Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Nhân vật tái xuất hiện trong tác phẩm của Honore de balzac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________________






Hoàng Trung Thông




NHÂN VẬT TÁI XUẤT HIỆN TRONG
TÁC PHẨM CỦA HONORÉ DE BALZAC


Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. NGUYỄN THỊ ANH THẢO






Thành phố Hồ Chí Minh – 2008














LỜI CẢM ƠN
*******
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn đến:
- Ban Giám hiệu; Phòng nghiên cứu Khoa học Công nghệ –
Sau đại học; Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Lãnh đạo Sở GD & ĐT Bình Thuận và Trường THPT Hàm
Thuận Nam – Bình Thuận,

- Gia đình và bạn bè.
Và đặc biệt chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến Ts. Nguyễn Thị Anh Thảo đã tận tình hướng dẫn người viết
trong suốt quá trình làm luận văn.








MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Honoré de Balzac (1799 – 1850) là nhà tiểu thuyết lớn thế kỷ XIX, đại
văn hào của văn chương Pháp nói riêng và của cả thế giới nói chung. Thật khó
hình dung diện mạo văn học thế giới nếu như thiếu đi khuôn mặt của “bậc thầy
của chủ nghĩa hiện thực” này. Thành tựu nổi bật trong văn nghiệp Balzac, Tấn
trò đời, đã được lấy làm
khuôn mẫu cho một khuynh hướng văn học khai sinh
sau khi nhà văn qua đời: khuynh hướng văn học hiện thực mang sắc thái phê
phán, hay còn gọi là Chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Balzac là một trong số các tác giả Pháp có mặt sớm nhất ở Việt Nam.
Kể từ năm 1917, khi Nguyễn Văn Vĩnh dịch và công bố Miếng da lừa trên
Đông Dương tạp chí, tác phẩm của Balzac lần lượt được giới thiệu ngày càng

nhiều. Balzac cũng trở thành một trong các tác giả văn học nước ngoài quan
trọng trong chương trình từ bậc phổ thông cho tới bậc đại học, và là một tác
giả thu hút được sự quan tâm nghiên cứu về nhiều mặt ở nước ta.
Bộ Tấn trò đời của Balzac là một “thiên hà độc đáo”, đồ sộ, phong phú

và có “vô số nẻo vào”, giúp cho mỗi thời đại có cách riêng để đến với ông.

Giới nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam không biết đã tốn bao nhiêu thời
gian và bút mực để khám phá thế giới khổng lồ, nhiều chiều, nhiều dạng mà
Balzac đã thể hiện trong bộ tác phẩm này. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy có
một vấn đề dù được rất nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận nhưng cho đến nay vẫn
chưa có một công trình nào chuyên tâm đi sâu nghiên cứu đó là thủ pháp cho
nhân vật xuất hiện trong nhiều tác phẩm khác nhau: nhân vật tái xuất hiện.
Trong khi đây là một trong những sáng tạo nổi bật nhất, thành công nhất của
Bal
zac, vì nó mà chính tác giả đã sung sướng reo lên “tôi đang trở thành thiên
tài”. Số lượng nhân vật được tái hiện rất lớn, biểu hiện của nó rất sinh động và
hiệu quả nghệ thuật của nó cũng vô cùng sâu sắc.


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Honoré de Balzac sáng tác nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện
ngắn, kịch và nhiều bài tiểu luận, phê bình cùng hàng trăm lá thư có giá trị.
Nếu tính toàn bộ sự nghiệp văn chương thì số lượng tác phẩm là rất lớn từ khi
ông hoàn thành vở kịch đầu tiên cho đến khi cuốn tiểu thuyết cuối cùng ra đời.
Tuy nhiên giá trị nhất, và được mọi người nhắc đến nhiều nhất vẫn là những
tác phẩm được viết với bút danh Honoré
de Balzac, những tác phẩm được tập
hợp dưới nhan đề Tấn trò đời. Vì vậy, có thể nói Tấn trò đời là linh hồn, là đại
diện cho toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Balzac. Tấn trò đời của Honoré de
Balzac là một công trình đồ sộ với gần 100 tác phẩm gồm cả tiểu thuyết,
truyện vừa và truyện ngắn. Ở Việt Nam, lần lượt nhiều tác phẩm đã được xuất
bản (bằng tiếng Việt hoặc song ngữ Pháp - Việt) một cách riêng rẽ như Miếng
da lừa, Lão Goriot, Eugénie Grandet, Ảo tưởng tiêu tan, Vinh và nhục của
kỹ nữ, Hoa huệ trong thung, Gobseck, Chị họ Bette … Năm

1999, nhân dịp
kỷ niệm 200 năm ngày sinh tác giả, Nhà xuất bản thế giới bắt đầu cho ra mắt
bộ sách Tấn trò đời tập hợp tất cả các s
áng tác đã được dịch từ trước đến lúc
bấy giờ và tóm tắt trích dịch nhiều sáng tác khác. Công trình này hoàn thành
năm 2001 gồm 15 tập với sự giới thiệu 69 tác phẩm. Tính cả một số tác phẩm
được dịch và công bố riêng rẽ khác, cho đến nay đã có khoảng 30 sáng tác của
Balzac đã được dịch trọn vẹn sang tiếng Việt.
Do những khó khăn nhất định trong tiếp cận tài liệu, chúng tôi chọn
nghiên cứu những sáng tác đã được dịch như đã nêu ở trên làm
đối tượng
nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tôi đặt trọng tâm vào các tác phẩm có kiểu nhân
vật tái xuất hiện, đặc biêt là những nhân vật có vai trò quan trọng trong các tác
thẩm quan trọng của Tấn trò đời như: Lão Goriot, Ảo tưởng tiêu tan, Luật
đình chỉ, Gobseck, Vinh và nhục của kỹ nữ, Chị họ Bette, Nhà ngân hàng
Nucingen, Đại biểu xứ Arcis v.v… Để đảm bảo tính thống nhất, chúng t
ôi sử

dụng tên tác phẩm, tên nhân vật, địa danh … theo cách thể hiện trong bộ Tấn
trò đời của Nhà xuất bản thế giới như đã trình bày ở trên.
Theo tên gọi của luận văn, đề tài hướng đến đối tượng là kiểu nhân vật
tái xuất hiện trong tác phẩm của Honoré de Balzac. Tuy nhiên như trên đã nói,
khái niệm “tác phẩm của Honoré de Blazac” gần như là đồng nghĩa với khái
niệm “Tấn trò đời”, cho nên cũng có thể gọi đề tài theo một cách khác:
Nhân
vật tái xuất hiện trong Tấn trò đời của Honoré de Balzac. Mặt khác, chúng
tôi chưa đặt ra nhiệm vụ khảo sát toàn bộ các nhân vật tái xuất hiện trong bộ
tác phẩm này mà chỉ dừng lại ở một số nhân vật tiêu biểu, có tính điển hình ở
một số tác phẩm nhất định.
3. Lịch sử vấn đề:

Tác phẩm của Balzac đã được giới nghi
ên cứu, phê bình ở Pháp cũng
như ở các nước, trong đó có Việt Nam quan tâm. Và hiện nay trên thế giới có
hàng vạn công trình nghiên cứu đến giá trị tác phẩm của ông. Có lẽ Balzac là
một trong số không nhiều văn hào nhận được sự quan tâm đặc biệt như vậy.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã có Hội nghiên cứu Balzac. Thật khó mà
liệt kê hết số lượng các công trình nghiên cứu Balzac và Tấn trò đời ở nhiều
phương diện khác nhau. Do vậy, trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn, chúng
tôi chỉ điểm qua những nhận định có liên quan trực t
iếp đến đề tài đã chọn.
3.1. Hệ thống các ý kiến liên quan đến đề tài:
3.1.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu nước ngoài:
Khi phát hiện ra thủ pháp tái xuất hiện nhân vật, chính Balzac đã ý thức
được giá trị đặc biệt quan trọng của nó, xem đây là một bước ngoặt quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của mình khi
tuyên bố hào sảng: “Tôi đang trở thành
thiên tài!”. Tuy nhiên phải sang thế kỷ XX thì giới nghiên cứu mới thực sự có
những ý kiến nhận định trực tiếp đến giá trị của thủ pháp này. Người đầu tiên
ghi nhận sự có mặt của nhân vật tái xuất hiện trong Tấn trò đời có lẽ là Marcel
Proust, năm 1908 trong Chống Sainte – Beuve đặc biệt nêu rõ và nhấn mạnh

“tính thống nhất nội tại, không giả mạo” của Tấn trò đời. Ông rất khâm phục
biện pháp cho nhân vật trở đi trở lại trong tác phẩm và đã gọi đó là biện pháp
“tái xuất hiện nhân vật”, mặc dù trong bài viết này, Marcel Proust đã chê
Balzac đã “không nhận ra tính độc lập và kích thước mĩ học của tác phẩm văn
chương, không phân ranh giới giữa cuộc sống thực và cuộc sống tưởng
tượng”[52, tr.24].
Năm 1929, cũng Marcel Proust
khi chú thích và giới thiệu Tấn trò đời
đã nhận định rằng thủ pháp cho nhân vật xuất hiện nhiều lần trước độc giả

khiến những nhân vật như Rastignac v.v…“có sức mãnh liệt không gì sánh
nổi”, nhà văn áp đặt cho người đọc hình tượng mạnh đến “ám ảnh, làm ta
thấm sâu tận đáy tâm can ý nghĩa đặc biệt của nó”[50, tr.335-336]. André
Mourois t
rong Prométhée on La vie de Balzac năm 1965 phát hiện ra rằng
biện pháp tái xuất hiện nhân vật cho nhân vật thêm một chiều thứ tư là “chiều
sâu không gian”[50, tr.336]. Còn André Wurmser trong La Conmédie
Humaine năm 1970 dù cho Balzac “không có phong cách” nhưng cũng phải
thừa nhận thủ pháp tái xuất hiện nhân vật làm cho Tấn trò đời không chỉ như
một bức họa, mà gần với một công trình điêu khắc, có ba chiều không gian
như thế giới thực.
Năm 1997, trong Lịch sử văn học Pháp, một công trình rất có giá trị,
nhà nghiê
n cứu Xavier Darcos đã đưa ra con số 515 nhân vật được tái xuất
hiện trong Tấn trò đời. Đặc biệt ông đã đưa ra ba lý do “biện minh” cho “sự
xuất hiện của cùng một nhân vật qua nhiều truyện”: “Bởi khả năng vẽ ra một
chân dung hoàn chỉnh, được soi sáng dưới nhiều góc độ; Bởi ý muốn biến
thành khả tín những nhân vật đường như được phó thác một đời sống độc lập,
có lịch sử, thoát
ra khỏi tính ngẫu hứng phóng túng của người tạo ra chúng;
Bởi thị hiếu của Balzac đối với sân khấu: nhân vật biến vào hậu trường giữa
hai cảnh, nhưng vẫn tiếp tục hiện hữu trong ý thức của khán giả”[20, tr.399].

Rose Torrassier trong Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX năm 1999 dù không
trực tiếp nhắc đến khái niệm Nhân vật tái xuất hiện, nhưng có viết: “…thế giới
được tái tạo này sẽ hiện ra trước mắt người đọc dưới những góc độ khác nhau
tuỳ theo trình tự đọc (…), có thể theo dõi một nhân vật được chú ý nào đó từ
tiểu thuyết này sang tiểu thuyết khác v.v…(…). Cũng một nhân vật, ở đây
chúng ta có môi trường sống của y, đằng kia các bước khởi đầu, đằng ki
a nữa

kết cục cuộc đời y, ở đó, các câu chuyện, các tâm sự, các cuộc đời thực, các
điều phát hiện, các bài báo “về truyện người chết”, tất cả rất lâu về sau mới
tạo thành lý lịch của những người mà chúng ta tưởng đã thân thuộc. Và trong
Tấn trò đời như trong đời thực (…). Balzac đề nghị chúng ta xoay quanh nhân
vật, đồng thời thay đổi điểm nhìn một cách hiện đại…”[54, tr.58-59]
.
3.1.2. Ý kiến của các nhà nghiên cứu trong nước.
Ở Việt Nam, từ khi Balzac được truyền bá, nhất là từ những năm 1960,
nhiều nhà nghiên cứu cũng đã rất quan tâm đến thủ pháp nghệ thuật độc đáo
này.
Năm 1968, trong bài Nhân đọc “Lời giới thiệu” tiểu thuyết “Lão
Gôriô” trên Tạp chí văn học số 6, Đỗ Đức Dục đã nhắc đến nhân vật tái xuất
hiện trong Lão Goriot. Tác giả bài viết có dừng lại khảo sát hai hình tượng
nhân vật trong tác phẩm
này mà sau đó còn xuất hiện nhiều trong các tác phẩm
khác là Vautrin và Rastignac, đồng thời kèm theo một số nhận định hết sức
khái quát về hai nhân vật này. Với Rastignac thì những lần xuất hiện của anh
ta thể hiện “tấn bi kịch của Raxtinhac nói riêng và cũng là của thanh niên nói
chung trong cái xã hội sùng bái con Bê vàng”[23, tr.72]. Quá trình xuất hiện
của anh ta trong Tấn trò đời là “quá trì
nh anh ta tiếp thu sự giáo dục của xã
hội tư sản – quý tộc, hay, nói đúng hơn, đó là quá trình suy đồi”[23, tr.71].
Còn với Vautrin thì “nói đến ý nghĩa xã hội của tiểu thuyết Lão Gôriô, cũng
như của Tấn trò đời nói chung, không thể bỏ qua được vai trò của nhân vật
Vôtơranh”[23, tr.71]. Tác giả bài báo cũng đã khái quát quá trình xuất hiện của

nhân vật này từ một tên tù vượt ngục trở thành trùm cảnh sát của chính quyền
tư sản.
Lê Hồng Sâm, một chuyên gia về Balzac ở Việt Nam, năm 1985, trong
công trình công phu Văn học lãng mạn và hiện thực phương Tây thế kỷ XIX

có dành hai trang để viết về thủ pháp xây dựng nhân vật này và hiệu quả của
nó. Tác giả nhắc lại ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đánh giá về
nghệ thuật tái hiện nhân vật trước khi đưa ra nhận định của m
ình: “Phần lớn
tái hiện ở bình diện thứ hai, thứ ba, làm nền cho nhân vật chính”[50, tr.336],
nhưng “phát kiến của Balzac cho phép miêu tả nhân vật trong nhiều mối quan
hệ phức tạp, trong tính đa dạng và sự vận động. Cuộc sống của nhân vật
không kết thúc cùng với sự kết thúc xung đột mà còn tiếp tục với nhiều thắng
lợi và thất bại, nhiều niềm vui hay nỗi buồn. Bởi vì cuộc sống xã hội vẫn tiếp
diễn, mâu thuẫn và đấu tranh vẫn tiếp diễn, xung đột được giải quyết, ở
trường hợp này, bộ phận này, lại bùng nổ ở trường hợp khác, bộ phận khác.
Nhân vật là một thành viên của xã hội, sự kết thúc xung đột ri
êng tư không hề
chấm dứt xung đột ở quy mô toàn xã hội”[50, tr.337]. Đến năm
1999, bài viết
Balzac và bộ Tấn trò đời trên Tạp chí văn học nước ngoài, số 6, tiếp tục nhắc
lại những ý kiến trên, ngoài ra tác giả còn nhấn mạnh đến tác dụng của thủ
pháp này trong việc nối kết các tác phẩm “tạo nên mối liên hệ nội tại giữa các
đơn vị của tổng thể toàn vẹn và duy nhất là Tấn trò đời”[51, tr.13].
Trong mục Tấn trò đời của Tuyển tập Tác gia tác phẩm văn học nước
ngoài trong nhà trường, Lê Nguyên Cẩn nhấn mạnh đến hiệu quả của thủ
pháp tái xuất hiện nhân vật là “tái hiện một xã hội đang vận động, một cuộc
sống ồn ào nhộn nhịp, đông đúc. Xã hội trở thành một dòng sông đời vận động
không ngừng, không đầu, không cuối”[57, tr.444]
. Các nhân vật tái xuất hiện
đã cùng các nhân vật khác tạo thành “một chỉnh thể nghệ th
uật độc đáo được
gắn kết chặt chẽ bởi cái nhìn duy vật và quyết định luận lịch sử” [57, tr.444].
Cũng tác giả này trong chuyên luận Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac năm


2002 có bàn đến mối quan hệ giữa cái kỳ ảo và thủ pháp nhân vật “trở đi trở
lại”. Ở đây Lê Nguyên Cẩn chỉ khảo sát hai nhân vật “trở đi trở lại” là
Valentin de Raphael trong Miếng da lừa và Người tuẫn nạn không biết tới,
và nhân vật Louis Lambert trong các tác phẩm Người tuẫn nạn không biết tới,
Linh mục thành Tours, Ảo tưởng tiêu tan …Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ đề
cập rất sơ lược đến yếu tố kỳ ảo chứ không xem
xét hai nhân vật này là những
đối tượng nghiên cứu độc lập.
Thái Thu Lan trong Những tác gia lớn của văn học Pháp thế kỷ XIX,
phần về Honoré de Balzac nhắc lại số lượng 515 nhân vật tái xuất hiện trong
Tấn trò đời và có nhận xét: “Thủ pháp này được ứng dụng một cách hiệu quả,
trước hết là tạo được bức chân dung hoàn chỉnh cho nhân vật và gây được
không khí
của sân khấu trò đời (…) tạo được sự chặt chẽ và liên hoàn về cấu
trúc tác phẩm làm cho mỗi thiên tiểu thuyết như là một chương của bộ Tấn trò
đời và bộ truyện trở thành “một thế giới hoàn chỉnh”, sống động, vô tận”[38,
tr.165]. Bà cũng nêu ý kiến rằng, những nhân vật xuất hiện một lần như lão
Grandet, lão Goriot, già Séchard, anh họ Pous, chị họ Bette v.v… “có số phận
kết thúc rõ ràng, còn lại là một hệ thống nhân vật c
huyển động, thay hình đổi
dạng, “lên voi xuống chó” do hoàn cảnh xoay vần. Trong số các nhân vật ấy,
Horace Bianchon có vai trò chứng nhân và cả “xúc tác” cho nhiều biến động,
xuất hiện nhiều nhất, trong 30 tác phẩm”[38, tr.157].
Nhà nghiên cứu có nhiều ý kiến nhất về thủ pháp tái xuất hiện nhân vật
của Balzac có lẽ là chuyên gia về văn học Pháp Đặng Anh Đào. Trong gợi ý
giảng dạy đoạn trích Đám tang lão Gôriô trong Sách giáo viên, Tài liệu giáo
khoa thí
điểm văn học lớp 11 (Tập 2, Ban khoa học xã hội, NXB Giáo dục,
1996) bà đã nhấn mạnh đến thủ pháp tái xuất hiện nhân vật trong việc xây
dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình thông qua hình tượng

Rastignac qua năm tác phẩm Lão Goriot, Miếng da lừa, Ảo tưởng tiêu tan,

Nhà ngân hàng Nucingen, Nghị viên miền Arcis. Và cách tiếp cận này của
tác giả cũng được nhất quán trong nhiều công trình, bài viết sau này của bà.
Trong giáo trình Văn học phương Tây, ở chương về Balzac, Đặng Anh
Đào nhắc lại ý đồ của Balzac khi viết Tấn trò đời là viết nên “bộ Nghìn lẻ một
đêm của phương Tây”, “muốn ganh đua với hộ tịch”, “muốn rằng không phải
chỉ viết nên một cuốn sách, mà cả một thế giới: về điểm này, quả thật, Balzac
không những đã vượt hơn Napôlêông mà còn vượt trên tài sức sáng tạo của
Đức Chúa! Để thực hiện ý đồ này, Banzăc đã sáng tạo ra một thủ pháp nghệ
thuật, mà chỉ với quy mô tác phẩm đồ sộ đến như thế, mới có thể vận dụng nổi:
đó chính l
à thủ pháp cho nhân vật trở đi trở lại
qua nhiều tác phẩm. Với thủ
pháp này, “mỗi thiên tiểu thuyết sẽ chỉ là một chương trong Tấn trò đời”, và
toàn bộ Tấn trò đời càng gợi thêm cảm giác “về một thế giới hoàn chỉnh”[47,
tr.536]. Tác giả cũng chứng minh sự phát triển của tính cách trong mối liên hệ
với hoàn cảnh ở nhân vật Rastignac trong tài liệu đã nêu ở trên trước khi tiếp
tục có những nhận định xác đáng đối với g
iá trị của thủ pháp xây dựng nhân
vật này. Bà khẳng định thủ pháp này “có ý nghĩa cách tân, thể hiện được cái
nhìn, tài năng hiện thực của nhà văn; một mặt, nó đặt nhân vật trong mối liên
hệ với nhiều hoàn cảnh, thể hiện được sự vận động tư thân của tính cách; mặt
khác nó gợi cảm giác giống như ta đang đứng trước cuộc đời thật, sôi động
không bao giờ ngừng”[47, tr.538]
và “không phải bất kỳ ai cũng có thể sử
dụng thủ pháp này. Ở Balzac, sở dĩ có sức mạnh, bởi nó gắn liền với cái nhìn
cuộc sống trong tổng thể, trong những mối liên hệ biện chứng không thể chia
cắt”[47, tr.538]. Tiếp theo, tác giả có nêu ý kiến: “Do thủ pháp tái xuất hiện
nhân vật nên “cuốn này nối với cuốn khác” khiến “lịch sử của cái xã hội hư

cấu giống hệt như một thế giới hoàn c
hỉnh”. Từ đó, khái niệm về nhân vật
chính, phụ cũng thay đổi: có những nhân vật chỉ là phụ trong nhiều cuốn
truyện, nhưng lại là nhân vật chính của toàn bộ Tấn trò đời”[47, tr.548].

Cũng Đặng Anh Đào, trong chuyên luận Banzăc và cuộc săn tìm nhân
vật chính diện trong bộ Tấn trò đời, ở chương V có tựa đề Ảo ảnh, chất thơ
và bi kịch bên cạnh những nhân vật tái xuất hiện đã dành một đoạn khá dài
nói về “một nét độc đáo của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Tấn trò đời:
sự trở đi trở lại của một số nhân vật qua nhiều thiên tiểu thuyết khác
nhau”[26, tr.85]
. Sau khi nhận định: “Những bài nghiên cứu của chúng ta cho
tới nay chưa chú ý đến thủ pháp nghệ thuật độc đáo này”[26, tr.85], tác giả
nhấn mạnh đến tính tiên phong của Balzac, coi đây là một bước cách tân có ý
nghĩa sâu sắc của ông: “Rõ ràng đây không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật lặt
vặt, sở dĩ nó biểu hiện được công lao cách tân của tiểu thuyết, chính l
à do nó
thể hiện những quan điểm nghệ thuật của Banzăc: Banzăc cho rằng sử dụng
biện pháp này, tính chất giống sự thật của cuộc đời trong tiểu thuyết sẽ tăng
thêm; nó sẽ là mối dây liên hệ làm nổi bật tính thống nhất của các thiên tiểu
thuyết, nó là cách nhìn cuộc sống trong sự tổng hợp, toàn vẹn”[ 26, tr.85-86].
Tác giả tiếp tục nhấn mạnh tác dụng của thủ pháp này trong việc tạo nên mối
quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách, bà viết: “Đặt một tính cách trong mối
liên hệ với nhiều hoàn cảnh khác nhau,
thủ pháp này làm rõ tác động của
hoàn cảnh đối với tính cách”[26, tr.86]. Mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính
cách qua quá trình tái xuất hiện của nhân vật như vậy là “quá trình phản diện
hoá nhân vật”. “Chính nhờ thủ pháp nghệ thuật tái xuất hiện nhân vật mà sự
sa đọa của con người,
sự mất dần những phẩm chất chính diện được biểu hiện

như một kết quả của quá trình liên hệ giữa tính cách và hoàn cảnh”[26, tr.86].
Cuối đoạn này, tác giả nhấn mạnh: “Đây không chỉ là một thủ pháp nghệ
thuật. Nếu chỉ có vậy, ông không thể trở thành thiên tài. Vấn đề ở đây là biểu
hiện một cách nhìn: tính cách trong mối liên hệ với hoàn cảnh. Nếu đối với
nhân vật chính diện,
nó có dẫn đến những số phận bi thảm, hoặc những kết
thúc giàu sang nhưng đáng buồn cho nhân phẩm, thì chúng ta đừng trách rằng
nó không đẹp. Sự thật là sự thật, thế thôi”[26, tr.87-88].

Trong cuốn Ô. Đơ. Banzăc và một thế giới đang bước đi, tác giả Đặng
Anh Đào viết: “Một sáng tạo khác nữa của Banzăc là, từ cuốn Lão Gôriô, ông
nối liền các truyện của mình bằng cách cho nhân vật trở đi trở lại trong nhiều
tác phẩm. Quả là nhờ cách này, Balzac có thể đạt tới ý đồ thể hiện “lịch sử”,
“quy luật” của nhân vật: có thể ở một góc nào đó của Tấn trò đời, ta thấy
nhân vật đang ở thời “hưng thịnh”, để rồi ở một
góc khác, ta thấy “sự suy
đồi” của họ ngày mai”[27, tr.16]. Bà cũng nhắc lại ý kiến của mình rằng nhân
vật tái xuất hiện “đã làm biến đổi cả khái niệm nhân vật chính, phụ của truyền
thống” và nhắc lại ý kiến của Nicon Moze: “Đối với độc giả đọc Tấn trò đời
trong tổng thể, những khái niệm “nhân vật chính” và “nhân vật phụ” nhanh
chóng mất hết ý nghĩa, bởi những nhân vật thường được gọi là phụ có
lẽ lại
chính là nhân vật mang lại cho tác phẩm đầy ấn tượng kia một bề dày và ý
nghĩa thực sự của nó”[27, tr.16-17]. Sau đó tác giả lấy hai nhân vật tái xuất
hiện tiêu biểu của Tấn trò đời là Horace Bianchon và Vautrin để chứng minh
cho những luận điểm của mình.
3.2. Nhận xét:
Dù đánh giá về Balzac và bộ Tấn trò đời của ông còn có những điểm
chưa thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, bởi những nguyên nhân khác nhau,


cả khách quan lẫn chủ quan, thì hầu như tất thảy đều thừa nhận việc cho nhân
vật trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm là một sáng tạo vô song, mang tính tiên
phong. Thủ pháp này góp phần đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng t
ên tuổi
cho tác giả và thanh thế cho tấn “hài kịch của nhân gian”.
Con số thống kê cụ thể có thể khác nhau nhưng nhìn chung, số lượng
nhân vật được tái xuất hiện mà các nhà nghiên cứu thống nhất là trên 500 trong
tổng số hơn 2000 nhân vật của Tấn trò đời. Đây là một con số lớn trong một
con số lớn. Điều này nói lên rằng thế giới các nhân vật trở đi trở lại rất n
hộn
nhịp, Tấn trò đời là một ngôi nhà chung để họ xuất hiện rồi tạm biệt, lại xuất
hiện rồi tạm biệt …

Việc sáng tạo ra thủ pháp nhân vật này đưa đến hiệu quả sâu sắc cho
Tấn trò đời: liên kết các tác phẩm thành một bộ tiểu thuyết thống nhất; khắc
họa những con người hoàn chỉnh, có chiều sâu lịch sử; miêu tả được một thế
giới đang vận động không ngừng nghỉ như thế giới thực đang bước đi; đề xuất
những quan niệm mới về nhân vật chính, phụ trong tác phẩm văn học v.v…

Tuy nhiên, cho đến nay việc khảo sát nhân vật tái xuất hiện của Tấn trò
đời theo nghĩa cho xứng đáng với vai trò của nó thì đang còn rất hạn chế, việc
nghiên cứu hiệu quả của thủ pháp này cũng như vậy, ít nhất là ở những tư liệu
mà chúng tôi tiếp cận được. Có thể khẳng định rằng chưa có một chuyên luận
nào đi sâu nghiên cứu đề tài này. Vì vậy, việc khám phá một cách có hệ thống
những nhân vật tái xuất hiện trong Tấn trò đời chắc chắn sẽ hé mở nhiều điều
thú vị và có giá trị khoa học.
4. Nhiệm vụ k
hoa học:
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Bên cạnh việc hiểu kỹ thêm về Honoré de Balzac, một tác gia lớn của

văn học Pháp cũng như văn học thế giới, luận văn m
uốn đi sâu nghiên cứu một
trong những đặc sắc nhất trong thế giới nghệ thuật của tác giả là thủ pháp cho
nhân vật trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm khác nhau, mà chúng tôi dùng khái
niệm nhân vật tái xuất hiện như đề tài đã nêu trên. Thông qua khảo sát kiểu
nhân vật này trong một số tác phẩm tiêu biểu đã giới thiệu ở Việt Nam, chúng
tôi hướng đến việc đi sâu làm
rõ những giá trị nghệ thuật đặc sắc mà thủ pháp
này đưa lại cho Tấn trò đời, điều mà chưa có công trình nào thật sự thỏa mãn.
Luận văn không tách biệt nhân vật tái xuất hiện trong tổng thể thế giới nhân
vật của Tấn trò đời, cũng như không nhìn thủ pháp này dưới góc độ cô lập,
siêu hình mà luôn đặt trong mối tương quan với tổng thể nhân vật, với các
phương pháp nghệ th
uật nói chung của Balzac như miêu tả chi tiết đối tượng
miêu tả, nghệ thuật điển hình hoá v.v…


4.2. Đóng góp của luận văn:
Chúng tôi mong muốn đưa ra được một cái nhìn tổng thể, toàn diện, có
chiều sâu về hệ thống các nhân vật tái xuất hiện trong tác phẩm của Balzac hay
là trong Tấn trò đời, một thủ pháp nghệ thuật dù được nhiều nhà nghiên cứu
thừa nhận và ngợi khen nhưng vẫn có một lịch sử nghiên cứu khá khiêm tốn.
Từ đó góp phần hiểu thêm, một cách sâu sắc hơn thế giới nghệ thuật của Tấn
trò đời cũng như giá trị, vai trò của Balzac trong nghệ thuật văn chương.

Các nhân vật trong Tấn trò đời nói chung, nhân vật tái xuất hiện nói
riêng được Balzac xây dựng cách đây gần hai thế kỷ trong bối cảnh cụ thể là
nước Pháp thời kỳ diễn ra những biến động lịch sử nửa đầu thế kỷ XIX, tuy
nhiên cho đến nay những vấn đề liên quan đến thủ pháp nghệ thuật này vẫn c
ó

ý nghĩa thời sự đối với con người ở các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Tính thực tiễn của Tấn trò đời thể hiện qua các nhân vật tái xuất hiện ở
chỗ quá trình xuất hiện của các nhân vật là quá trình tương tác giữa tính cách
và hoàn cảnh. Do đó, để đánh giá tính cách, nói rộng hơn là nhân cách của một
con người, chúng ta phải căn cứ vào những biểu hiện khác nhau trong suốt quá

trình tồn tại của anh ta trong mối quan hệ với hoàn cảnh vốn vận động không
ngừng.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích – tổng hợp: phương pháp này được dùng để
khảo sát, phân loại các nhân vật tái xuất hiện, từ đó đi đến khái quát vấn đề
thành những nhận định mang tính tổng hợp; phân tích các biểu hiện của nhân
vật tái xuất hiện, những giá trị cơ bản mà thủ pháp nghệ thuật này m
ang lại cho
tác phẩm.
Phương pháp so sánh – đối chiếu: đặt nhân vật tái xuất hiện trong mối
tương quan với thế giới nhân vật nói chung trong Tấn trò đời để làm nổi bật
những giá trị của thủ pháp này. Ngoài ra cũng so sánh – đối chiếu giữa các

nhân vật được tái xuất hiện với nhau để tìm ra sự phân biệt giữa các tiểu loại
trong cùng một chủng loại.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả
và phương pháp lịch sử: không thể nghiên cứu nhân vật do tác giả sáng tạo ra
mà không nghiên cứu bản thân con người tác giả, mặt khác nhân vật tái xuất
hiện của Balzac có mối quan hệ gần gũi với hoàn cảnh xã hội – lịch sử.
6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài các phần Lời cảm ơn, Mục lục, Tài liệu tham k
hảo và Phụ lục,
luận văn này gồm có 131 trang, trong đó:
* Mở đầu (13 trang).

* Chương 1: Khái quát về thời đại và tác giả (35 trang).
* Chương 2: Hệ thống và phân tích một số nhân vật tái xuất hiện trong
tác phẩm của Balzac (52 trang).
* Chương 3: Hiệu quả nghệ thuật của thủ pháp tái xuất hiện nhân vật (28
trang).
* Kết luận (3 trang).












CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THỜI ĐẠI VÀ TÁC GIẢ
1.1. Nước Pháp thời đại Balzac.
Honoré de Balzac sinh năm 1799 – năm Napoléon Bonaparte thành lập
chế độ Tổng tài – và mất năm 1850 khi chế độ Cộng hòa II sắp kết thúc. Tức
là cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Balzac nằm trọn nửa đầu thế kỷ XIX,
những năm tháng ở Pháp – trái tim châu Âu – đang diễn ra những cuộc đấu
tranh chính trị quyết liệt, xã hội tư sản phát triển đến đỉnh cao và dần đi vào
khủng hoảng, con Bê vàng được đưa lên Bệ thờ, thói hãnh tiến và dục vọng cá
nhân làm
hoen ố bao giá trị đạo đức tinh thần. “Nếu như tuổi nhỏ của Balzac
trùng với thời Đế chế và những ngày tìm đường diễn ra dưới thời Trùng hưng
thì sự nghiệp sang tác của nhà văn khởi đầu và kết thúc gần như hoàn toàn

trong thời kì thống trị của bọn quý tộc tài chính” [50, tr.310]
.
1.1.1. Thời đại xã hội “xây dựng tượng đài cho đồng tiền”.
Sau cách mạng tư sản, vào buổi bình minh của thế kỷ XIX là thắng lợi
của chủ nghĩa tư bản ở Pháp. Cuộc cách mạng tư sản từ 1789 đã mở ra một
thời kỳ phát triển mới trong lịch sử nước Pháp nói riêng, toàn châu Âu nói
chung. Cuộc cách mạng cuối thế kỷ XVIII này cùng với nhiều cuộc đấu tranh
gay gắt khác đã thiết lập vững chắc chế độ cộng hòa. Có thể n
ói, thế kỷ XIX là
thế kỷ mà nước Pháp đã không ngừng hiện đại hóa, dần dần xuất hiện với
nhiều sáng tạo và đổi mới trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, xã hội,
kinh tế, khoa học, văn học nghệ thuật ... Nhưng đó cũng là quá trình củng cố
thế lực ch
o tư sản tài chính, củng cố thế lực cho đồng tiền vàng và biến nó trở
thành vị thần có sức mạnh tuyệt đối thống trị xã hội.
1.1.1.1. Những biến động lịch sử củng cố quyền lực cho giai cấp tư sản.
Thế kỷ XIX ở nước Pháp khác hẳn với các thế kỷ trước đó, với thế kỷ
sau đó, ở tính biến động, ở sự tiếp nối liên tục những thể chế chính trị hết sức
khác biệt. Lấy cuộc cách mạng tư sản vĩ đại 1789 làm
mốc khởi điểm, điến
nửa đầu thế kỷ

lúc Balzac qua đời – nước Pháp đã trải qua sáu cuộc biến cố

lớn về chế độ chính trị: Cộng hòa I (1789 – 1794), Đốc chính Tổng tài (1795 –
1804), Đế chế I (1804 – 1814), chế độ phục hồi vương chính (phong kiến
Trùng hưng: 1815 – 1830), chế độ Quân chủ tháng Bảy (1830 – 1845), chế độ
Cộng hòa II (1845 – 1852). Nước Pháp luôn ở trong tình trạng chiến tranh bởi
các cuộc chinh phạt nuôi mộng bá chủ châu Âu của Napoléon và những cuộc
nội chiến liên miên. Cùng với các cuộc chiến tranh và những cuộc cách mạng,

giai cấp tư sản từng bước thâu tóm quyền hành và áp đặt những chuẩn mực tư
sản toàn bộ đời sống xã hội. Cách mạng tư sản 1789 đưa bộ phận tư sản tài
chính của bọn chủ ngân hàng, chủ thuyền buôn, chủ mỏ, chủ đất, bọn đầu cơ,
cho vay nặng lãi ... lên nắm
chính quyền. Sau đó, là bọn tư sản công nghiệp
giành được ưu thế nhờ vào sự phản đối của nhân dân với c
hế độ cũ. Từ khi
Napoléon lên nắm quyền, giới tư sản tài chính càng có điều kiện làm giàu khi
trở thành chỗ dựa của ông ta. Dưới triều ông vua độc tài này, lợi ích của giai
cấp tư sản được đảm bảo. Napoléon chủ trương thành lập một chính phủ “giữ
những thành quả cách mạng có lợi cho giai cấp tư sản” và là “ chế độ quân
chủ tư sản với hoàng đế tập trung mọi quyền lực nhằm bảo vệ lợi ích của gi
ai
cấp tư sản thắng thế” [44, tr.80]. Cuộc cánh mạng tháng Bảy năm 1830 kết
thúc chế độ phong kiến và cũng đánh gục mọi sự vùng vẫy của giai cấp quý
tộc bảo hoàng để thực sự khẳng định quyền thống trị của giai cấp tư sản. Đứng
đầu chế độ Quân chủ t
háng Bảy là “ông vua của bọn con buôn” Louis
Philippe. Trong tiểu thuyết Chị họ Bette, Balzac viết: “Chính ngay Louis
Philippe cũng biết là bên trên bản hiến chương của ông còn có đồng tiền thần
thánh, tôn kính, kiên cố, khả ái, xinh đẹp, cao quý, trẻ trung, đồng trăm xu vạn
năng”[60, tr.283]. Đây thực sự là vương quyền của giai cấp tư sản, đem lại lợi
ích cho bộ phận tư sản ngân hàng thuộc dòng quý tộc Orléans. Không chỉ riêng
giai cấp tư sản mà hầu hết các tầng lớp cũng bị cuốn hút vào các vụ làm
ăn
buôn bán đầu cơ tích trữ. Bởi vì giai cấp tư sản đã thổi vào xã hội một không
khí trẻ trung, cường tráng, kích thích năng lực, mở nhiều viễn cảnh cho ý chí

và nỗ lực cá nhân để làm giàu. Kinh tế và công nghiệp, nhờ vào thành quả của
các phát minh khoa học, trên đà phát triển mạnh mẽ. Toàn bộ ưu thế về chính

trị cũng như ưu thế về kinh tế tập trung trong tay giai cấp tư sản. Tuy nhiên,
trong thực tế thì cũng như các thể chế trước đây, lợi ích thực sự chỉ tập trung
vào một bộ phận tư sản cầm quyền, nó tạo nên sự mâu thuẫn giữa bộ phận này
với các bộ phận tư sản còn lại và quần c
húng vô sản nên vì thế dẫn đến cuộc
cách mạng tháng 2 năm 1848, cuộc cách mạng của bộ phận tư sản có xu hướng
bảo hoàng, thiết lập chế độ Cộng hòa II. Cuộc cách mạng này không triệt tiêu
được những mâu thuẫn xã hội mà nó càng làm cho tính chất xung đột ngày
càng gay gắt hơn khi giai cấp công nhân thực sự bước lên vũ đài chính trị.
Đặc điểm chung của các cuộc cách mạng tư sản nửa đầu thế kỷ XIX ở
Pháp là bao giờ cũng bắt đầu bằng việc liên kết giữa giai cấp tư sản và quần
chúng chống lại bộ phận tư sản cầm
quyền nhằm giải quyết các quyền lợi bức
thiết nhất thời và kết thúc bằng sự thắng thế của một bộ phận tư sản khác, phản
bội lại quần chúng nhân dân, thiết lập một chính quyền mới phục vụ cho bộ
phận cầm quyền. Chính vì thế mà các cuộc cách mạng cứ liên tiếp nổ ra và
“với hai cuộc cách mạng tháng 7 và tháng 2 năm 1848 đã bổ sung cho đại
cách mạng tư sản P
háp 1789 – 1794, đưa giai cấp tư sản lên nắm quyền”[29,
tr.6].
Cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, phong t
rào đấu tranh xã
hội chống phong kiến và đòi quyền lợi đã đưa cách mạng tư sản Pháp “phát
triển theo hướng đi lên” tạo tiền đề cho sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản
giữa thế kỷ XIX không chỉ ở Pháp mà trên toàn châu Âu.
1.1.1.2. Sự phát triển của chủ nghĩa Tư bản.
“Có thể nói thế kỷ XIX là thời kỳ rẫy chết của những thế lực phong kiến
lỗi thời và là thời kỳ sinh sôi nảy nở của những sức mạnh mới với nhiều biến
động căng thẳng mở đầu cho thời kỳ hiện đại”[44, tr.79-80]
. Đó là thế kỷ diễn

ra sự đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa sự tiến bộ và phản động, giữa cách

mạng và phản cách mạng, để từ đó, chủ nghĩa tư bản ngày càng áp đảo chủ
nghĩa phong kiến và đến giữa thế kỷ thì thực sự là một phương thức sản xuất
xã hội hoàn toàn thay thế phương thức của chủ nghĩa phong kiến.
Nếu như trước cách mạng tư sản 1789, nước Pháp cơ bản vẫn còn là một
nước nông nghiệp lạc hậu thì sau khi các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra, nước
Pháp đã thay đổi nhanh chóng mọi mặt, đặc biệt là lĩnh vực công – t
hương
nghiệp. Chính thắng lợi của cách mạng tư sản 1789 đã đánh dấu mốc quan
trọng trong quá trình phát triển từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản
ở nước Pháp nói riêng và Tây Âu nói chung. Từ đây, Tây Âu đoạn tuyệt với
nhà nước phong kiến và thiết lập nhà nước tư sản. Đồng thời cũng từ giã nền
văn m
inh nông nghiệp để bước sang kỷ nguyên của văn minh công nghiệp với
tốc độ phát triển hết sức mau lẹ. Cũng có nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã định
hình và phát triển mạnh cùng các cuộc cách mạng tiếp theo đó. Biểu hiện rõ
nhất của trật tự tư sản được thể hiện ngay trong Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền, ở đó nêu khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”, xác lập quyền
tự do – dâ
n chủ –bình đẳng giữa các công dân nhưng đồng thời cũng khẳng
định quyền tư hữu tài sản là một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hiến
pháp 1791 đã bỏ tước vị cha truyền con nối của đẳng cấp quý tộc và Hiến pháp
1793 thì đã xóa bỏ hoàn toàn những đặc quyền phong kiến.
Mặc dù, trong nửa đầu thế kỷ XIX cũng có những thời điểm t
hể chế
phong kiến được thiết lập lại ở Pháp như giai đoạn 1815 – 1830, nhưng những
thành tựu của cách mạng tư sản thì không thể xóa bỏ được. Nước Pháp không
ngừng phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa và càng được tiếp thêm sức
mạnh từ các thành tựu khoa học kỷ thuật, nền kinh tế công nghiệp phát triển

rất nhanh và trở thành nền công nghiệp phát đạt hàng đầu ở Châu Âu từ thế kỷ
XIX. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản Pháp có đặc trưng chủ yếu là tư bản tài
chính hơn là tư bản công nghiệp. Do đặc thù của một đất nước nông nghiệp lâu
đời nên đã p
hần nào làm hạn chế tốc độ phát triển công nghiệp ở Pháp so với

các nước tư bản khác trong khu vực. Mặc dù những người đứng đầu chính
quyền tư sản như Napoléon cũng khuyến khích phát triển công thương nghiệp
và cuộc cách mạng công nghiệp cũng có diễn ra ở Pháp nhưng sức mạnh của
nó không thể lấn át được giới tư bản tài chính. Tư bản tài chính nắm trong tay
nhiều của cải lại bị kìm kẹp bởi các chính sách chuyên chế trong hoạt động sản
xuất như tư bản công nghiệp. Họ là các chủ nợ, chủ ngân hàng, kiếm lời bằng
cách cho n
hà nước và quý tộc vay lấy lãi. Các cuộc chiến tranh lớn, nhỏ cũng
tạo cơ hội thuận lợi cho bọn tư sản tài chính đầu cơ trục lợi, làm giàu nhanh
chóng.
Tuy rằng có sự phân chia thành các bộ phận khác nhau như đã nói ở trên
nhưng tất cả các bộ phận trong giai cấp tư sản đều có chung một mục đích là
đấu tranh chống lại đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến. Cùng với đó là
sự tiến bộ của khoa học và sự phát triển kinh tế đã đặt ra yêu cầu cho con
người là p
hải nhìn nhận lại quan điểm, tư tưởng phong kiến, nhà thờ, sự bất
bình đẳng trong xã hội. Trong môi trường tư do cạnh tranh, tầng lớp tư sản
công nghiệp sẽ luôn thấy bị gò bó trong những khuôn khổ của chế độ phong
kiến nên l
uôn có xu hướng đấu tranh để phá vỡ sự kìm kẹp đó, do vậy mà đây
luôn là lực lượng tiên phong của các cuộc cách mạng. Cho đến 1830, cuộc
cách mạng tháng Bảy thắng lợi đã thực sự thủ tiêu toàn bộ chế độ phong kiến
đang cố gắng cầm cự suốt 15 năm trước đó. Từ đó, chủ nghĩa tư bản đã thực sự
lớn mạnh và đến những năm

1850, chủ nghĩa tư bản đã như là một hình thức
tất yếu giành ưu thế trên toàn châu Âu.
Chủ nghĩa tư bản ra đời là một bước phát triển tích cực trong tiến trình
vận động của lịch sử, nó thúc đẩy xã hội tiếp tục phát triển sang một kỷ
nguyên mới đặc biệt là về kinh tế. Lực lượng sản xuất phát triển, tư liệu sản
xuất được cơ khí hóa, năng suất lao động tăng cao. Nền sản xuất được xã hội
hóa, chuyển từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại. Chính
vì thế, trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Marx và Engels đã đánh giá vai trò

của chủ nghĩa tư bản là “chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản
xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia
gộp lại”[41, tr.547].
Tuy nhiên, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng nảy sinh những mặt
trái với những hậu quả khôn lường. Về xã hội, nó thúc đẩy các
mâu thuẫn xã
hội ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hóa của nền sản xuất và sự chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất, các cuộc chiến tranh liên miên, đời sống bần cùng đói khát của tuyệt đại
đa số quần chúng nhân dân và vô số những ảnh hưởng tiêu cực khác. Về tư
tưởng, nó chi phối c
on người sống vì lợi nhuận, vì đồng tiền, biến con người
thành nô lệ của đồng tiền, làm tha hóa quan hệ tình cảm giữa con người và con
người kể cả những quan hệ vốn được xem là thiêng liêng nhất...
1.1.1.3. Đồng tiền vàng thống trị xã hội.
Do đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là đặt mục đích kinh tế lên hàng đầu
và chủ trương tự do cạnh tranh nên người ta sẵn sàng giẫm đạp lên nhau để đạt
được mục đích đó, để tồn tại và hơn thế là để thống trị. Mọi quan hệ lấy đồng
tiền làm
trung gian, mọi giá trị lấy đồng tiền làm chuẩn mực, mọi hành động
lấy đồng tiền làm mục đích. Trật tự tư bản đã phá vỡ những ranh giới tưởng

như bất biến bấy lâu nay trong xã hội phong kiến, bộ mặt đời sống xã hội bị
xáo trộn kinh khủng trong thời đại mới. Xã hội ngày càng đi vào con đường
thế tục hóa, mọi thứ đều được giải quyết, kể cả lương tâm
, bằng một thứ duy
nhất: đồng tiền. Quyền lực của đồng tiền không gì thay thế được, “đồng tiền là
quyền lực duy nhất bắt cái xã hội này phải quỳ gối”, “đồng trăm xu nằm dưới
đáy mọi lương tâm”[8, tr.194]
. Vì thế mà tất thảy mọi người, đàn ông, đàn bà,
người già, người trẻ, tất tần tật đều có một đam mê cháy bỏng là phải kiếm thật
nhiều tiền, “phải có tiền, dù chỉ để không cần đến nó”[26, tr.79].
Hiệu lệnh của xã hội tư bản chính là lời tuyên bố của một bộ trưởng
trong chính phủ “các anh hãy làm giàu đi”. Tham vọng giàu sang cho cá nhân

được coi như điều dĩ nhiên, chính đáng, thậm chí là một phẩm chất cần thiết
cho xã hội. Người ta tình nguyện lao vào vòng xoáy của cơn lốc làm giàu. Bởi
thế, duyệt lại đời mình trước khi chết, Julien Sorel (Đỏ và Đen của Stendhal)
đã nhận xét: “Tôi đã có tham vọng, tôi không muốn tự chê trách. Tôi đã hành
động theo những lẽ thích nghi của thời đại”[50, tr.340]. Cách mạng tư sản đã
thức tỉnh tham vọng của con người khi đã xóa bỏ những đặc quyền về dòng
dõi trong xã hội phong kiến, công bố quyền bình đẳng của mọi công dân, thực
chất là bình đẳng t
rong sự cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau, trong cuộc chay đua
làm giàu.
Trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, Marx phân tích như sau:
“Tiền có thuộc tính là có thể mua được tất cả mọi thứ, có thể chiếm hữu mọi
đối tượng do đó là đối tượng x
ét theo ý nghĩa tốt cao. Tính phổ biến ấy của
thuộc tính của chúng là tính vạn năng của bản chất của chúng, cho nên chúng
được nổi tiếng là vạn năng. Tiền là kẻ môi giới giữa nhu cầu và đối tượng,
giữa đời sống và tư liệu sinh hoạt của con người”[42, tr.81]. Như vậy, tiền có

thể giải quyết mọi thứ là điều hiển nhiên nhưng bản chất của đồng tiền không
phải là xấu. Việc con người sử dụng đồng tiền để thực hiện mục đích của mình

như thế nào lại là thuộc tính của xã hội. Hơn lúc nào hết, xã hội tư bản châu
Âu thế kỷ XIX đã đặt bệ phóng cuối cùng cho đồng tiền bước lên đài vinh
quang của nó. “Thời đại ta hơn ở thời đại nào hết, tiền tài ngự trị trên pháp
luật, chính trị và phong tục”[8, tr.297]. Đồng tiền trở thành mầm mống của
mọi thứ và biến mọi thứ trở thành hiện t
hực. Nó trở thành động lực của xã hội.
Người ta không quan tâm rằng người đó có năng lực gì hay không, có nhân
cách hay không, người ta chỉ muốn biết người đó có quyền hay không, có là
con thừa kế của một gia sản nào hay không. Có tiền là có tất cả. Các nhân vật
của Balzac tâm niệm rằng: “Phải có đồng trăm xu sáng ngời lộng lẫy để đi
chơi với người yêu”(Miếng da lừa); “Đồng tiền ban cho ta mọi thứ, kể cả
những đứa con” (Lão Goriot); “Đồng tiền là điểm tựa của trí t
hông minh” (Ảo

tưởng tiêu tan); “Có tiền mới có hạnh phúc, không thì là bánh vẽ” (Eugénie
Grandet) v.v... và có thể lưu tâm đến đoạn triết lý sau đây của lão già Gobseck
keo kiệt nói với luật sư Derville: “Nếu cậu đã sống nhiều bằng tôi, cậu sẽ biết
rằng chỉ có một vật chất duy nhất có giá trị khá rõ ràng khiến mọi người phải
bận tâm. Vật chất đó... là VÀNG. Vàng đại diện cho tất cả sức mạnh của con
người (
...); ở đâu cũng có sự chiến đấu giữa người nghèo và người giàu,
không đâu tránh khỏi; vậy thà làm kẻ bóc lột còn hơn làm người bị bóc
lột.(...). Thế thì vàng chứa đựng mầm mống của mọi thứ, và biến mọi thứ thành
hiện thực”[3, tr.343]. Cho đến Modeste Mitnon, thiếu nữ tế nhị và nhạy cảm
cũng thốt lên tự đáy lòng khi sắp lấy chồng “Cha ơi, hãy cho chúng con được
giàu có”... Lời nói của kẻ có tiền trở thành “khuôn vàng thước ngọc”. Có tiền
có thể mu

a những thứ con người ta không có. Marx đã chứng minh thật rõ ràng
điều ấy: “Tôi là người xấu xí, nhưng tôi có thể mua một người vợ tuyệt đẹp. Do
đó tôi không xấu, vì sự tác dụng của sự xấu xí, lực lượng đáng ghê tởm của nó
đã bị phủ định mất rồi. Xét về cá tính, tôi là một người què quặt nhưng tiền
cung cấp cho tôi 24 chân do đó tôi không què. Tôi là người xấu, nhưng tiền thì

được tôn kính, do đó người có tiền cũng được tôn kính. Tiền là điều thiện cao
nhất do đó người sở hữu nó cũng tốt ...Tôi là người không có trí tuệ, nhưng
tiền bạc là trí tuệ hiện thực của mọi sự vật – thì làm sao mà kẻ chiếm hữu nó
lại không có trí tuệ được ...”[42, tr.84].
Như nhận định của Engels, trong trật tự xã hội Pháp thế kỷ XIX, đồng
tiền “đã t
hay thế thanh kiếm, trở thành đòn bẩy của quyền lực xã hội”[50,
tr.350]. Với sức mạnh của mình, đồng tiền đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của
đời sống xã hội với sức tàn phá khủng khiếp. Nó phá hủy hàng loạt những giá
trị văn hóa tinh thần đã được thiết lập hàng ngàn năm trước đó. Đành rằng chế
độ phong kiến tất yếu phải đư
ợc thay thế một khi nó không còn phù hợp với
yêu cầu của cuộc sống nhưng những gí nó xây cất được về mặt đạo đức xã hội
là không thể phủ nhận. Bây giờ đồng tiền phá hủy tất cả: gia đình, tình yêu, tài

năng, đạo đức ... “Giai cấp tư sản đã cướp hết hào quang thần thánh của tất
cả những hoạt động mà xưa nay vẫn được trong vọng và tôn sùng. Y sĩ, luật
gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học thì giai cấp tư sản đã biến họ thành những người làm
thuê cho mình ... Giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn tính cảm bao phủ quan
hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy thành chỉ còn là những quan hệ tiền
nong đơn t
huần mà thôi”[41, tr.544]. Thậm chí trong hôn nhân thì hôn nhân tư
sản cũng dần thay thế kiểu hôn nhân phong kiến, nó cũng không xuất phát từ
tình yêu mà đã bị đồng tiền chi phối, người ta lấy nhau vì anh ta hay cô ta có

bao nhiêu là tài sản thừa kế, từ đó dẫn đến nạn ngoại tình như “một thể chế xã
hội”.
Xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ XIX cực kỳ hỗn loạn khi giai cấp tư sản
ngày càng thao túng quyền hành còn tầng lớp quý tộc phong kiến thì dù đã
thấy ngõ cụt của mình nhưng vẫn cố vùng vẫy và duy trì lối sống xa hoa cố
hữu. Để có tiền, họ chỉ còn cách duy nhất là bán tước vị để duy trì
cuộc sống
hưởng thụ cố hữu của mình, còn tầng lớp tư sản lại dùng tiền để để mua tước
vị nhằm củng cố thêm địa vị của m
ình và thỏa mãn thói “học làm sang”. Trong
bối cảnh đó, thế hệ thanh niên rơi vào trạng thái vỡ mộng, rồi để tồn tại, để trả
thù xã hội, họ mặc nhiên bị tiêm nhiễm căn bệnh hãnh tiến tham danh, tham vị,
tham tiền. Để làm giàu, người ta tìm đủ mọi cách, và không có cách nào có thể
xem là trong sạch. Sự giàu có đồng nghĩa với thủ đoạn, âm mưu, tàn nhẫn ...:
đầu cơ nhân nạn đói, cho vay nặng lãi, bóc lột thậm tệ, keo kiệt đến bệnh hoạn,
giết người, lừa đảo, làm
hàng giả, hàng lậu, ton hót nịnh bợ đàn bà v.v... “Bằng
con đường chính đáng hay không chính đáng, miễn sao đạt tới cảnh xa hoa,
hoan lạc, phù phiếm được coi như thiên đường ở trên trần thế, luyện qủa tim
thành gỗ đá, giày vò xác thịt để chắt lót những của cải chốc lát, tựa như ngày
xưu ta sống đày đọa,
khổ hạnh, để mưu cầu cảnh cực lạc thiên thu. Đó là tư
tưởng chung của mọi người ..., cái tư tưởng ấy là tư tưởng phổ biến, được
chép tràn mọi nơi, ngay đến trong luật pháp nhà nước nó cũng hiện ra”[5,

tr.297]. Như thế là đồng tiền đã hoàn tất công việc cuối cùng của nó: làm tha
hóa, biến chất con người. “Anh càng làm nhiều tiền bao nhiêu thì anh càng ít
làm người bấy nhiêu” (Marx). Đó là quy luật. Vì quyền lợi của mình, con
người trở nên vị kỷ, tham lam và độc ác với chính đồng loại của mình. “Thế là
bóng đen của chủ nghĩa tư bản đã bao phủ toàn bộ thế kỷ XIX” (Flaubert). Cái

bóng đen ấy đã được thực hiện bằng cách “Thay cho những giá trị từng được
cổ vũ trong thế kỷ trước, xã hội hôm nay đã dựng nên tượng đài
cho Đồng
tiền, kích động những dục vọng thấp hèn làm cho con người trở nên vị kỷ và
tàn nhẫn”[38, tr.22].
1.1.2. Thời đại của mâu thuẫn giai cấp và dục vọng cá nhân.
1.1.2.1. Những mâu thuẫn xã hội gay gắt.
Sự thay đổi liên tiếp sáu chế độ chính trị là minh chứng thuyết p
hục nhất
cho một nước Pháp luôn ở trong tình trạng xung đột gay gắt giữa các giai cấp,
các thế lực, các tập đoàn, các tư tưởng, trào lưu v.v... khác nhau. Theo quan
điểm triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn sẽ được giải quyết bằng đấu
tranh, nhưng rồi sau khi cách mạng thắng lợi lại nảy sinh mâu thuẫn mới giữa
giai cấp cầm quyền và lực lượng tham gia cách mạng bị phản bội. Cái vòng
xoáy ấy đã trở thành đặc trưng của các cuộc cách mạng ở Pháp nửa đầu thế kỷ
XIX. Và đó cũng chính là điểm đặc trưng nhất của xã hội Pháp lúc bấy giờ.
Có thể nói, chưa có lúc nào những m
âu thuẫn xã hội lại diễn ra gay gắt như
thời đại này.
Từ khi dòng vua Bourbons trở về nước, tình trạng tranh giành quyền lực
giữa hai giai cấp: giai cấp quý tộc – chiếm hữu ruộng đất, và giai cấp tư sản –
đã trở thành trọng t
âm của toàn bộ cuộc đấu tranh chính trị Pháp. Và từ 1830,
khi giai cấp công nhân thực sự ra đời thì quan hệ xã hội và đấu tranh giai cấp
đi tới hình thái đơn giản hóa nhất, đồng thời đạt mức độ sâu sắc, gay gắt nhất,
mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng đầu là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản. Trong hoàn cảnh ấy, nghệ sĩ có khả năng khám
phá bản chất của


×