Nguyễn Dữ
(Trích Truyền kì mạn lục)
BÀI GIẢNG NGỮ VĂN 9
Đền Vũ Điện, còn gọi là Đền Bà Vũ, miếu vợ chàng Trương, thuộc
thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam.
Bảng di tích văn hóa trước cổng.
Cổng đền
Một đoạn sông Hoàng Giang trước đền.
LẠI BÀI VIẾNG VŨ THỊ
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Lê Thánh Tông
Tiết 16,17: Chuyện người con gái Nam Xương
( Trích Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ)
I. Tìm hiểu chung:
1.Tác giả: Nguyễn Dữ
- Quê quán: Thanh Miện Hải Dương.
- Ông sống ở TK16 lúc chế độ phong kiến lâm vào tình trạng
loạn li suy yếu.
- Ông là người học rộng tài cao, sống ẩn dật thanh cao.
2.Tác phẩm:
-Là truyện thứ 16 /20 truyện của TKML được viết bằng chữ Hán.
- Truyện được tái tạo trên cơ sở truyện cổ tích : Vợ chàng
Trương.
Tiết 16,17: Chuyện người con gái Nam Xương
( Trích Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ)
I. Tìm hiểu chung:
II. Đọc ,tìm hiểu văn bản:
1. Đọc – Tóm tắt và tìm hiểu chú thích:
Tóm tắt văn bản
1. Vũ Thị Thiết là người con gái đẹp người đẹp nết, lấy chàng Trương
con nhà hào phú ít học.
2. Đang sum họp đầm ấm, xảy ra nạn binh đao, Trương Sinh phải
đăng lính, Vũ Nương ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi con nhỏ…
3. Giặc tan Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết
và đuổi vợ đi.
4. Vũ Nương thanh minh không được bèn gieo minh xuống sông
Hoàng Giang tự vẫn.
5. Sau khi Vũ Nương chết, Trương Sinh được con chỉ cái bóng trên
tường, chàng hiểu ra vợ bị oan.
6. Phan Lang gặp Vũ Nương ở dưới thuỷ cung, nàng gửi chiếc hoa
vàng và lời nhắn Trương Sinh.
7. Trương Sinh lập đàn giải oan, xong Vũ Nương chỉ hiện về trong
chốc lát, rồi biến mất.
Tiết 16,17: Chuyện người con gái Nam Xương
( Trích Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ)
I. Tìm hiểu chung:
II. Đọc ,tìm hiểu văn bản:
1. Đọc – Tóm tắt và tìm hiểu chú thích:
2. Kết cấu – Bố cục:
Bố cục : 3 phần
3. Phân tích:
3.1. Nhân vật Vũ Nương
• Trong cuộc sống vợ chồng
thường ngày
• Khi tiễn chồng đi lính
• Khi xa chồng
• Khi bị chồng nghi oan
• Khi được giải oan
Vũ Thị Thiết, người
con gái quê ở Nam Xương, tính đã
thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt
đẹp.
-> Là người phụ nữ đẹp người, đẹp
nết.
- Lời giới thiệu:
- Trong cuộc sống vợ chồng thường
ngày:
+ Giữ gìn khuôn phép.
+ Không từng để lúc nào vợ chồng phải
đến thất hoà.
-> Vũ Nương có cách cư xử đúng mực,
nhường nhịn, giữ gìn hạnh phúc gia
đình.
- Khi tiễn chồng đi lính:
+ Hành động: Rót chén rượu đầy mà rằng
+ Lời nói: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
đeo được ấn phong hầu, cánh hồng bay bổng”.
“Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo
được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc
quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút,
quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa
chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng.
Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa,
trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người
đất thú! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có cánh
hồng bay bổng”.
- Khi tiễn chồng đi lính:
+ Hành động: Rót chén rượu đầy mà rằng
+ Lời nói: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
đeo được ấn phong hầu, cánh hồng bay bổng”.
Nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu
mong chồng được bình an trở về; cảm thông trước
những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu
đựng, cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con; bày tỏ
nỗi khắc khoải nhớ nhung của người vợ trẻ.
Lời nói chân thành, dịu dàng, thiết tha, cảm
động, đằm thắm tình nghĩa vợ chồng.
- Khi xa chồng:
+ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được.
+ Khi mẹ chồng ốm: nàng hết sức thuốc
thang lễ bỏi thần phật và lấy lời ngon ngọt
khuyên lơn.
+ Khi mẹ chồng chết: nàng hết lời thương xót,
phàm việc ma chay tế lễ lo liệu như đối với
cha mẹ đẻ mình.
Lời trăng trối của bà mẹ chồng thể hiện sự ghi nhận
nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với
gia đình nhà chồng, niềm tin Vũ Nương có hạnh phúc
khi Trương Sinh trở về.
Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải
không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng
ăn miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, lòng tham
không cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền,
số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối,
việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa
xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được.
Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng
tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con,
cũng như con đã chẳng phụ mẹ.
- Khi xa chồng:
+ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,
thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.
+ Khi mẹ chồng ốm: nàng hết sức thuốc thang lễ bỏi thần
phật và lấy lời ngon ngọt, khôn khéo khuyên lơn.
+ Khi mẹ chồng chết: nàng hết lời thương xút, phàm việc
ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.
-> Vũ Nương là người vợ thuỷ chung,
yêu chồng tha thiết; là người mẹ hiền,
người con dâu chu đáo, hiếu thảo.
Tiết 16,17: Chuyện người con gái Nam Xương
( Trích Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ)
I. Tìm hiểu chung:
II. Đọc, tìm hiểu văn bản:
1. Đọc – Tóm tắt và tìm hiểu chú thích:
2. Kết cấu –Bố cục:
3. Phân tích:
3.1. Nhân vật Vũ Nương:
Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, yêu chồng
tha thiết; là người mẹ hiền, người con dâu hiếu
thảo.
Nguyễn Dữ
(Trích Truyền kì mạn lục)
Tiết 16, 17: Chuyện người con gái Nam Xương
( Trích Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ)
I. Tìm hiểu chung:
II. Đọc, tìm hiểu văn bản:
1. Đọc – Tóm tắt và tìm hiểu chú thích:
2. Kết cấu –Bố cục:
3. Phân tích:
3.1. Nhân vật Vũ Nương.
3.2. Nhân vật Trương Sinh và hình tượng cái
bóng:
* Tình huống truyện:
- Trương Sinh trở về: mẹ mất, con còn
nhỏ không nhận cha.
- Nghe lời con trẻ, Trương Sinh nghi
ngờ vợ thất tiết.
-> Tình huống truyện bất ngờ, gay
cấn.
-> Làm cho nỗi oan của Vũ Nương
không thể nào thanh minh được.
Lời thoại 1:
- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu.
Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động
việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô
son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường
hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như
lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ.
Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Nàng phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình,
cầu xin chồng đừng nghi oan.