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất và
cơ bản của quốc gia. Bởi vì Hiến pháp xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất
và cao nhất ý chí của nhân dân, sự lựa chọn chính trị của nhân dân.Hiến
pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước do cơ quan đại diện có thẩm quyền thông
qua hoặc do nhân dân trực tiếp thông qua; trong đó quy định những vấn đề cơ bản,
quan trọng nhất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, tổ chức và họat động của các cơ quan Nhà nước then chốt, thể
hiện một cách tập nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của lực lượng cầm quyền
trong xã hội - ở nước ta, đó là toàn thể nhân dân vì nhân dân là chủ thể của quyền
lực Nhà nước. Ngoài ra hiến pháp cũng là một nguồn luật cơ bản của tất cả các đạo
luật được ban hành, tất cả các ngành luật khác đều phải dựa vào cơ sở các quy định
của Hiến pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm
sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Vì lẽ đó, Hiến pháp cần phải ở vị trí
tối thượng vì nó là ý chí phổ biến và đầy đủ nhất của nhân dân. Bảo vệ Hiến
pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí nhân dân.Chính vì điều này mà
chúng ta cần thiết phải có một cơ chế bảo hiến hoàn chỉnh vì có liên quan mật thiết

đến tính dân chủ của một Nhà nước, một chế độ, một xã hội và đến sự tồn vong
của một thể chế. Tính tối cao của Hiến pháp được quy định trong Hiến pháp nước
ta như sau Điều 119 Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung: “Hiến pháp là luật cơ bản
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi
văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến
pháp đều bị xử lý”. Tính tối cao (tối thượng) của Hiến pháp không phải chỉ được
khẳng định trên văn bản bằng những con chữ mà chúng ta cần phải có cơ chế đảm
bảo nó được thực hiện trong thực tế. Do đó, đòi hỏi tất yếu ở đây là cần có cơ chế
10
11
bảo vệ.
Không những vậy, cơ chế bảo hiến còn là một đòi hỏi, một nhu cầu mang tính
nguyên tắc. Đó chính là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ
nghĩa được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác hiến pháp và luật của
mọi chủ thể của các quan hệ pháp luật. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 sửa đổi bổ sung quy định tại điều 2 “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân”. Nguyên tắc này cũng được coi là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam.
Trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, cần triệt để tôn trọng, thi hành
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến
pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của công dân đã
được pháp luật quy định, ngăn chặn kịp thời và xử lí nhanh chóng, công minh mọi
hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp chế và tính hợp lí,
công bằng”[5]. Như vậy, nguyên tắc này đã khẳng định tính tối cao của Hiến pháp.
Đã là nguyên tắc thì phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Nhưng trên thực tế, nguyên
tác này bị vi phạm là khó tránh khỏi do nước ta chưa có một cơ quan bảo hiến nào.
Do đó, để ngăn ngừa và xử lí việc vi phạm, một nhu cầu tất yếu là phải có biện
pháp bảo vệ. Cơ chế bảo hiến đáp ứng được nhu cầu đó.

Trên đây là một vài lý do để có một cơ chế bảo hiến. Tôi cho rằng đó là những lý
do hết sức thuyết phục để có một cơ chế bảo hiến hữu hiệu ở nước ta. Và những lý
do đó cũng là những đòi hỏi khách quan, tất yếu về một cơ chế bảo hiến. Bản chất
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là lý do để
có cơ chế bảo hiến. Đến lượt mình, cơ chế bảo hiến trở thành đòi hỏi tất yếu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì nó đảm bảo đặc trưng của mô
11
12
hình Nhà nước này, đảm bảo được dân chủ.
II. Một số vấn đề trong cơ chế bảo hiến tại Việt Nam
Cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay được thể hiện rõ trong hiến pháp của nước
ta năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001, 2013). Đó là cơ chế giám sát tương
đối toàn diện. quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị
quyết của quốc hội. bên cạnh đó các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng
này. Cụ thể vấn đề này được thể hiện trong hiến pháp hiện hành thông qua các
quy định:
Điều 69: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Điều 70: " Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà
nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
…….
12

13
9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ
quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
…….
Điều 74 :”Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:

2- Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh;
3- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm
toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
4- Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản
đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
….
13
14
7- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng
nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân;
- Điều 75, 76 Hiến pháp cũng quy định Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong lĩnh vực mà
mình phụ trách.
Trong các chế định về Chính phủ, Chủ tịch nước, tòa án nhân, viện kiểm sát
nhân (quy định tại các điều 88, điều 91, điều 96, điều 102, điều 112 Hiến pháp
1992 sửa đổi bổ sung) cũng quy định Chính phủ, Chủ tịch nước, tòa án nhân,
viện kiểm sát nhân dân bảo vệ tính hợp hiến thông qua những nhiệm vụ và
quyền hạn của mình.
Vì vậy với cơ chế bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp (bảo hiến) ở nước ta thì
đến nay, chúng ta vẫn chưa có cơ quan độc lập và chuyên trách để thực hiện
chức năng này. Khi xem xét về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước
trong bộ máy nhà nước, thì có rất nhiều cơ quan có thẩm quyền tham gia vào
việc bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Trong các cơ quan đó, ủy ban Pháp luật
của Quốc hội tạm được xem là chuyên trách nhất trong vấn đề bảo hiến, vì cơ
quan này có chức năng, nhiệm vụ là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính
thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh trước
khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua[6]. Nhưng đây lại
không phải là nhiệm vụ, quyền hạn duy nhất của cơ quan này, mà cơ quan này
còn rất nhiều các nhiệm vụ, quyền hạn khác và hầu như, trong thời gian qua, ủy
ban Pháp luật buông xuôi chức năng này. Ngay cả khi, Uỷ ban Pháp luật của
14
15
Quốc hội làm tốt chức năng này, thì công việc của Uỷ ban vẫn thuộc giai đoạn
“tiền kiểm”, còn ở giai đoạn “hậu kiểm” thì cơ chế bảo hiến của nước ta hiện
nay lại được thực hiện thông qua cơ chế giám sát trong chức năng giám sát tối
cao của Quốc hội và các cơ quan thực hiện chức năng bảo hiến cũng thông qua
chức năng giám sát. Điều 1 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 về
chức năng giám sát tối cao của Quốc hội quy định: “Quốc hội thực hiện quyền

giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám
sát của ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”. Còn hoạt động giám sát của
từng cơ quan lại bao gồm cả hoạt động bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp thông
qua việc xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước
khác có trái với Hiến pháp hay không. Điều này được thể hiện qua các quy định
của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 về hoạt động giám sát của
các cơ quan này:
- Quốc hội có quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước,
ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội[7].
- Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội[8].
- Hội đồng dân tộc và ủy ban của Quốc hội có quyền xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
15
16
ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy
phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương
hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức
chính trị – xã hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, cơ chế bảo hiến của nước ta hiện nay
là cơ chế giám sát theo mô hình của Quốc hội vì Quốc hội giữ vai trò giám sát tối
cao việc tuân thủ theo Hiến pháp. Đây là mô hình này cũng bộc lộ nhiều khiếm
khuyết. Quá nhiều chủ thể, nhiều tầng nấc làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám

sát tối cao của Quốc hội đồng thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực
của các họat động đó. Một việc do quá nhiều chủ thể tham gia giám sát dẫn đến
tình trạng “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”, “cha chung không ai khóc”. Hơn
nữa, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát
tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật, vừa giám sát,
quyết định về việc một đạo luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp!
Điều này là không khách quan. Bên cạnh đó, Quốc hội còn có trách nhiệm giải
quyết việc tuân thủ hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư pháp).
Như vậy còn có sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp trong họat động
của Quốc hội. Trong khi đó các đại biểu Quốc hội là chuyên gia pháp luật không
nhiều, đa số đại biểu họat động theo chế độ kiêm nhiệm, Quốc hội làm việc theo
chế độ Hội nghị và quyết định theo đa số. Cơ cấu như vậy không đảm bảo đươc
hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên
thực tế, đã có các trường hợp văn bản Luật trái hiến pháp và các văn bản luật cũng
trái nhau nhưng không có cơ quan nào đứng ra “phán quyết”, hay hủy bỏ văn
bản pháp luật không hợp hiến, hợp pháp. Đó là minh chứng cho sự không hiệu quả
của cơ chế bảo hiến hiện nay. Sau đây là những bằng chứng cụ thể cho tình trạng
16
17
vi Hiến, vi pháp: Năm 2012, thống kê chưa đầy đủ của Bộ Tư pháp đã cho thấy
một bức tranh đáng lo ngại: các bộ, ngành, địa phương (bao gồm cả cấp tỉnh,
huyện, xã) đã tự kiểm tra trên 1.054.366 văn bản do mình ban hành, phát hiện
5.240 văn bản có dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp pháp của văn bản. Cơ
quan chức năng đã tiến hành xử lý 4.371/5.240 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật
(83%)[8].
Tình trạng phổ biến là thông tư “đá” nghị định. Cụ thể về thẩm quyền công chứng
như sau: Theo điểm c khoản 1 Điều 119 Nghị định 181 ngày 29-10-2004
của Chính phủ, đối với những hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa tổ
chức với cá nhân, các bên có quyền chọn lựa hoặc đến phòng công chứng để chứng
nhận hoặc đến UBND cấp xã (nơi có đất) để chứng thực. Quy định này vẫn được

giữ nguyên khi Chính phủ ban hành Nghị định 17 năm 2006 để sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 181. Cho đến ngày 13-6-2006, khi Bộ Tư pháp cùng Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 04 hướng dẫn thẩm
quyền công chứng, chứng thực các giao dịch đất thì mọi sự đã thay đổi. Cụ thể,
nếu bên có bất động sản là tổ chức trong nước thì hợp đồng phải được công chứng
tại phòng công chứng, không được đến UBND cấp xã. Thông tư này rõ ràng và dễ
áp dụng nhưng ngặt nỗi lại “đá” nghị định lại trở thành làm khổ dân. Dân đang
đứng “giữa hai con đường” không biết theo ai. Hồ sơ nộp đến cơ quan chức năng
thì vẫn nằm đấy do cơ quan không bíêt áp dụng văn bản nào và không dám chứng
vì sợ mình không có thẩm quyền! Tuy nhiên, vụ việc vẫn chưa có cơ quan chức
năng nào lên tiếng.
Gần đây là Thông tư 27/2012 của Bộ Công an quy định bắt buộc phải điền họ tên
cha mẹ lên CMND. Điều này đã gặp phải phản ứng khá dữ dội từ phía dư luận.
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đã vào cuộc xem xét và
“tuýt còi” vì trái với quy định trong Bộ luật Dân sự và Công ước Quốc tế về quyền
17
18
trẻ em mà Việt Nam đã ký kết tham gia. Thủ tướng Chính phủ sau đó đã yêu cầu
Bộ Công an tiến hành sửa đổi Thông tư 27 và Nghị định 170/2007 theo hướng bỏ
việc ghi họ tên cha mẹ trên CMND. Tuy nhiên cũng đã có hàng chục nghìn người
dân ở Hà Nội đang phải mang CMND này vì vừa được cấp trước khi quy định bị
chỉ trích.
Ngoài ra, Thông tư 04/2013 của Bộ GD-ĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
chế thi tốt nghiệp THPT đã quy định người có bằng chứng về vi phạm quy chế thi
phải có trách nhiệm gửi cho nơi tiếp nhận theo quy định; không được phát tán
thông tin cho người khác, dưới bất kỳ hình thức nào. Sau khi dư luận lên tiếng
phản ánh quy định này trái với luật Khiếu nại tố cáo và Cục Kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật có ý kiến, Bộ GD-ĐT đã phải ban hành ngay Thông tư 06 sửa đổi,
bổ sung Thông tư 04, bỏ quy định này.
Gần đây nhất là thông tư liên tịch của Bộ Công an, Bộ Công thương và Bộ Khoa

học - Công nghệ về quản lý, kinh doanh, sử dụng mũ bảo hiểm đã tính tới cả việc
xử phạt đối với hành vi đội mũ không đủ 3 lớp (thuộc thẩm quyền của nghị định do
Chính phủ ban hành ) bị dư luận lên án và phải sửa đổi ngay sau đó.
Ngoài ra còn có các trường hợp trái với luật của các Nghị định được ban hành, cụ
thể là Nghị định 71/2012 NĐ – CP về xử phạt hành vi không chuyển quyền sở hữu
phương tiện. Nghị định 71/CP đã không bảo đảm được yêu cầu của Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về tính khả thi trong nội dung phạt hành chính hành vi
không chuyển quyền sở hữu phương tiện. Bởi:
Thứ nhất, việc giao Cảnh sát giao thông (CSGT) có thẩm quyền xử phạt là không
đáp ứng được yêu cầu bảo đảm “sự phù hợp giữa quy định dự thảo với điều kiện
thực hiện”. Các nghị định trên đều giao CSGT có thẩm quyền xử phạt hành vi
không chuyển quyền sở hữu phương tiện giao thông. Muốn phạt được thì trong
18
19
hàng triệu trường hợp vi phạm giao thông mỗi ngày, CSGT phải xác định ai là
người chủ đích thực của phương tiện chưa chuyển quyền. Việc giao CSGT nhiệm
vụ “truy tìm” chủ xe thông qua việc giữ người điều khiển vi phạm vừa không đúng
với chức năng là lực lượng tuần tra, kiểm soát nhằm bảo đảm trật tự an toàn giao
thông vừa không khả thi vì số lượng cảnh sát giao thông không thể đáp ứng đủ .
Thứ hai, không thể yêu cầu công dân khi sử dụng phương tiện giao thông phải
mang theo giấy tờ chứng minh việc mình mượn, thuê phương tiện đó vì không hợp
pháp và không phù hợp với tập quán, văn hóa ứng xử của người Việt Nam.
Thứ ba, quyền sở hữu của chủ phương tiện giao thông có thể bị điều chỉnh bởi luật
dân sự và luật hành chính. Dưới góc độ dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về
đương sự và sự kiện pháp lý xuất hiện nghĩa vụ chứng minh là khi có tranh chấp
quyền sở hữu. Còn dưới góc độ hành chính, nếu xử phạt hành chính vì lý do không
chuyển quyền thì nghĩa vụ chứng minh thuộc người có thẩm quyền xử phạt. Như
vậy, việc bắt công dân chứng minh chiếc xe đang đi là mượn hay mua nhưng chưa
làm thủ tục vào thời điểm họ vi phạm luật về giao thông nhằm làm căn cứ xử phạt
vi phạm hành chính là không đúng pháp luật.

III. Các phương án về cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay
Dường như ở nước ta không còn tranh luận về sự cần thiết thành lập cơ chế bảo
hiến nữa, nhất là khi có những tuyên bố, quy định của Hiến pháp và pháp luật
về nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của hiến pháp,… Nhận thấy được yêu
cầu của thực tiễn cũng như tầm quan trọng của cơ chế bảo hiến hữu hiệu, tại
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam, báo cáo
chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (ngày 10/04/2006) đặt ra
19
20
yêu cầu: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám xác tính hợp hiến, hợp
pháp của các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền; “xây dựng
cơ chế phán quyết về những hành vi vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp”. Quan điểm của Đảng ta đã khẳng định chúng ta
phải có một cơ chế phán quyết. Đó là một định hướng tiến bộ và đúng đắn, phù
hợp yêu cầu thực tế. Đó là định hướng tài phán Hiến pháp. Đây là một định
hướng để xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thành lập cơ chế tài phán hiến pháp ở
nước ta, nhưng chung quy lại hiện nay, có 3 phương án khác nhau về cơ chế tài
phán hiến pháp ở nước ta[9]:
Phương án 1: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực thuộc Quốc
hội để giúp Quốc hội thực hiện việc bảo hiến đối với các văn bản pháp
luật do Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chính quyền địa phương ban hành. Thành
viên của ủy ban giám sát hiến pháp phải là các đại biểu Quốc hội được bầu theo
thủ tục thông thường. Ủy ban giám sát hiến pháp có trách nhiệm trình báo cáo
kết quả giám sát của mình để Quốc hội xem xét và quyết định.Với mô hình ủy
ban giám sát hiến pháp này, Quốc hội tiếp tục được khẳng định là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. Về thực chất ủy ban giám sát hiến pháp chỉ là một
cơ quan thuộc Quốc hội, một cơ cấu mang tính giúp việc chứ không thể trở
thành một cơ cấu có quyền quyết định về tính hợp hiến của các văn bản pháp

luật được giám sát. Đối tượng giám sát của ủy ban giám sát hiến pháp cũng chỉ
là các văn bản pháp luật từ pháp lệnh trở xuống. Như vậy các đạo luật vẫn nằm
ngoài sự giám sát tính hợp hiến của chúng. Do vậy hoạt động thực hiện quyền
lập pháp của Quốc hội về cơ bản vẫn không phải là đối tượng giám sát nhìn từ
yêu cầu đòi hỏi của nguyên tắc về tính tối cao và bất khả xâm phạm của hiến
20
21
pháp.
Phương án 2: Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao,
theo đó Tòa án nhân dân tối cao được trao quyền bảo vệ hiến pháp. Để thực
hiện được thẩm quyền bảo vệ hiến pháp, Tòa án nhân dân tối cao cần được quy
định lại về vị trí, chức năng trong bộ máy nhà nước, bỏ bớt một số chức năng
hiện hành để tập trung vào chức năng bảo vệ hiến pháp; cơ cấu lại số lượng,
chất lượng, thành phần và phương thức bổ nhiệm đặc biệt đối với các thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, để đảm bảo năng lực, trình độ, phẩm chất chính
trị và đạo đức nghề nghiệp của mỗi một thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm thiêng liêng là bảo vệ hiến
pháp trước mọi sự xâm hại có thể xảy ra.Dù cơ quan bảo hiến sẽ được thiết lập
theo mô hình nào chăng nữa, thì việc xuất hiện một cơ quan bảo hiến sẽ làm
thay đổi nội dung và phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc
hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở
nước ta.
Phương án 3: Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội, thực
hiện độc lập các hoạt động giám sát tính hợp hiến của các hoạt động nhà nước,
cả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Đây là một phương án khá phổ biến trong
nhiều mô hình nhà nước pháp quyền trên thế giới. Tính độc lập của cơ quan bảo
vệ hiến pháp (có thể là hội đồng bảo hiến,tòa án hiến pháp ) được đảm bảo bởi
tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, mô
hình cơ quan bảo hiến độc lập này còn phải gắn liền với vai trò giám sát việc

thực hiện quyền lực nhà nước từ phía Đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản VN.
Nếu phương án này được xây dựng thì khả năng độc lập và sức mạnh tài phán
của cơ quan bảo hiến này được đảm bảo trước hết bởi Đảng Cộng sản VN.Với
mô hình này, người đứng đầu cơ quan bảo hiến (có thể là tòa án hiến pháp) sẽ
21
22
do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, các thành viên của các cơ
quan này có thể do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hộiphê chuẩn theo
đề nghị của Chủ tịch nước.Cơ chế bảo hiến với mô hình cơ quan bảo hiến độc
lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó
vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ phải được nhận
thức lại.
Cơ chế đã có, nhưng để lựa chọn một mô hình thích hợp thì cần phải căn nhắc.
Để có thể lựa chọn mô hình, cần thiết phải học tập kinh nghiệm thế giới vì họ đi
trước ta đồng thời phải nhận thấy ưu khuyết điểm của từng mô hình để lựa chọn
mô hình phù hợp nhất.
Tuy nhiên, dù theo mô hình nào thì cũng phải triệt để quan điểm : Triệt để đảm
bảo bản chất Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối tránh chệch hướng xã hội
chủ nghĩa; Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo (thực tế cơ chế này do
Đảng ta khởi xướng); bảo đảm nguyên tắc độc lập, cơ quan thực hiện quyền tài
phán Hiến pháp phải có khả năng độc lập trong việc đưa ra phám quyết về tranh
chấp, vi phạm Hiến pháp.
Sau đây là những ưu khuyết điểm của các phương án trên[10]:
Về phương án 1, ưu điểm của phương án này là không làm cồng kềnh thêm bộ
máy nhà nước hiện hành, thành lập thêm Ủy ban giám sát Hiến pháp của Quốc
hội cũng tương tự như vừa qua Quốc hội quyết định thành lập thêm Ủy ban Tư
pháp và Ủy ban Tài chính - Ngân sách được tách ra từ Ủy ban pháp luật và Ủy
ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội. Thành lập cơ quan này không cần sửa
đổi Hiến pháp, chỉ sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Quốc hội vẫn giữ được vai
trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vẫn thực hiện chức năng giám sát

tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trong đó có giám sát tối cao
việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương án này là các đạo luật, nghị quyết của Quốc
22
23
hội ban hành vẫn chỉ do chính Quốc hội tự giám sát tính hợp hiến của chúng.
Trong trường hợp Quốc hội không bãi bỏ luật, nghị quyết của Quốc hội trái
với Hiến pháp, không có biện pháp pháp lý nào xử lý được. Cơ chế Quốc hội tự
kiểm tra, giám sát chính mình là cần thiết, nhưng thực tế đã chỉ ra rằng sự kiểm
tra, giám sát này không phải bao giờ cũng khách quan, cũng đúng. “Không ai tự
ban phát công lý cho chính mình” là điều cần suy nghĩ. Ngay như Quốc hội Mỹ,
quy trình ban hành một đạo luật rất chặt chẽ (một dự luật muốn được thông qua
phải được đa số tán thành của Hạ viện trước, rồi sau đó là đa số Thượng viện
tán thành (hoặc ngược lại), tiếp theo còn phải được Tổng thống kiểm tra, xem
xét lại xem có cần phủ quyết hay không, nếu không phủ quyết dự luật mới được
Tổng thống ban bố để thi hành). Vậy mà, trong khoảng 190 năm qua, Tòa án tối
cao của Mỹ đã ra phán quyết tuyên bố 122 đạo luậtcủa Quốc hội Mỹ (trong
tổng số hơn 35.000 đạo luật được Quốc hội này ban hành trong thời gian nói
trên) có toàn bộ hoặc một phần nội dung quy định vi phạm Hiến
pháp Mỹ. Cũng trong thời gian nói trên có gần 950 đạo luật của Quốc hội các
bang bị TATC Mỹ tuyên bố vi phạm Hiến pháp của Liên bang.
Còn nếu trao cho Ủy ban này quyền giám sát các đạo luât, nghị quyết của Quốc
hội, thì không tương xứng và khách quan khi đây chỉ là một cơ quan giúp việc
cho Quốc hội.
Vì vậy, có thể nói đây là phương án có tính chất nửa vời, nhưng là phương án
có lẽ dễ được nhiều người chấp nhận, vì nó không có sự thay đổi gì nhiều so với
hiện tại, phù hợp với cách nghĩ của một số người là "cần phải có lộ trình từng
bước".
Về phương án 2, Tòa án rõ ràng “có nghề”' nhưng lại vướng ở chỗ, TATC chỉ là
một nhánh của quyền lực. TATC giám sát, phán xét tính hợp hiến các đạo

luật của Quốc hội không phải dường như mâu thuẫn với quy định của Hiến
pháp hiện hành: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”, “Quốc hội
23
24
thực hiện quyền giám sát tối cao” (Điều 69 và Điều 70 của Hiến pháp sửa đổi)
như một số người e ngại. Vì chúng ta có thể sửa đổi những quy định này
của Hiến pháp hiện hành, mà theo tôi là để “phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” như Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ X đã đề ra, không thể trao cho TATC thẩm quyền này. Hơn nữa,
theo tôi, chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao
động và hành chính của TATC hiện nay và trong tương lai ở nước ta còn quá
tải, nên TATC của nước ta không thể chuyên tâm chăm lo lĩnh vực mới là giám
sát Hiến pháp và phán quyết các vi phạm Hiến pháp được. Đấy là chưa kể yêu
cầu về: tiêu chuẩn thẩm phán, số lượng thẩm phán, cách thức bổ nhiệm thẩm
phán, nhiệm kỳ của thẩm phán, thủ tục tố tụng của TATC (Tòa án tư pháp)
và Tòa án Hiến pháp nếu được thành lập ở nước ta sẽ là rất khác nhau.
Về phương án 3, Theo phương án này, Tòa án Hiến pháp sẽ là một thiết chế
hoàn toàn mới trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta, được thành lập ra để
chuyên thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Chánh án và các
Thẩm phán Tòa án Hiến pháp với một nhiệm kỳ duy nhất và dài (10 hay 15
năm và không được tái bổ nhiệm) có thể sẽ do Chủ tịch nước bổ nhiệm sau khi
được Quốc hội chuẩn y. Nhiệm kỳ Tòa án Hiến pháp khi phán quyết về các vi
phạm Hiến pháp (hay không vi phạm) trong hoạt động lập pháp, hành pháp và
tư pháp là theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo Hiến pháp chứ không phải
tuân theo pháp luật như Tòa án nhân dân các cấp khi xét xử các vụ án hình sự,
dân sự, kinh tế… Tính độc lập của cơ quan bảo vệ Hiến pháp đảm bảo tính cân
bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Thành lập Tòa án Hiến pháp để phán quyết các vi phạm hiến pháp trong hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp là phương án được áp dụng khá phổ biến

24
25
ở nhiều nước trên thế giới những năm gần đây, như trên đã nêu. Tuy nhiên, cơ
quan bảo hiến độc lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà
nước, trong đó vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ
phải được nhận thức lại.
Từ ba phương án nói trên, tôi ủng hộ phương án thành lập Tòa án Hiến
pháp độc lập. Vì hoạt động của Tòa án Hiến pháp nếu được thành lập sẽ bảo
đảm tính khách quan, độc lập, hoạt động chuyên trách, theo thủ tục tố tụng Hiến
pháp. Chỉ có cơ quan độc lập này mới có quyền “phán quyết về những vi
phạm Hiến pháp cả trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”như Đại
hội Đảng lần thứ X đã xác định[11].
A. KẾT LUẬN
Trên đây là một vài luận bàn của tôi về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay.
Tất nhiên, đó chỉ là những khía cạnh nhất định chứ chưa thể toàn diện, bao quát
được. Hơn nữa, với tri thức còn hạn hẹp việc bàn luận đó cũng chưa thật sự sâu
sắc. Tuy nhiên, những gì đã bàn có thể giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về cơ
chế bảo hiến của nước ta hiện nay cĩng như phương hướng trong tương lai. Cơ
chế bảo hiến nước ta hiện nay là mô hình giám sát bởi Quốc hội, Quốc
Hội giám sát tối cao, đồng thời các cơ quan khác cũng tham gia giám sát tạo
nên cơ chế giám sát đa chủ thể. Như đã phân tích, cơ chế này tỏ ra không hiệu
quả vì "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa", "cha chung không ai khóc". Và
chúng ta đang hướng đến cơ chế Tài phán Hiến pháp theo tinh thần của Đại hội
X. Hiện có 3 phương án là: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực
thuộc Quốc hội, Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao,
Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội. Mô hình đuợc ưu
tiên lựa chọn là theo phương án 3 vì nó phù hợp hơn cả.
25

×