Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luận văn ThS. Luật Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.36 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LƢU THU HÀ




GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HÀNH VI GÓP VỐN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI – 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LƢU THU HÀ



GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HÀNH VI GÓP VỐN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 0107





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Ngô Huy Cƣơng





HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả


Lƣu Thu Hà
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 7
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 8
4. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Bố cục của Luận văn 10
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU
QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 11
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty 11
1.1.1. Khái quát chung về công ty 11
1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn 14
1.1.3. Các hình thức góp vốn 20
1.1.4. Định giá tài sản góp vốn 38
1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn 41
1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY50
2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả
pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 50

2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
công ty 50
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty 52
2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất 55
2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty 57
2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty 57
2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp
vốn thành lập công ty 59
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA
HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 63
3.1. Các định hướng hoàn thiện 63
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu
quả của hành vi góp vốn thành lập công ty 69
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77

6

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau sự
kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta có
sự phát triển đáng kể. Khu vực kinh tế nhà nước đang được cải tổ mạnh mẽ để
vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn, linh động và làm quen dần với cạnh tranh quốc tế. Số

lượng các công ty được thành lập ngày càng nhiều đáp ứng các nhu cầu của
xã hội, tạo ra nhiều việc làm và tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Đứng trước tình hình đó, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đang được đặt
ra, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Doanh nghiệp 2005.
Trong việc thành lập công ty, vốn góp là một vấn đề pháp lý then chốt.
Thực tế cho thấy kinh doanh bao giờ cũng gắn với vốn. Vốn là yếu tố đầu
tiên, có vai trò quyết định, có nghĩa là không có vốn thì không thể tiến hành
sản xuất kinh doanh. Một công ty chỉ có thể được thành lập và đi vào hoạt
động khi có sự đóng góp tài sản của thành viên hoặc các thành viên của nó để
tạo thành vốn của công ty. Việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp, các
mô hình khác nhau tạo nên qui chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn.
Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những thành
công nhất định trong việc tạo sự đa dạng các hình thức kinh doanh nhằm huy
động các nguồn vốn. Tuy nhiên, đứng trước các cơ hội và thách thức mới,
Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, thiếu sót cần chỉnh
sửa để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc góp vốn thành lập
công ty, mặt khác tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
Nhà nước về các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp.

7
Góp vốn còn là một vấn đề pháp lý cơ bản để xác định quyền lợi của
các thành viên công ty. Nó không những đáp ứng các quyền lợi tương ứng của
họ, mà còn tạo ra sự tin tưởng và an toàn liên quan tới đầu tư và kinh doanh.
Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của góp vốn và các hậu quả của nó
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các vấn đề pháp lý, tác giả lựa
chọn “Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật
Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Góp vốn là một vấn đề kinh tế và pháp lý gắn liền với hoạt động sản

xuất kinh doanh. Do đó nó không phải là một vấn đề mới đối với khoa học
pháp lý, cũng như khoa học kinh tế. Thế nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể,
góp vốn vẫn cần phải được nghiên cứu trong nhiều phương diện. Trên thế giới
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, nhất là trong
khoa học pháp lý. Tuy nhiên hiếm khi thấy có những nghiên cứu cụ thể cho
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trong một hệ thống pháp luật đang
cần hoàn thiện bởi sự bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo một cách đáng ngại.
Có một số công trình tiêu biểu trên thế giới liên quan tới đề tài Luận văn như
sau: (1) Peter Fearns, Business Studies, Hodder & Stoughton, London-
Sydney- Auckland, 1992; (2) Robert W. Hamilton, The Law of Corporations,
West Publishing Co., 1991; (3) Harry G. Henn & John R. Alexander, Laws of
Corporations and Other Business Enterprises, Third Edition, St. Paul, Minn.
West Publishing Co., 1983; (4) Friedrich Kuebler, Juergen Simon, Mấy vấn
đề pháp luật kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, 1992; (5) Francis
Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan tới đề tài Luận
văn. Đó là các công trình hết sức có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên

8
việc gắn chặt góp vốn với vấn đề pháp lý trong giai đoạn hiện nay vẫn còn
những vấn đề pháp lý nhỏ để Luận văn có thể khai thác. Một số công trình
nghiên cứu trong nước tiêu biểu phải kể đến (nhưng không thể kể hết), bao
gồm: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và
Thương nhân, Nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2013; (2) Lê Tài Triển,
Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải,
Quyển I vàg Quyển II, Sài Gòn, 1972; (3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình luật thương mại- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; (4) Viện
quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Công ti Vision & Associates, và Tổ

chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp 2005; (5)
Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1997; (6) Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật kinh tế- Tập 1:
Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2006; (7) Dự án VIE/94/003, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh
vực khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam; (8) Bùi Ngọc Cường, Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước
ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; (9) Nguyễn
Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo
Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, 2009: (10)
Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Biên
Hòa, 2006.
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu này, tác
giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới hành vi góp vốn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn có mục tiêu chủ yếu là làm rõ về mặt lý luận những vấn đề
pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn thành lập công ty và kiến nghị hoàn
thiện chế định pháp luật này.
Luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:

9
+ Nghiên cứu lý luận về góp vốn và các hậu quả pháp lý phát sinh từ
hành vi góp vốn;
+ Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp
lý của nó;
+ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Vì góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn là một lĩnh vực pháp lý
rộng. Do đó Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận pháp luật về góp vốn thành lập công ty, tức là các giao dịch về
góp vốn thành lập công ty mà không nghiên cứu góp vốn vào các lĩnh vực

khác, và cũng không phân tích việc góp vốn thành lập công ty dưới giác độ
kinh tế, văn hóa, xã hội. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu việc thi hành
pháp luật trong lĩnh vực này mà chỉ phân tích các qui phạm hiện hành thông
qua lý luận.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận án sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích
quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật.

10
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật để chỉ ra ưu
nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành
với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu…


5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội
dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn và hệ quả pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty.
Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của
hành vi góp vốn thành lập công ty.
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về góp
vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công

11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY

1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của
hành vi góp vốn thành lập công ty
1.1.1. Khái quát chung về công ty
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty
Công ty là loại một loại thương nhân xuất hiện trong nền kinh tế thị
trường. Theo quan niệm truyền thống, công ty được hiểu là sự liên kết của hai
hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành
một hoặc một số hành vi thương mại nhất định theo mục tiêu chung đã được
lựa chọn. Như vậy công ty là một loại thương nhân chuyên tiến hành một
hoặc một số hành vi thương mại nhất định và coi các hành vi đó là nghề
nghiệp của mình. Lưu ý rằng hành vi hoặc các hành vi này được xác định
trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà pháp luật Việt Nam hiện nay
gọi là ngành nghề kinh doanh. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, thương nhân
là chủ thể thông thường của luật thương mại và được chia thành thương nhân

thể nhân (cá nhân kinh doanh – ví dụ như doanh nghiệp tư nhân) và thương
nhân pháp nhân (có nghĩa là các công ty) [22, tr. 69]. Vậy trước hết công ty là
thương nhân pháp nhân.
Thương nhân, theo PGS. TS. Ngô Huy Cương có hai yếu tố xác định:
Thứ nhất, chuyên tiến hành các hành vi thương mại; và thứ hai, lấy hành vi
thương mại làm nghề nghiệp thường xuyên của mình, mà trong đó yếu tố thứ
nhất được xem là điều kiện cần, và yếu tố thứ hai được xem là điều kiện đủ.
Từ các phân tích ở trên ta có thể hiểu: Công ty là thương nhân pháp nhân và
công ty có các đặc điểm như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Công ty là pháp nhân.

12
Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy công ty là một thực thể tách
biệt với thành viên của nó, có nghĩa người thành lập công ty có mục đích tạo
ra một thực thể tách biệt với mình, và thực thể này có khả năng hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ riêng biệt so với quyền và nghĩa vụ của người thành lập
nên nó. Vì vậy công ty mang đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân. Trong
các dấu hiệu này, có một dấu hiệu quan trọng liên hệ trực tiếp với đề tài Luận
văn là công ty có tài sản riêng, khác với tài sản của chủ sở hữu hoặc các chủ
sở hữu của nó. Tài sản này trước hết được tạo lập bởi hành vi góp vốn của chủ
sở hữu hoặc các chủ sở hữu của công ty.
Như vậy công ty là chủ thể của pháp luật. Các mối quan hệ bên trong
cũng như bên ngoài của công ty được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn pháp
luật qui định công ty có quyền sở hữu và sử dụng vốn đúng mục đích; phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của mình; và tự danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật… Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa về
doanh nghiệp mà trong đó có công ty rằng: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (Điều 4, khoản 7). Định nghĩa này
cho thấy doanh nghiệp (hay công ty) mang dáng dấp của pháp nhân - một chủ

thể quan trọng của pháp luật.
Đặc điểm thứ hai: Công ty là thương nhân.
Công ty là chủ thể thông thường của luật thương mại bởi như trên đã
phân tích công ty chuyên tiến hành các hành vi thương mại và lấy hành vi
thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Công ty có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh, có nghĩa là đăng ký việc làm nghề thương mại của mình. Ở
đây cần lưu ý hành vi thương mại có điểm khác với hành vi dân sự. Hành vi
thương mại nói đơn giản là hành vi do thương nhân thực hiện nhằm mục đích
sinh lời. Còn hành vi dân sự là hành vi do các chủ thể của pháp luật thực hiện
nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự phân biệt này là một vấn đề khoa học
phức tạp mà khó có thể lý giải trong phạm vi của Luận văn này.

13

Đặc điểm thứ ba: Việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bị giới hạn
bởi pháp luật.
Các hình thức góp vốn thành lập công ty và việc sở hữu vốn của công
ty luôn luôn được pháp luật quan tâm và điều tiết. Vốn ban đầu hình thành từ
sự đóng góp của thành viên hoặc các thành viên. Thông qua việc góp vốn,
thành viên đổi lại quyền lợi trong công ty và quyền chi phối công ty. Hơn nữa
công ty luôn có sự tác động lớn tới cộng đồng bởi khả năng cung cấp hàng
hóa hoặc dịch vụ, và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Pháp luật xen vào
điều tiết việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bởi các lý do như vậy.
1.1.1.2. Phân loại công ty
Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta thường chia công ty
thành hai loại: công ty dân sự và công ty thương mại. Nguồn gốc của sự phân
chia này là việc có sự phân loại giữa luật dân sự và luật thương mại. Cách
thức phân loại này không được thể hiện rõ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
không đề cập tới công ty dân sự do đó không xuất phát nghiên cứu từ cách
phân loại này.

Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ chịu trách nhiệm của thành viên
công ty và ý chí của nhà làm luật, mà dưới góc độ pháp lý người ta chia công
ty thành hai loại hình chính là công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong mỗi
loại này lại được phân chia thành các hình thức công ty cụ thể. Tuy nhiên phải
nói rằng cách phân loại này cũng không mấy rõ ràng, gây ra nhiều tranh luận.
Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm đáng lưu ý về mặt khoa học.
Công ty đối nhân là hình thức công ty mà việc thành lập dựa trên sự
liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia. Đặc
điểm cơ bản của công ty đối nhân là các thành viên liên đới chịu trách nhiệm
vô hạn về các khoản nợ của công ty hoặc ít nhất cũng phải có một thành viên
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên chịu
trách nhiệm vô hạn đều có tư cách thương nhân và phải chịu thuế thu nhập cá

14
nhân. Có hai loại hình công ty đối nhân cơ bản là công ty hợp danh và công ty
hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là công ty mà tất cả các thành viên đều
phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợi của công ty. Còn công ty
hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: một loại chịu trách nhiệm vô hạn; và
loại khác chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty.
Công ty đối vốn ra đời muộn hơn so với công ty đối nhân. Công ty
đối vốn không quan tâm tới nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm tới
phần vốn góp. Có một điểm đặc biệt khác so với công ty đối nhân là ở công
ty đối vốn tất cả các thành viên của công ty đều có chế độ trách nhiệm hữu
hạn. Do cơ cấu thành lập công ty chỉ quan tâm tới vốn góp mà thành viên
của công ty đối vốn thường có số lượng lớn. Cũng do thành viên của công
ty đối vốn có số lượng lớn nên nó thường được pháp luật qui định chặt chẽ
hơn về quản trị và vận hành. Có hai loại công ty đối vốn là: công ty cổ
phần; và công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm loại có một thành viên và
loại có hai thành viên trở lên).
Công ty đối nhân và công ty đối vốn khác nhau tương đối nhiều về chế

độ pháp lý đối với vốn của công ty, nhất là hậu quả pháp lý của hành vi góp
vốn. Trong mỗi phân loại lớn đó lại có những phân loại nhỏ hơn (hình thức
công ty) có sự khác biệt ít nhiều về chế độ góp vốn và hậu quả pháp lý của
hành vi góp vốn. Tuy nhiên tựu trung lại vấn đề góp vốn và hậu quả pháp lý
của nó có những điểm chung nhất định.
1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn
1.1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty
Góp vốn thường được người Việt Nam hiểu là việc một người đưa hay
hùn tiền bạc hay tài sản vào một công cuộc kinh doanh nhất định và mong
nhận được lợi ích từ đó. Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao
quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại
những lợi ích từ việc góp vốn đó. Góp vốn thành lập công ty là việc một
người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình

15
hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn
về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt
Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 163,
Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản
góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo khoản 4, Điều 4 Luật Doanh
nghiệp, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để
tạo thành vốn của công ty.
Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty
thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà
chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ.
Lợi ích mà người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần.
Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật
chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình

thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ).
Phần vốn góp hiểu là kết quả của sự chuyển một phần giá trị tài sản cụ thể của
người góp vốn vào công ty để đổi lấy một phần giá trị khác trừu tượng hơn.
Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai tài sản độc lập và thuộc
về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác nhau. Phần vốn góp là tài sản thuộc
sản nghiệp của nguời góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản
nghiệp của công ty nhận tài sản góp vốn . Về mặt pháp lý, vốn của công ty là
do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền
mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho
việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ cóa thể lấy nợ
trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty.
Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc
đồng sở hữu chủ của công ty đó.

16

1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty
Từ khái niệm trên ta có thể nhận thấy bản chất pháp lý của góp vốn là
hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn, làm
phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty (một thực thể
kinh doanh) thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của
những người góp vốn.
Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay
một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là
hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu
theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần
vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý [14, tr. 21].
Nếu xét trên phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho

công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã
đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp
công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên, một cổ đông góp vào
công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông
đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện
thông qua giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên
góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra
sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty.
Quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của
công ty. Ở khía cạnh kinh tế, việc góp vốn hay hùn vốn cũng là việc nhiều
người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn
nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng
xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng
với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có
khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không

17
thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ
thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó
cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng
người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp
vốn có thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt
lớn của công ty đối vốn so với công ty đối nhân. Một vấn đề kinh tế khác khi
các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản
lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong công
ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp của từng
thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông. [14, tr. 25 - 27].
Nếu xét trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài
sản để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Nói tóm lại góp vốn về bản chất

pháp lý là một hành vi pháp lý. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở
hữu tài sản của người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm
phát sinh quyền sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát
sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo
tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người
mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công ty.
Có thể lý giải cụ thể rằng: thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ
pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty
và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay
cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán
hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay
quyền hưởng dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được
bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ
quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu, quyền lợi công ty. Quyền lợi này có thể
chuyển đổi thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và
quy chế riêng có thể có. Quyền sở hữu công ty này là quyền sở hũu một phần

18
tài sản của công ty tương ứng với tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà người đó
nắm giữ. Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi
tài sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại
quyền lợi từ công ty. Đặc biệt trong công ty cổ phần thì các cổ phần không
phải là một vật xác định hay quyền lợi gắn với vật đó mà người sở hữu được
thừa hưởng. Cổ phần thực chất chỉ là một tờ giấy nhưng nó ghi nhận quyền tài
sản quan trọng ràng buộc giữa cổ đông và công ty, đó là quyền quản lý và
quyền thu lợi từ lợi tức của công ty. Như vậy, cổ phần luôn luôn gắn với công
ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty
không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất đi [14, tr. 27 – 28].
1.1.2.3. Quyền góp vốn thành lập công ty
Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong

những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Với nguyên tắc hiến
định này, có thể hiểu mọi người đều có quyền góp vốn thành lập công ty. Vì
vậy việc hạn chế góp vốn thành lập công ty chỉ có thể được thực hiện theo
những điều kiện nhất định. Hiến pháp 2013 qui định: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Quyền tự do kinh
doanh được xếp vào các quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Do
vậy việc hạn chế nó phải tuân thủ các điều kiện hiến định. Luật Doanh nghiệp
2014 khẳng định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài
có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của
Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” (Điều 18, khoản 1).
Điều này đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về tự do kinh doanh. Tuy nhiên
để bảo vệ cộng đồng trước những tác động tiêu cực của hành vi góp vốn thành
lập công ty và bảo vệ chính các công ty trước sự lạm dụng, Luật Doanh
nghiệp 2014 có những qui định hạn chế góp vốn thành lập công ty như sau:

19
“2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong
các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam,
trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp;

d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ
những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị
mất năng lực hành vi dân sự;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết
định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc
hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công
việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham
nhũng.
Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký
thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký
kinh doanh.
3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này,
trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.

20
4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần,
góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định
của Luật này:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn
vị mình;
b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức.
5. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình theo điểm a khoản 2 và điểm a
khoản 4 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ
hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục

đích sau đây:
a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ
quan, đơn vị;
b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của
pháp luật về ngân sách nhà nước;
c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị”
(Điều 18).
Các qui định hạn chế này làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh tại Việt
Nam hiện nay bao gồm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; chống tham nhũng,
chụp giật; và chống làm suy yếu hiệu lực của quản lý nhà nước.
1.1.3. Các hình thức góp vốn
Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân
loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó
chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức
góp vốn dường như phụ thuộc vào một qui chế pháp lý khác nhau xuất phát từ
đối tượng của hành vi góp vốn.
Khác với Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam, các Bộ luật Dân sự của
các nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.

21
Song theo quan niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm
hai loại là vật và quyền. Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về
mặt phạm vi. Hiện rất hiếm thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của
các quốc gia. Thế nhưng tài sản là đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp
vốn. Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp
2005 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng không thể không có các thiếu
sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra khỏi khuôn khổ của các qui
định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam nơi đã đặt ra tiền đề
cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt Nam “vật chất
liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới quyền tài

sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn bằng các vật
quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất.
Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không
có tài sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản
đều có thể đem góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự
thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có
thể thuộc bất kể dạng nào: vật chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện
các tài sản này phải là các tài sản có thể được chuyển giao trong giao lưu dân
sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp vốn đó là một hành vi chuyển giao tài
sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung có liên quan tới việc chuyển
giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia các hình thức góp
vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như góp vốn
bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền. Góp
vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền hưởng
dụng, sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài việc góp vốn bằng tài sản, người ta còn góp vốn bằng công sức
và bằng tri thức. Đây là hai hai khái niệm không hẳn nằm ngoài khái niệm tài
sản. Các khái niệm này có sự giao thoa. Một người có thể không đưa tài sản
cụ thể nào vào công ty với tính cách là góp vốn, mà người đó có thể thực hiện

22
một công việc nào đó mà công ty cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình hoặc đóng góp những hiểu biết mà công ty không thể không
cần đến trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc cung cấp một
công việc và việc cung cấp một tri thức có qui chế pháp lý riêng biệt với việc
cung cấp một tài sản cụ thể trong việc thành lập một công ty. Sau đây lần lượt
nghiên cứu các hình thức góp vốn cụ thể.
1.1.3.1. Góp vốn bằng tiền
Góp vốn bằng tiền là việc cá nhân hay tổ chức chuyển một khoán
tiền (Việt Nam đồng hay ngoại tệ hay những giấy tờ có giá trị như ngân

phiếu, trái phiếu của mình) để hình thành vốn của công ty, và đổi lại phần
vốn góp hay cổ phần từ công ty. Hành vi chuyển dịch chỉ được thực hiện
xong khi nào thành viên góp vốn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn mà có hình
thức như: chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng hoặc một tài
khoản trung gian
Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi
trong công ty. Do tính chất thanh khoản của tiền như vật ngang giá chung của
cả nền kinh tế. Khi cam kết góp mà không góp hoặc góp không đúng hạn
khoản tiền cam kết góp được coi là người cam kết nợ khoản cam kết đó với
công ty. Việc góp vốn hay trả nợ vốn có thể thực hiện bằng các phương thức
thanh toán theo qui định của pháp luật hay sự thỏa thuận của các bên.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh phương
thức góp vốn bằng tiền mặt đòi hỏi phải đóng đủ rồi mới được thành lập công
ty bởi các hình thức công ty này không được phát hành cổ phiếu. Với công ty
cổ phần, phương thức góp vốn bằng tiền mặt không đòi hỏi những người tham
gia đăng ký góp vốn phải đóng đủ ngay phần của mình trước khi công ty phải
đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đóng góp trước một phần bởi hình thức công
ty này có phát hành cổ phần. Số cổ phần còn lại sẽ được mua nốt trong một
khoảng thời gian nhất định sau khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Về
phương cách kiểm soát, pháp luật của nhiều nước, sau khi tiến hành góp vốn

23
theo phương thức này, các sáng lập viên phải có trách nhiệm gửi toàn bộ số
tiền đó thu được vào một tài khoản ngân hàng phong tỏa hoặc gửi tại nơi ký
thác. Luật Công ty 1990 cũng đã từng có quy định góp vốn phải gửi vào tài
khoản phong tỏa. Hiện tại, việc chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa chỉ áp
dụng đối với công ty cổ phần khi phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ
chứ không áp dụng cho trường hợp góp vốn thành lập công ty, vấn đề này phụ
thuộc vào thỏa thuận của các cổ đông khi sáng lập công ty cổ phần.
1.1.3.2. Góp vốn bằng hiện vật

Góp vốn bằng hiện vật là việc góp vốn bằng quyền sở hữu đối với vật
mà có thể là bất động sản do bản chất hay do mục đích, hoặc động sản do bản
chất. Về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể đem góp vốn thành lập công
ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể về việc góp vốn thành lập
công ty. Vật đưa vào góp vốn phải là vật được đưa vào giao lưu dân sự đáp
ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật
chất; (ii) vật có thực phải đem lại lợi ích cho con người; (iii) vật có thực là
những vật con người có thể chiếm giữ được [17, tr. 31].
Như vậy việc góp vốn bằng hiện vật gần giống với việc bán hay đổi vật
đó để lấy quyền lợi trong công ty. Người góp vốn thu được quyền lợi. Còn
công ty có được quyền sở hữu đồ vật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự Pháp quy
định: “việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền
đối với vật và giao vật cho công ty sử dụng. Nếu góp vốn bằng quyền sở hữu,
người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán đảm bảo đối với
người mua” (Điều 1843 - 3).
Vật được đem góp vốn phải là tài sản được phép giao dịch. Vật phải
được xác định rõ. Chất lượng của vật do các bên thỏa thuận. Trong trường
hợp chất lượng của vật đó được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định chất lượng của vật được xác định theo tiêu chuẩn đó công bố
hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất lượng thì chất lượng của

24
vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng và chất lượng trung bình của
vật cùng loại. Với nghĩa vụ như người bán đối với người mua thì thành viên
góp vốn có nghĩa vụ giao vật đúng số lượng, đồng bộ và đúng chủng loại, cung
cấp thông tin cần thiết về vật và hướng dẫn cách sử dụng vật đó, đảm bảo
quyền sở hữu đối với vật đó góp vốn không bị bên thứ ba tranh chấp.
Việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên
sang công ty có ý nghĩa pháp lý quan trọng, phải cam kết thực hiện nghĩa vụ

dân sự, vì theo quan điểm pháp lý dân sự thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản
thường gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu. Về nguyên tắc, chủ sở
hữu phải chịu rủi ro xảy ra đối với tài sản của mình. Từ thời điểm thành viên
cam kết góp vốn mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của thành viên
với công ty. Trong đó, nếu công ty chưa đăng ký kinh doanh thì quyền yêu
cầu là quyền của các thành viên khác đối với thành viên cam kết góp vốn thực
hiện nghĩa vụ của họ. Thời điểm này chưa làm phát sinh quyền sở hữu tài sản
của công ty vì công ty chưa ra đời. Việc chuyển dịch quyển sở hữu tài sản từ
thành viên sang công ty chỉ có thể tính từ thời điểm công ty được chính thức
thừa nhận về mặt pháp lý tức là thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Tức là, việc công ty trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc công
ty phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là công ty phải có khả năng hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng hiện vật không
thể thực hiện được với công ty không có tư cách pháp nhân.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại tài sản và ghi nhận của pháp
luật, của hợp đồng hoặc điều lệ công ty mà việc chuyển quyền sở hữu tài sản
hiện vật từ thành viên sang công ty được thực hiện theo những thủ tục khác
nhau. Vật được giao theo phương thức thỏa thuận về việc góp vốn; nếu không
có thỏa thuận về phương thức giao vật thì vật do thành viên góp vốn giao một
lần, giao trực tiếp công ty. Thành viên góp vốn phải chịu chi phí vận chuyển
đến địa điểm giao vật và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu đối
với vật.

25
1.1.3.3. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Hiến pháp 2013 tại Điều 53 qui định:
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý”.

Qua đây có thể hiểu đất đai là một tài sản đặc biệt, có qui chế pháp lý
rất khác so với các loại tài sản khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó người ta chỉ có thể
góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhà nước ta đã tạo ra cho người sử dụng đất
những quyền năng nhất định, trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng
đất để thành lập công ty. Đất đai là bất động sản do bản chất. Thông thường
có thể xếp việc góp vốn bằng đất đai vào góp vốn bằng hiện vật. Nhưng Nhà
nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất với từng mảnh đất
cụ thể. Quyền sử dụng đất lại được quy định bởi nhiều chế độ pháp lý khác
nhau tùy theo từng loại đất. Do vậy phải xếp việc góp vốn bằng quyền sử
dụng đất thành một hình thức góp vốn riêng so với góp vốn bằng vật. Việc
góp vốn thành lập công ty bằng quyền sử dụng đất phải thỏa mãn các điều
kiện sau: (i) có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) không có tranh chấp;
(iii) quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) trong
thời hạn sử dụng đất.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư tại Việt Nam được nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Nếu thuê đất thu
tiền thuê đất hàng năm có quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam. Nếu cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có
quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất để hợp tác kinh doanh, sản xuất trong thời hạn thuê đất [26]
Việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đòi hỏi quyền sử dụng đất phải
thuộc trường hợp pháp luật cho phép được dùng vốn góp như một tài sản.

×