Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.13 KB, 79 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐẶNG THỊ HỒNG



HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy




HÀ NỘI - 2014






LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Đặng Thị Hồng







MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC
KINH DOANH 6
1.1. Bản chất pháp lý của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp
tác kinh doanh 6
1.1.1. Khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh 6
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh 11
1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh 13
1.2. Vị trí, vai trò của hợp đồng hợp tác kinh doanh 16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC
KINH DOANH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM 30
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về hợp đồng hợp tác
kinh doanh 30
2.1.1. Quy định về chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh 30
2.1.2. Quy định về nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh 33
2.1.3. Quy định về thủ tục đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh 46
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh 52


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ THEO HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH 56
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với hình thức

đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh 56
3.2. Các giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt
động đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh 63
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCC Business Cooperation Contract
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
BOT Build – Operate – Transfer contract
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao
BT Build – Transfer contract
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao
BTO Build- Transfer – Operate
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
CJVs Contractual Joint ventures
Liên doanh theo hợp đồng
ITC International Trade Center
Trung tâm thương mại thế giới
UBND Ủy ban nhân dân
UPA Uniform Partnership Act
Luật mẫu về công ty hợp doanh
WTO World Trade Organisation
Tổ chức thương mại thế giới









1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tạo
ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế, góp phần đưa
đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ phát
triển mới. Một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích
cực đó là những chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư và đặc biệt là đẩy
mạnh hoạt động kinh doanh thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh (“Hợp đồng BCC”).
Hợp đồng hợp tác kinh doanh lần đầu tiên được quy định cụ thể trong
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, với tính chất là quan hệ hợp tác kinh doanh
giữa nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài.Khi mới được quy định
trong pháp luật đầu tư Việt Nam, hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ có thể
được ký kết và thực hiện giữa hai bên chủ thể, bao gồm một bên nước ngoài
và một bên Việt Nam.
Để phù hợp hơn với thực tiễn kinh doanh, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật đầu tư nước ngoài 1990 đã quy định hợp đồng hợp tác
kinh doanh là hợp đồng hai bên hoặc nhiều bên. Trên cơ sở này, hợp đồng
hợp tác kinh doanh đã được định nghĩa là: Văn bản được ký kết giữa hai
hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam trên
cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên

mà không thành lập pháp nhân.
Luật Đầu tư 2005 với tính chất là Luật Đầu tư áp dụng chung cho các
nhà đầu tư không phân biệt quốc tịch của họ đã giải quyết thiếu hụt của hệ
thống pháp luật về đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định tại
khoản 16 Điều 3 của Luật này và được cụ thể hóa tại Nghị định của Chính


2
phủ số 108/2006/NĐ – CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Đầu tư.
Nội dung quan hệ đầu tư theo hợp đồng BCC là những thỏa thuận thể
hiện tính “hợp tác kinh doanh”, bao gồm các thỏa thuận bỏ vốn để cùng kinh
doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết quả kinh doanh. Đây chính là đặc
thù của hợp đồng hợp tác kinh doanh trong sự so sánh với các hợp đồng khác
trong thương mại (ở các hợp đồng này, thời điểm chuyển giao rủi ro được các
bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định là cơ sở xác định rõ lợi nhuận hay rủi
ro thuộc về một trong các bên của hợp đồng).
Dựa vào bản chất pháp lý của hợp đồng BCC, ta có thể thấy hợp đồng
hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư dễ tiến hành, thích hợp với các dự án
cần triển khai nhanh, thời hạn đầu tư ngắn. Xét về lợi thế, đầu tư theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giúp sớm thu được lợi nhuận vì các nhà
đầu tư không mất thời gian đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới. Do không
phải thành lập doanh nghiệp mới để thực hiện dự án nên thủ tục đầu tư cũng
đơn giản, không tốn nhiều thời gian, chi phí, quy mô dự án cũng có thể rất
linh hoạt. Hiện nay ở Việt Nam, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh được
thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, lĩnh vực bưu
chính viễn thông, in ấn, phát hành báo chí với sự tham gia góp vốn của nhà
đầu tư nước ngoài. Kể từ khi được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam, hình
thức đầu tư này đã góp phần hiện đại hóa và phát triển ngành dầu khí, ngành
bưu chính viễn thông của nước ta.

Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn trong việc điều chỉnh hoạt
động hợp tác kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hệ thống
pháp luật Việt Nam vẫn còn những tồn tại, vướng mắc nhất định cần được tìm
hiểu, nghiên cứu, đánh giá và đưa ra biện pháp giải quyết. Do vậy, em lựa
chọn đề tài “Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Pháp luật Việt Nam” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ của mình.


3
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã đề cập ở phần trên, hợp đồng hợp tác kinh doanh tuy đã được
pháp luật ghi nhận từ lâu nhưng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học nào thực sự nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về nó. Cho đến nay mới
chỉ có luận văn đại học nghiên cứu về vấn đề này và một số bài viết được
đăng trên các tạp chí pháp luật của một số nhà khoa học như bài viết“Một số
nội dung mới trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng hợp tác kinh doanh” của
TS. Nguyễn Thị Dung trên Tạp chí luật học số 11/2008, “The true story
behind the veil of Business Cooperation contract” của tác giả Trần Sĩ Vỹ và
Cao Qing trên tạp chí Vietnam Law & Legal Forum số 209-210/2012. Các
công trình khoa học khác, có chăng chỉ đề cập đến hợp đồng hợp tác kinh
doanh như một khía cạnh nhỏ của đầu tư như luận án tiến sĩ luật học “Hoàn
thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hóa
pháp luật về đầu tư ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Khắc Định, cuốn “Pháp
luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư – Những vấn đề pháp lý cơ bản”
của TS. Nguyễn Thị Dung…
3. Mục tiêu và Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp
luật điều chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh, những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng, từ đó tìm ra phương hướng và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện các qui định của pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam.

Như vậy, về cơ bản luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, làm rõ bản chất pháp lý của hợp đồng hợp tác kinh doanh và
cơ sở lý luận của pháp luật điều chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Thứ hai, phân tích thực trạng áp dụng các qui định của pháp luật về hợp
đồng hợp tác kinh doanh, từ đó nêu được những bất cập, hạn chế trong các
qui định của pháp luật về vấn đề này.


4
Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận
văn đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện các qui định của pháp luật điều
chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: quan điểm pháp lý về
hợp đồng hợp tác kinh doanh; phương thức và thực trạng thực thi pháp luật
điều chỉnh hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những khía cạnh
pháp lý của hợp đồng hợp tác kinh doanh trên cơ sở lý luận và các qui định
trong các văn bản pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh như Hệ thống
văn bản Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật khuyến khích
đầu tư trong nước năm 1998, Luật đầu tư năm 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phối hợp nhiều phương
pháp khác nhau như: phân tích, tổng hợp, luật học so sánh, khảo sát thực tiễn.
Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của
phương pháp duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường lối chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, chi tiết những quy định
của Pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh, thực trạng và tình hình thực

thi pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thông qua đó, Luận văn đưa ra
những giải pháp nhằm góp phần tăng cường hiệu quả của việc thực thi các
quy định pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh. Dự kiến luận văn sẽ có
những kết quả sau đây:
- Về mặt lý luận: Luận văn phân tích, bổ sung những lý luận cơ bản về
hợp đồng hợp tác kinh doanh; phân tích đặc trưng pháp lý của hợp đồng hợp
tác kinh doanh và các quy định pháp luật có liên quan.


5
- Về mặt thực tiễn: Luận văn phân tích những bất cập, vướng mắc trong
các qui định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng hợp tác kinh doanh, từ đó đề
ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và giải pháp.
So với những công trình đã nghiên cứu, Luận văn kế thừa kết quả
nghiên cứu của những công trình nghiên cứu trước. Bên cạnh đó, Luận văn đã
có những nghiên cứu, đóng góp để hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
hợp đồng hợp tác kinh doanh.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 03 chương với kết cấu và nội dung nghiên cứu như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hợp đồng hợp tác kinh doanh
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh và
thực tiễn thi hành pháp luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả của hoạt động đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh














6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH

1.1. Bản chất pháp lý của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là khái niệm không chỉ được pháp luật
Việt Nam ghi nhận mà còn được ghi nhận trong pháp luật đầu tư của rất nhiều
quốc gia trên thế giới với những tên gọi không đồng nhất với nhau.
Tại Việt Nam, khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định
trong Luật đầu tư năm 2005 và Nghị định của Chính Phủ số 108/2006/NĐ-CP
ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
đầu tư. Theo Khoản 16 Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam thì “Hợp
đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư
nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không
thành lập pháp nhân” . Tuy nhiên, khái niệm trên chưa thực sự đầy đủ do mới
chỉ ra hợp đồng hợp tác kinh doanh là một hình thức đầu tư mà không thể
hiện được bản chất của hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng là một hợp đồng
dân sự. Khắc phục thiếu sót này của Luật đầu tư năm 2005, Nghị định
108/2006/NĐ-CP đưa ra khái niệm chi tiết hơn về hợp đồng hợp tác kinh

doanh. Khoản 1 Điều 9 Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định: “Trường hợp
đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa một hoặc nhiều nhà
đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước (sau đây gọi tắt
là các bên hợp doanh) thì nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy
định về quyền lợi, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
hợp doanh.” Tuy nhiên, có thể dễ dàng thấy được quy định này cũng chưa


7
thực sự chính xác bởi vì nó chỉ hướng đến quan hệ hợp đồng giữa một bên
là nhà đầu tư nước ngoài, một bên là nhà đầu tư trong nước.
Trung tâm thương mại thế giới (International Trade Center – ITC) gọi
hợp đồng hợp tác kinh doanh là liên doanh theo hợp đồng (Contractual Joint
ventures – CJVs) trong đó sự hợp tác giữa các bên liên doanh không dẫn đến
việc tạo ra một tổ chức mới (chịu sự điều chỉnh của luật quốc gia). Các bên
liên doanh thực hiện sự hợp tác của mình trên cơ sở một hợp đồng mà không
tạo ra một tổ chức mới. CJVs có hai đặc điểm quan trọng là tính linh hoạt và
trách nhiệm của các bên trong CJVs.
Thứ nhất, CJVs có tính linh hoạt. Trong hầu hết các hệ thống pháp luật
thì luật hợp đồng cho phép sự tự do tương đối để các bên quy định quan hệ
hợp đồng, bao gồm mối quan hệ liên doanh theo hợp đồng mà không chịu sự
điều chỉnh nghiêm ngặt của các công ty. Do đó các bên có thể tự do quy định
những nhu cầu đặc biệt của mình trong CJVs.
Thứ hai, trách nhiệm của các bên liên doanh trong CJVs là trách nhiệm
liên đới. Bởi CJVs không dẫn đến việc tạo ra một pháp nhân mới nên các bên
sẽ có trách nhiệm liên đới với các khoản nợ và lỗ của CJVs.
CJVs cũng cho phép các bên tham gia hợp đồng hợp tác lựa chọn thành
lập liên doanh không có tư cách pháp nhân. Trong trường hợp này các bên
tham gia vẫn có tư cách pháp lý riêng và cách đầu tư này không tạo ra một
pháp nhân mới. CJVs không có tư cách pháp nhân có bản chất giống hình

thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh theo luật đầu
tư nước ngoài của Việt Nam.
Trung Quốc từ cuối năm 1987 bước vào thời kỳ cải cách, mở cửa và
cũng từ thời gian đó chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rất được nhà nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quan tâm. Khác với Việt Nam, Trung Quốc
không có luật chung quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trung Quốc


8
cũng gọi hợp đồng hợp tác kinh doanh là liên doanh theo hợp đồng (CJVs)
được quy định trong Luật liên doanh theo hợp đồng được thông qua tại kì họp
thứ nhất của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa VIII, có hiệu lực từ
13/4/1988. Tuy nhiên, phải đến năm 1995 Bộ ngoại thương và hợp tác kinh
tế của Trung Quốc mới ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện luật này và
được sửa đổi tại cuộc họp lần thứ 18 của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
lần thứ IX năm 2000. Theo Điều 1 và Điều 2 của Luật liên doanh theo hợp
đồng thì liên doanh theo hợp đồng được thành lập trên cơ sở hợp đồng hợp
tác, được ký kết giữa bên nước ngoài (bao gồm các doanh nghiệp nước ngoài,
tổ chức kinh tế khác của nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài) và bên Trung
Quốc (bao gồm doanh nghiệp Trung Quốc, tổ chức kinh tế khác của Trung
Quốc). Trong hợp đồng hợp tác các bên phải thỏa thuận các vấn đề như: các
khoản đầu tư, điều kiện hợp tác, việc phân phối thu nhập hay sản phẩm, rủi
ro, cách thức hoạt động và quản lý, thời gian hoạt động của liên doanh. Liên
doanh theo hợp đồng nếu thỏa mãn các điều kiện của một pháp nhân theo
pháp luật Trung Quốc thì sẽ được công nhận là pháp nhân. Trong trường hợp
này, liên doanh theo hợp đồng có bản chất giống liên doanh góp vốn (Equity
Joint Ventures) theo Luật liên doanh góp vốn năm 1979 của Trung Quốc,
được sửa đổi lần thức nhất năm 1990, sửa đổi lần thứ hai năm 2001. Các bên
tham gia hợp đồng chỉ chịu trách nhiệm đối với hoạt động của liên doanh
trong phạm vi phần vốn góp của họ.

Pháp luật các nước thuộc họ pháp luật Anh – Mỹ đều quy định hợp
doanh là hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Tuy nhiên,
pháp luật của một số nước thuộc họ pháp luật Anh – Mỹ mà điển hình là Mỹ
đều không thừa nhận tư cách pháp nhân của hợp doanh. Theo quy định tại
khoản 6 Điều 1 Luật mẫu về quan hệ hợp danh năm 1997: “Quan hệ hợp
doanh là một nhóm gồm hai hay nhiều thể nhân để thực hiện hoạt động kinh


9
doanh với tư cách là những đồng sở hữu để thu lợi nhuận” [58]. Hợp đồng
thành lập hợp danh theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 là sự thỏa thuận bằng
văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể giữa các bên hợp doanh. Theo quy định
của pháp luật, một hợp doanh không có tư cách pháp nhân, không cần thiết
phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chỉ cần có hợp đồng
hợp doanh hoặc hoạt động thực tế của hợp doanh. Vì vậy, thực tế giữa các
bên hợp doanh chỉ cần tồn tại quan hệ hợp đồng để cùng kinh doanh tìm kiếm
lợi nhuận. Những quy định của pháp luật chỉ áp dụng với những vấn đề mà
hợp đồng hợp doanh không đề cập tới.
Tương tự như pháp luật Hoa Kỳ, Luật hợp doanh Anh năm 1890
(Partnership Act) quy định: “Hợp doanh là mối quan hệ được tạo lập giữa
các thể nhân để cùng kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận” [57].
Pháp luật của một số nước Châu Âu lục địa đều có quy định về hợp
đồng hợp tác kinh doanh. Tuy nhiên pháp luật một số nước điển hình thuộc
dòng pháp luật Châu Âu lục địa khi quy định về hợp đồng hợp tác kinh doanh
có sự khác biệt tương đối so với pháp luật Việt Nam. Pháp luật của Pháp và
Nhật đều quy định về hình thức của hợp đồng hợp tác kinh doanh với tư cách
là dạng đặc biệt của hợp đồng thành lập công ty hợp danh.
Điều 1832 Luật dân sự Pháp quy định khái niệm công ty, theo đó:
“Công ty được thành lập theo sự thỏa thuận của hai hay nhiều chủ thể đồng ý
góp tài sản chung với mục đích được phân chia lợi nhuận hợp pháp từ hoạt

động của công ty đó” [60]. Tất cả các hình thức công ty theo quy định của
pháp luật Pháp, trong đó có công ty hợp danh đều được thừa nhận là có tư
cách pháp nhân. Bên cạnh việc hợp tác kinh doanh để thành lập công ty, pháp
luật Pháp cũng quy định về việc hợp tác kinh doanh giữa các chủ thể nhưng
không dẫn đến sự ra đời của công ty mới chính là hình thức hợp tác kinh
doanh thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh của Việt Nam. Tuy nhiên,


10
pháp luật Pháp không coi sự thỏa thuận đó là hợp đồng hợp tác kinh doanh
như pháp luật Việt Nam mà coi đó là hình thức hợp tác đặc biệt thông qua
công ty hợp danh ẩn danh. Khi thành lập công ty hợp danh, các chủ thể có
trách nhiệm tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh với cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, Điều 1871 Bộ luật dân sự Pháp quy định về trường hợp các chủ
thể có thể thỏa thuận không tiến hành thủ tục đăng ký thành lập công ty hợp
danh khi muốn cùng hợp tác kinh doanh. Trong trường hợp này, công ty hợp
danh được gọi là công ty hợp danh ẩn danh, không có tư cách pháp nhân và
không cần tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh. Các thành viên hợp danh của
công ty hợp danh ẩn danh được tự do thỏa thuận về đối tượng góp vốn và việc
hoạt động của công ty hợp danh ẩn danh. Điều 1872 Bộ luật dân sự Pháp quy
định “Các bên hợp danh vẫn là chủ sở hữu của tài sản góp vốn và nhân danh
chính mình khi tham gia quan hệ với bên thứ ba” [60].
Tương tự như pháp luật Pháp, pháp luật Nhật Bản cũng có quy định về
liên kết ẩn danh. Điều 667 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Hợp đồng
thành lập công ty hợp danh được thiết lập khi mỗi bên hợp danh hứa sẽ góp
vốn để tham gia kinh doanh” [63]. Khi công ty hợp danh được thành lập,
công ty sẽ có tư cách pháp nhân và là chủ thể kinh doanh độc lập. Hợp đồng
hợp tác kinh doanh được quy định tại Điều 535 Bộ luật thương mại Nhật Bản
quy định “Một bên đầu tư kinh doanh với bên khác với lời hứa được chia lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh nói trên” [63]. Việc hợp tác này không được

coi là một hình thức tổ chức kinh doanh, cũng không dẫn đến sự ra đời của
pháp nhân mới.
Pháp luật Nga về hợp đồng hợp tác kinh doanh có sự tương đồng khá
lớn với pháp luật Việt Nam. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định tại
Chương V Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung ngày 23/12/2003 của Nga. Khoản
1 Điều 1041 Bộ luật dân sự Nga quy định: “Theo sự điều chỉnh của hợp đồng


11
hợp tác kinh doanh, hai hoặc nhiều chủ thể sẽ tiến hành thực hiện việc góp
vốn và cùng kinh doanh để phân chia lợi nhận mà không thành lập một thực
thể kinh doanh mới” [64]. Chỉ những thương nhân là cá nhân hoặc tổ chức
hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mới có thể trở thành chủ thể của
hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Theo quy định tại Điều 1042 Bộ luật dân sự Nga thì phần vốn góp của
các bên hợp doanh có thể là tiền, tài sản, kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng
kinh doanh hoặc các hiểu biết khác; thương hiệu và các hợp đồng trong kinh
doanh cũng có thể được dùng để góp vốn. Việc phân chia lợi nhuận từ việc
hợp tác kinh doanh theo hợp đồng được quy định tại Điều 1048 Bộ luật dân
sự Nga. Theo đó, lợi nhuận mà các bên hợp doanh nhận được là kết quả của
việc hợp tác kinh doanh có thể được phân chia trên cơ sở tỷ lệ góp vốn của
họ, trừ trường hợp các bên hợp doanh có sự thỏa thuận khác.
Như vậy, để hiểu một cách khái quát nhất thì hợp đồng hợp tác kinh
doanh là hợp đồng được ký kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng, theo đó các bên hợp doanh cùng góp vốn, cùng quản lý
kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết quả thu được nhưng không
thành lập pháp nhân mới. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên vẫn
giữ nguyên tư cách pháp lý của chính mình, nhân danh mình để thực hiện
quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng. Với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng
như nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh

doanh có tính linh hoạt, do không có sự ràng buộc về tổ chức bằng một pháp
nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với nhau.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự thỏa thuận giữa các bên ký kết,
tức là sự thỏa hiệp ý chí của các nhà đầu tư. Các bên tham gia tự nguyện,
tự do bày tỏ ý chí của mình. Các bên chủ thể của hợp đồng chủ yếu là các


12
chủ thể kinh doanh và có năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng. Người đại diện để ký kết hợp đồng phải là người đại diện hợp pháp
của các bên chủ thể hợp đồng. Nội dung của hợp đồng không được trái với
quy định của pháp luật và hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy
định của pháp luật. Ngoài ra, hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng mang
những đặc điểm riêng như sau:
Về tính chất, hợp đồng hợp tác kinh doanh là một quan hệ đầu tư được
thiết lập trên cơ sở hợp đồng, các nhà đầu tư chung vốn kinh doanh nhưng
không thành lập tổ chức kinh tế mới. Các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư chỉ
ràng buộc với nhau bởi các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận mà không có
sự ràng buộc về mặt tổ chức như ở các hình thức đầu tư chung vốn thành lập
doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư
cách pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và
nghĩa vụ. Các nhà đầu tư độc lập với đối tác trong việc quyết định các vấn đề
liên quan đến dự án đầu tư đồng thời cũng tránh được mâu thuẫn, bất đồng
trong quá trình quản lý điều hành dự án đầu tư.Trong khi đó, đối với các hình
thức đầu tư trực tiếp khác, nhà đầu tư phải thành lập pháp nhân khi đầu tư
thực hiện dự án. Ngay cả các hình thức đầu tư theo hợp đồng khác như hình
thức BOT, BTO hay BT, nhà đầu tư cũng phải thành lập doanh nghiệp (doanh
nghiệp dự án) để có tư cách pháp nhân, quản lý, thực hiện các hoạt động của
dự án với tư cách pháp nhân đó.

Về nội dung quan hệ đầu tư, hợp đồng hợp tác kinh doanh bao gồm các
thỏa thuận bỏ vốn để cùng kinh doanh, cùng chịu rủi ro và cùng phân chia kết
quả kinh doanh. Đây là đặc thù của hợp đồng hợp tác kinh doanh trong sự so
sánh với các hợp đồng khác trong thương mại. Ở các hợp đồng mua bán hay
cung ứng dịch vụ, tùy thuộc sự thỏa thuận giữa các bên về thời điểm giao
hàng, thời điểm chuyển giao rủi ro và quyền sở hữu, hoàn toàn có thể xác


13
định rõ lợi nhuận hay rủi ro thuộc về một trong các bên của hợp đồng. Trong
hợp đồng hợp tác kinh doanh có sự phân chia kết quả kinh doanh giữa các bên
hợp doanh, mỗi bên được hưởng lợi nhuận hay phải chịu lỗ tương ứng với tỷ
lệ vốn góp.
Về chủ thể, khác với hình thức đầu tư theo Hợp đồng BOT, BTO và BT
chủ thể tham gia quan hệ đầu tư luôn phải có sự tham gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, đối với hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, chủ thể
là tất cả các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài. Số lượng chủ thể trong hợp đồng không giới hạn, tùy vào quy mô dự
án cũng như khả năng, mong muốn của các bên tham gia hợp đồng mà số
lượng chủ thể có thể bao gồm hai hoặc nhiều nhà đầu tư cùng có quan hệ hợp
tác kinh doanh với nhau (song phương hoặc đa phương).
Đây là đặc điểm phân biệt hợp đồng hợp tác kinh doanh với
các hợp đồng khác trong hoạt động thương mại như hợp đồng mua
bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ. Những hợp đồng này
thường chỉ có sự tham gia của hai bên (ví dụ: một bên thương nhân
bên mua và một thương nhân bên bán. [12]
Các nhà đầu tư với tư cách là các bên tham gia trong hợp đồng
bao gồm các tổ chức, cá nhân bỏ vốn bằng tài sản hữu hình hoặc tài sản vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư.
1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp

tác kinh doanh
 Ưu điểm
So với những hình thức đầu tư khác, hình thức đầu tư theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh có nhiều ưu điểm khiến các nhà đầu tư ngày càng ưu tiên
lựa chọn hình thức này để tiến hành các hoạt động đầu tư của mình.
Thứ nhất, ưu điểm nổi bật của hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp


14
tác kinh doanh là giúp các nhà đầu tư tiết kiệm rất nhiều thời gian, chi phí
trong việc thành lập pháp nhân mới, vận hành doanh nghiệp sau khi nó
được thành lập và khi dự án đầu tư kết thúc, các nhà đầu tư cũng không
phải lo lắng về vấn đề giải thể. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn còn rất nhiều
vướng mắc trong thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư, gây không ít khó
khăn cho các nhà đầu tư khi đăng ký thực hiện dự án đầu tư mới. Hình thức
theo hợp đồng hợp tác kinh doanh được coi là ưu tiên số một cho các dự án
đầu tư các khu chung cư tại các thành phố lớn vì khi dự án kết thúc, các
bên phân chia xong lợi nhuận thì không cần phải tính đến chuyện làm thủ
tục giải thể doanh nghiệp nếu như các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư
khác. Ngoài ra, trong các dự án đầu tư trên, khi các nhà đầu tư đã lựa chọn
hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC thì ngay khi các khu chung cư hoàn
thành, các bên có thể ngay lập tức bán phần của mình như thỏa thuận phân
chia mà không phụ thuộc vào các đối tác còn lại.
Thứ hai, với hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ lẫn nhau những
thiếu sót, yếu điểm của nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh.Đầu tư theo
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh được xem là một trong những lựa
chọn tối ưu cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý định đầu tư vào một thị
trường mới nhưng vẫn nhanh chóng tiếp cận được thông tin dưới sự am hiểu
về thị trường thông qua những đối tác trong nước. Đồng thời, nhà đầu tư
trong nước cũng được đối tác hỗ trợ về vốn, công nghệ hiện đại trong hoạt

động sản xuất kinh doanh hay phát triển dự án đầu tư. “Hình thức đầu tư này
thích hợp với các dự án cần triển khai nhanh, thời hạn đầu tư ngắn”.[14]
Thứ ba, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư
cách pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và
nghĩa vụ. Do đó, nhà đầu tư sẽ rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác
khi quyết định các vấn đề của dự án đầu tư. Nếu như đối với các hình thức


15
đầu tư phải thành lập một pháp nhân mới, các nhà đầu tư căn cứ trên phần vốn
mà mỗi bên bỏ ra để lựa chọn một hoặc một nhóm người đứng đầu, lãnh đạo
công ty. Như vậy, những nhà đầu tư có nguồn vốn ít sẽ có ít cơ hội được nắm
quản lý, không chủ động trong việc cũng như với số vốn mà họ đã bỏ ra, họ
giống như một “chủ nợ” hơn là một nhà đầu tư. Nhưng đối với hình thức đầu
tư này, với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt
động đầu tư, các nhà đầu tư có thể linh hoạt trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng do không có sự ràng buộc về tổ chức
bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với
nhau. Do đó, hình thức đầu tư này đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và sự
lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác nhau.
 Hạn chế
Các mặt tích cực của hợp đồng hợp tác kinh doanh đôi khi lại trở thành
trở ngại cho các nhà đầu tư khi lựa chọn hình thức đầu tư này.
Do không thành lập pháp nhân mới nên dự án đầu tư sẽ gặp khó khăn
khi thực hiện các hợp đồng phục vụ cho hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cũng
chính vì không có một doanh nghiệp liên doanh mới ra đời giữa các nhà đầu
tư, do đó, sẽ không có con dấu riêng, và đương nhiên, các nhà đầu tư sẽ phải
thỏa thuận lựa chọn một trong con dấu của các nhà đầu tư để phục vụ cho các
hoạt động của dự án đầu tư. “Việc không phải thành lập pháp nhân mới trong
nhiều trường hợp nếu các nhà đầu tư không nghiên cứu kỹ, lựa chọn sai hình

thức đầu tư thì nó lại trở thành một hạn chế rất lớn, gây ra nhiều rủi ro mà
các nhà đầu tư không lường trước được”[51]. Ngoài ra, nếu thành lập một
pháp nhân mới thì quyền quản lý pháp nhân mới đó sẽ được phân chia theo tỷ
lệ số vốn góp do các nhà đầu tư bỏ ra. Nhưng vì không có doanh nghiệp mới
ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư sẽ được chia đều cho tất cả các nhà
đầu tư, như vậy sẽ có lợi cho các nhà đầu tư bỏ ra ít vốn hơn nhưng lại không


16
công bằng với các nhà đầu tư bỏ nhiều vốn hơn. Việc không thành lập nên
một thực thể pháp lý riêng biệt và không mang tính chất chịu trách nhiệm hữu
hạn khi đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh còn gây nên sự
khó khăn trong tuyển dụng và quản lý lao động.
Thêm vào đó pháp luật chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm
của các bên và bên thứ ba khi một bên giao kết hợp đồng với bên thứ ba
trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC. Khi xảy ra tranh chấp sẽ khó để
xác định bên nào trong quan hệ hợp doanh là bên thực sự phải chịu trách
nhiệm với bên thứ ba.
Như vậy, có thể thấy hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC hiện nay trở
nên phổ biến do tính chất linh hoạt, hiệu quả. Tuy nhiên, tùy từng dự án đầu
tư cụ thể, các nhà đầu tư cần phải tìm hiểu cả ưu điểm cũng như hạn chế của
từng hình thức đầu tư để lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp nhất nhằm
hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ một dự án
đầu tư nào.
1.2. Vị trí, vai trò của hợp đồng hợp tác kinh doanh
Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước về mặt
Nhà nước năm 1976, đất nước ta mới có điều kiện xây dựng lại nền kinh tế bị
chiến tranh tàn phá nghiêm trọng và phát triển đất nước. Tình hình đất nước
trong giai đoạn này có ba đặc điểm lớn:
Một là, nước ta đang trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn

phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hai là, cả nước hòa bình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ
nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả
của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa tư bản còn rất gay go và phức tạp.


17
Với một thực trạng kinh tế xã hội như vậy, nhằm thực hiện nhiệm vụ
khôi phục và phát triển nền kinh tế đất nước, Đại hội Đảng lần thứ 4 năm
1976 đã khẳng định việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương
trong lĩnh vực kinh tế và phát triển các quan hệ kinh tế với các nước khác có
một vai trò vô cùng quan. Thực hiện chủ trương đúng đắn đó của Đảng, ngày
18/4/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư
nước ngoài, một văn bản pháp quy riêng biệt nhằm khuyến khích và điều
chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Văn bản pháp quy
đầu tiên về đầu tư nước ngoài này, đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng
và Nhà nước, được các nhà đầu tư nước ngoài thời kỳ đó đón nhận như một
tín hiệu mở cửa của Việt nam. Ở giai đoạn này, hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh chỉ là hình thức cùng sản xuất, chia sản phẩm, bên nào có vốn
nhiều thì sản phẩm nhiều, lĩnh vực đầu tư trong thời gian này chỉ quy định bó
hẹp trong các thể nhân và pháp nhân nước ngoài với tổ chức kinh tế quốc
doanh Việt Nam. Trong khi đó các tổ chức thành phần kinh tế khác ngoài
quốc doanh không được thừa nhận trong giai đoạn này.
Để hiểu rõ được nội dung của hình thức hợp tác thì theo Điều 6 Nghị
định 115-CP năm 1977 quy định về hình thức hợp tác chia sản phẩm như sau:
Bên nước ngoài bỏ vốn và trang bị kỹ thuật để xây dựng một hoặc một số
cơ sở nhằm thực hiện một chương trình hợp tác kinh tế mà các bên thỏa

thuận; Những trang bị, vật tư, kỹ thuật, quyền sở hữu công nghiệp và những
vốn khác do bên nước ngoài đưa vào Việt Nam được các bên đánh giá cụ thể
để ghi vào phần bỏ vốn của bên nước ngoài; Sản phẩm làm ra sẽ được chia
giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài theo một tỷ lệ và trong suốt thời gian
do các bên thoả thuận. Phần sản phẩm được chia cho bên nước ngoài không
được tiêu thụ ở Việt Nam, trừ trường hợp bên Việt Nam yêu cầu để lại tiêu
thụ một phần hoặc tất cả ở trong nước.


18
Trong bối cảnh của nền kinh tế kế hoạch tập trung nhưng Điều lệ đầu
tư nước ngoài năm 1977 đã tạo ra một môi trường pháp lý đặc thù của một
nền kinh tế tự do đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy
nhiên, Điều lệ đầu tư nước ngoài chỉ là một văn bản dưới luật vì vậy nó không
tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ, có hiệu lực pháp lý cao. Thêm vào đó, hoàn
cảnh chính trị chưa ổn định trong giai đoạn này (đất nước ta phải đối phó với
những âm mưu phá hoại và xâm chiếm của các thế lực thù địch tại biên giới
phía Tây nam và biên giới phía Bắc, bị Hoa Kỳ bao vây, cấm vận kinh tế) đã
làm cho các nhà đầu tư không dám đầu tư vào Việt Nam. Kết quả là trong
suốt 10 năm (1977 - 1987) đất nước ta đã không thu hút được nguồn vốn nào
của nước ngoài. Thời gian này chỉ có một vài dự án đầu tư nhỏ nhưng khi thực hiện
dự án thì lại gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí còn bị huỷ bỏ hợp đồng.
Đứng trước bối cảnh đất nước như vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 đã đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế với quyết định phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Với quan điểm huy động tối đa các nguồn lực để
phát triển kinh tế, pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã từng bước được xây
dựng và hoàn thiện theo hướng ngày càng đảm bảo hành lang pháp lý an toàn,
thông thoáng cho các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Đối với hoạt động đầu tư

thuộc thành phần kinh tế nhà nước, Quyết định số 217/HĐBT ngày
14/11/1987 là văn bản pháp luật đầu tiên cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng
khóa VI về chuyển hoạt động của các cơ sở kinh tế quốc doanh sang hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Sau đó, trên cơ sở quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề
đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện mới. Bên


19
cạnh việc ban hành các chính sách nhằm huy động tối đa nguồn lực trong
nước, Đảng và Nhà nước ta đồng thời thực hiện chính sách tăng cường hợp
tác kinh tế quốc tế. Trong việc tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, việc
mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng.
Ngày 29/12/1987, tại kỳ họp thứ hai khóa VII, Quốc hội đã thông qua
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được
soạn thảo dựa trên nội dung cơ bản của Điều lệ đầu tư năm 1977, xuất phát từ
thực tiễn Việt nam và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới.
Với một nội dung tương đối hấp dẫn, cấu trúc đơn giản, đầy đủ và nhìn
chung phù hợp với tập quán luật pháp Quốc tế, Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1987 đã đáp ứng được mong mỏi của các nhà đầu tư nước
ngoài. Trong đó, hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm quy định trong
Điều lệ Đầu tư 1977 đã được các nhà lập pháp chuẩn hóa và hoàn thiện lại
thành hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Khi mới được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, hợp
đồng hợp tác kinh doanh chỉ có thể được ký kết và thực hiện giữa hai bên chủ
thể, bao gồm một bên nước ngoài và một bên Việt Nam. Để phù hợp hơn với
thực tiễn kinh doanh, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước
ngoài năm 1990 quy định: “Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký giữa
hai bên hoặc nhiều bên về hợp tác kinh doanh”[27, Điều 1]; và “Hai bên

hoặc nhiều bên được hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh như hợp tác sản xuất chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh
doanh khác.”[27, Điều 1]
Như vậy, có thể thấy Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và Luật sửa
đổi, bổ sung năm 1990 đã quy định khá rõ đặc trưng cơ bản của hợp đồng hợp
tác kinh doanh là các bên cùng góp vốn để kinh doanh, sau đó phân chia kết
quả kinh doanh và không thành lập một pháp nhân mới như hình thức liên


20
doanh. Mỗi Bên hợp doanh vẫn giữ pháp nhân riêng của mình và tự quản lý
thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo hai hệ thống luật pháp khác nhau. Bên
hợp doanh Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật trong
nước, Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp
Luật Đầu tư nước ngoài.
Do tác động bởi những thay đổi của nền kinh tế - xã hội, Luật đầu tư
nước ngoài năm 1987 tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào năm 1992 và được
thay thế bởi Luật đầu tư nước ngoài năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của luật đầu tư nước ngoài năm 2000. Luật đầu tư nước ngoài cùng
với các văn bản dưới luật đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo
luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo nên
một môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, khung pháp lý
song phương và đa phương liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng không
ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết 51 Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì vậy, ngay
trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà
đầu tư nước ngoài vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở
Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có nền
kinh tế thị trường truyền thống.

Qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung, hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được
quy định ngày càng chi tiết, phù hợp với thực tiễn hơn. Chính vì vậy đã
góp phần tăng tính hấp dẫn của hình thức đầu tư đối với các nhà đầu tư,
góp phần quan trọng trong việc tăng tổng số vốn đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài vào Việt Nam. “Tính đến hết tháng 12 năm 2000, nước ta có 130 dự
án theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh còn hoạt động với tổng vốn
đầu tư 3,8 tỉ USD, chiếm 5% số dự án đầu tư đang hoạt động tại thời điểm đó
và 10,5 % vốn đầu tư”.[18]

×